← Quay lại trang sách

Hồi Thứ Một Trăm Mười Lăm Điềm trời hiện, Hồi Hồ định việc
Hoa Lư chiến, hủy diệt hung tàn

Mạc Sa Cảnh đem tin trình vào Quân sư. Quân sư bảo:

- Như thế, ông Thẩm Thụy Hùng vào Hồi Hồ ba ngày rồi đi Tam Đái. Cứ theo như tin trình thì ông Thẩm đã xong công việc, lúc này ta tiến binh là xong Hồi Hồ! Vậy ông cho tế tác hoạt động thật ráo riết ở cả hai mặt Hồi Hồ với Tam Đái!

- Quân sư ước tính khoảng bao nhiêu ngày thì có thể xong việc Hồi Hồ?

- Việc quân, người làm tướng phải biết đích xác việc mình làm, hiểu rõ ràng sức mình sức người. Lúc ấy đem binh đánh vào đâu và đánh thế nào chẳng qua là việc cuối cùng để chứng nghiệm việc quyết đoán của người làm tướng mà thôi. Vì vậy, cứ theo như những gì tế tác của ta biết, thấy rõ kết quả việc ông Thẩm vào Hồi Hồ. Thì kể từ khi binh ta tiến cho đến khi xong việc Hồi Hồ, ta tin chắc thời gian không quá tháng sáu này.

- Quân sư ước định khoảng ngày nào thì binh ta tiến vào Hồi Hồ?

- Tuy đã sửa soạn từ trước các mặt rồi, thì cũng phải từ ngày hai mươi này ta mới tiến binh được. Hôm nay là ngày mười bảy, còn năm ngày nữa để cho việc quân hành của ta bắt đầu. Sau Hồi Hồ ta phải lên Tam Đái ngay, không để cho Tam Đái kịp trở tay mới được. Vì thế ta không thể tiến binh ngay ngày mai được!

Ngay trong chiều hôm ấy, Quân sư vào gặp Vạn Thắng Vương trình bày mọi việc, lại nói:

- Bẩm trình Vương, việc Hồi Hồ như vậy đã yên. Bây giờ tôi xin Vương ban lệnh cho binh tướng của ta lại chuyển động, trước hết đánh vào Hồi Hồ, sau vượt dòng Bạch Hạc lên phía Bắc. Mọi việc khi còn ở Đan Phượng tôi đã trộm lệnh Vương dàn xếp cả rồi. Bây giờ tôi xin được mang các tướng trở lại Đan Phượng.

Vương rất hài lòng, liền truyền gióng trống triệu tập hết thảy các tướng đến soái phủ Hồi Hồ nghe lệnh. Trước trăm tướng cũ mới, Vương bảo:

- Các tướng, kể từ khi binh ta dứt xong phía Đông quay sang phía Tây, lần lượt binh tướng của ta lập được những kỳ công, vượt qua những trấn thành được kể là hùng mạnh vào bậc nhất. Có nơi chiến trận khốc liệt, có nơi thật đúng với binh thư đời xưa có dặn là “tướng tài không có chiến công”. Mưu trí tuyệt vời của ta đã qua được trấn ải Đồng Lư chẳng khác nào như người đi dạo cảnh lạ. Để cho tướng của ta vào thạch trận thảnh thơi như đi thăm chùa Đỉnh Sơn, vườn tre cũ của lão thần Lữ Gia, cho binh ta được đi Chợ Trời, rồi vào mừng lễ ở soái phủ Hồi Hồ này [→25] . Như vậy, quân lệnh của ta các tướng đã thi hành xong trọn vẹn, không để cho chủ trương cứu dân tộc đất nước của ta bị trắc trở. Ta khen các tướng, công lao ấy ta cho ghi lại để đợi ngày định công tưởng thưởng. Ta cũng cảm ơn các tướng đã về cả đây để mừng việc mới của ta, của gia đình ta. Bây giờ, là lúc ta lại tiếp tục công cuộc binh mã, nhất quyết trong năm nay phải xong đại cuộc. Đem giang sơn này thu về một mối, thống nhất các nơi cùng chung về một nguồn chăn dắt. Vì thế hôm nay ta triệu tập tất cả các tướng, trao cho tướng Ngô Nhật Khánh ở lại Hồi Hồ giữ việc trị an, vỗ về trăm họ. Còn các tướng khác đến ngày mười chín này, tức là hai ngày nữa thì ta lên đường về quân doanh để xem việc tiến quân. Các tướng được sửa soạn một ngày, sau đấy là bắt đầu mọi việc.

Các tướng vâng lệnh, thu xếp việc riêng. Quân sư lại cho lệnh là: Việc trở lại Đan Phượng, cũng như các việc quân khác. Các tướng dù đã được cắt đặt trách nhiệm rồi hay chưa được sai phái vào công việc nào, hết thảy phải giữ kín việc quân, mọi tiết lộ đều là có tội lớn. Các tướng luôn luôn phải giữ vững quân kỷ, không thể lấy cớ vô tình mà biện cãi cho mọi trường hợp tiết lộ quân cơ được. Nhờ nghiêm lệnh mà Hồi Hồ hay Tam Đái chẳng được biết chút gì về ý định của Hoa Lư. Tam Đái của Sứ quân Nguyễn Khoan chỉ được biết: Binh tướng Hoa Lư tranh đua khốc liệt với binh Hồi Hồ ở hai trấn ải Đồng Lư, Sài Sơn. Hoa Lư thiệt binh thiệt tướng nhiều lắm, việc quân đình trệ khó tiến được. Ở phía Bắc, binh Hoa Lư vướng phải trấn thành Đan Phượng của lão tướng Mộc Đường, thủy quân của Hoa Lư bị chặn không dám tiến lên, vì thế không có chiến trận trên sông Bạch Hạc. Còn đạo quân của Hoa Lư trước đem đến trấn ở Cung Thương như vậy là bị bơ vơ, sắp phải rút chạy về Tế Giang. Vì vậy, Tam Đái vững lòng, có thể Hoa Lư không còn sức để nhòm ngó Tam Đái. Hoa Lư khó giữ cho quân khỏi tan với trận đánh Đan Phượng.

Sở dĩ Tam Đái vui mừng với tin về chiến trận ở Hồi Hồ như vậy, ấy là nhờ tướng Tế sứ Mạc Sa Cảnh cho người ra sức tuần canh không để cho một người tế tác nào của Tam Đái hay Phong Châu có thể đi lọt xuống phía Nam. Lại nỗ lực phao những tin như vậy ở Tam Đái, và ở Phong Châu thì người của Cảnh hợp sức với tướng quân Lưu Cơ từ Cổ Loa dồn vào Phong Châu. Toàn những tin thất lợi về việc quân của Hoa Lư ở phía Nam dòng Bạch Hạc. Khiến Sứ quân Kiều Công Hãn cũng thấy yên lòng.

Ở Hồi Hồ, Sứ quân Kiều Thuận khi được tin binh Hoa Lư đánh Hồi Hồ, ngài vội hội chúng thuộc tướng lại mà rằng:

- Này các ngươi, mấy mươi năm thiên hạ thái bình an lạc, trăm họ được ấm no. Nay thằng chăn trâu cắt cỏ Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư gây sự, đem thuộc hạ hung hăng đi cướp phá khắp nơi, làm cho cả cõi Giao Châu lầm than. Ngày nay nó lại đem binh tướng toan tính đánh Hồi Hồ, khiến cho chết tướng chết quân nhiều vô kể. Tế tác của ta nghe tin đồn các nơi cho rằng: Thằng chăn trâu vướng phải trấn ải Đồng Lư, lại lúng túng với trận đá ở sau rặng Đồng Lư. Bộ Lĩnh ngông cuồng, cùng một lúc cho quân đánh thành Đan Phượng, bị đại bại trên sông Bạch Hạc, thế là cả hai mặt Bộ Lĩnh đều thua thiệt không thể tiến lên được. Ấy thế mà y vẫn còn huênh hoang, láo lếu đánh tiếng cho Sứ quân Ngô Nhật Khánh là: Y tiến quân không cốt chiếm đất chiếm thành, mà chủ ý là để được gặp mặt mẹ Sứ quân. Thiên hạ nói rằng mẹ Sứ quân nhan sắc còn hơn cả Hằng Nga trên cung trăng. Nay nếu Sứ quân muốn y lui quân, thì chỉ cần một việc nhỏ gọn gàng là để phu nhân mẹ Sứ quân tới gặp y. Tế tác của ta lại nói rằng: Mẹ Sứ quân Ngô Nhật Khánh góa chồng từ lâu, thương con thương binh tướng, nên bà đã bằng lòng đi gặp Bộ Lĩnh. Bộ Lĩnh toại nguyện đã cho dừng quân rồi! Tuy nhiên, lòng dạ của đứa tiểu nhân chẳng thể nào tin được việc gì, cho nên ta mới phải hội các ngươi lại để nói cho biết. Xem các ngươi có được thêm tin gì không?

Kiều Thuận thô lỗ, sống nơi chung quanh là núi rừng, cho nên xem chúng thuộc hạ chỉ là những kẻ tôi tớ, sai bảo chứ không bàn việc. Nay, chỉ vì bị tế tác của Hoa Lư chặn hết các đường thành ra chẳng được biết gì về việc bên ngoài. Vẫn yên lòng là thiên hạ chẳng có việc gì lớn, lại chẳng nghĩ đến điều tại sao Hoa Lư lại đánh Hồi Hồ mà không nghĩ đến Tây Phù Liệt đã mất từ lâu. Đỗ Động thì vừa vào tay Hoa Lư chẳng bao ngày. Kiều Thuận tăm tối như thế, thuộc hạ lại đông, thuần là hạng ưa việc chém giết. Cho là mình ở chốn núi rừng sức khỏe hơn người, chưa thử sức với binh tướng nào ở bên ngoài, nhưng yên chí là chẳng ai hơn được phép đánh trận của mình.

Hồi Hồ lọt vào giữa vùng núi rừng. Sứ quân lại là người như thế, cho nên ở Hồi Hồ có nhiều điều quái dị, mê tín. Đau ốm thì cúng tế cầu trời đất thần linh ma quỷ tha cho khỏi bệnh, mỗi một hiện tượng nhỏ nhặt nào cũng cho là điều báo trước của thần linh ma quỷ. Vì thế khắp nơi đều có những việc thờ cúng. Thầy pháp thầy mo được kính trọng, tăng lữ được kể là những bậc Phật thánh được vô cùng trọng vọng.

Khi Sứ quân Kiều Thuận vừa nói dứt lời, có người nói lớn:

- Bẩm Chúa công minh thánh. Hồi Hồ ta ngoài sông trong núi, thánh thần phù trợ làm cho giặc đến là phải tan. Vì thế trước hết xin Chúa công cho lập đàn dâng đại lễ cầu khấn thần rừng thần núi. Sau nữa lệnh cho chúng dân ba ngày liền không ngưng hương khói cầu chín vị thần núi, bảy vị thần tổ bảo vệ cho Chúa công. Thì thế nào Hồi Hồ ta cũng được yên lành vững vàng!

Ở Hồi Hồ, chúng thuộc hạ của Sứ quân mỗi lần thưa trình việc gì với Sứ quân cũng mở đầu bằng câu xưng tụng “Chúa công minh thánh”. Ấy là điều Sứ quân bắt phải nói như thế để ca tụng mình!

Người vừa nói chính là pháp sư Cổ Đô Lương, người tu ở núi Hạng Đàm. Mặt mũi họ Cổ quả thật cổ quái: Mũi nhọn dài như mỏ chim, mắt nhỏ mà tròn xếch như mắt cú vọ, miệng rộng quá khổ, vóc dáng gầy gò cao lênh khênh, đặc biệt là hai gò má thật lớn mà cao. Pháp sư cao gầy như thế lưng lại khom khom, thành ra trông ông như cây sào bị uốn. Người ta bảo là vì ông ham mê sắc dục quá, đến nỗi không thể nào đứng thẳng lên được. Pháp sư có nhiều tài về cúng tế, rất được Sứ quân ưa chuộng, nhất là vợ Sứ quân. Pháp sư nói gì vợ Sứ quân cũng cho là phải. Thậm chí có lần vợ Sứ quân gặp trận mưa lớn dọc đường về nhà bị ốm nhẹ, pháp sư bảo là thần mưa nhập. Pháp sư phải lập đàn tế lạy xin thần tha cho người bệnh, lại bảo phu nhân vào chỗ kín cởi hết áo quần để cho ma quỷ dễ có lối thoát ra. Phu nhân cũng nghe, lại để cho pháp sư cùng vào làm phép trục tà. Nhiều người xầm xì về việc này, nhưng Sứ quân với phu nhân vẫn kính trọng pháp sư. Nay trong hội nghe pháp sư nói, thì Sứ quân cho là phải. Ngài chưa kịp nói thì lại có người nói lớn:

- Bẩm Chúa công minh thánh, lão sư nói rất đúng! Bẩm, mới ngày hôm qua, đã có đến sáu điềm nơi kẻ chợ, ba điềm chốn núi rừng. Báo cho biết là trời cao thần thánh đã tới để phù trợ cho Hồi Hồ ta...

Sứ quân cuống lên, giục vội:

- Điềm ra sao, ngươi nói mau đi?!

- Bẩm Chúa công, nơi kẻ chợ Cù Sơn có gà trống trắng ba chân, tiếng gáy nghe như kèn “tam đồng” miệt núi Tây phương. Ở Hoàng Thạch có con cá vàng dài một thước từ hồ sen bay lên bảy lần rồi quắp một bông sen lặn mất. Ở Ngô Sài, có gió xoáy nhổ bật một bụi chuối quay tròn bụi chuối hơn một khúc mới ngừng, lúc ngừng thì bụi chuối ấy được gió trồng giữa quan lộ lại trổ hoa ra buồng. Ở Phụng Cách có con công đực vừa múa vừa đẻ ra trứng, trứng công đực đẻ ra thì nở thành con ngay, cả thảy được bốn con công con. Ở Miêu Nha, An Nội hai chợ cách xa nhau cả dặm đường, sáng sớm người đi chợ thấy cửa chợ trước ở hướng Tây, nay tự nhiên lại chuyển sang Đông!

Cả nghị sảnh ồn ào, trên từ Sứ quân xuống đến các tướng chẳng ai lại không xuýt xoa xôn xao bàn tán về những việc lạ. Sứ quân ra vẻ gay cấn lắm, ngài hỏi:

- Thế còn ba điềm ở núi rừng là những điềm gì?

Người vừa kể sáu điềm lạ, chính là Mao Bất Đắc gốc người tận bên Trung Hoa. Tổ tiên lưu lạc xuống đất Giao Châu rồi vào Hồi Hồ lập nghiệp. Họ Mao mắt lác (lé), tướng trường, cao mà gầy, tóc cắt ngắn dựng đứng, tai quặt ra phía sau, tướng người phản phúc gian giảo. Lại thêm bệnh nghiện chất thuốc phiện, giọng nói khàn khàn. Ông ta hay kể nhiều điều lạ, nên được nhiều người thích lắm. Không biết tên thật của ông ta là gì, chỉ thấy ông ta bảo tên mình có nghĩa là: Ý muốn của tổ tiên đến đời ông ta xem ra vẫn không thành được, cho nên ông ta mới lấy tên như thế. Có nghĩa là “họ Mao không thành đạt được”. Thành đạt điều ước muốn gì thì không ai biết!

Lúc ấy, Mao Bất Đắc nghe Sứ quân hỏi, mặt hớn hở. Chiếu cặp mắt lác nhìn Sứ quân, đáp:

- Bẩm Chúa công minh thánh. Việc sáu điềm nơi kẻ chợ chẳng qua cũng chỉ là những điềm chốn người trần tục. Còn ba điềm ở chỗ núi rừng mới thật là những điềm của phật tiên thần thánh! Bẩm, trước hết ở chân núi Tây phương là Câu Lậu, có con trâu cổ từ dưới nước chạy lên, đâm thẳng vào vách núi mở vách ra chui vào bên trong. Chỗ núi ấy chung quanh đá còn rơi vãi nhiều lắm; Thứ hai ở núi Mộng Thất. Phía Nam núi nứt ra mở đường cho vàng lỏng từ trong núi chảy ra đọng thành vũng vuông vức trông như cái ấn của trời; Thứ ba, Thiên Thị tức chợ trời ở Bắc Sài Sơn đêm hôm trước, dân chúng ở đây được chứng kiến cảnh người nhà trời xuống họp chợ suốt đêm. Đến khi trời gần sáng thì người nhà trời biến mất cả, dấu chân còn để lại nhiều lắm. Ở đây dân tụ họp, hương nến cúng lạy mờ mịt cả một góc trời! Bẩm Chúa công, đấy là ba điềm nơi núi rừng!

Sứ quân nghe nói vừa thích vừa có ý sợ, ngài hỏi:

- Như thế, các ngươi thấy những điểm ấy nói gì?

Đến lượt pháp sư Cổ Đồ Lương tranh công của đệ tử, lên tiếng liền:

- Bẩm Chúa công minh thánh. Suốt ngày hôm qua cả Hồi Hồ ta náo nhiệt với sáu điềm nơi kẻ chợ, ba điềm chỗ núi rừng. Lại có một đạo sĩ ở tận Vũ Nga vân du qua đây dừng chân xem điềm, nói nhiều điều hay lắm!

Sứ quân vội vàng:

- Sao có thần tiên hạ giáng nơi giang sơn ta, các ngươi không trình báo cho ta biết? Lại một mình tiếp đón ngài có phải là muốn cầu phúc một mình đấy không?

Pháp sư đáp:

- Bẩm trình Chúa công minh thánh, không phải thế. Bởi vì bá tánh chen nhau lạy mừng thần tiên, lại tranh nhau nghe lời ngài giảng, cho nên giảng xong là ngài đi ngay. Chúng thuộc hạ có hết lời năn nỉ xin ngài dừng chân để Chúa công minh thánh được gặp, ngài cũng cứ ra đi. Lại hẹn là đến rằm tháng Bảy tới, ngài sẽ trở lại độ cho Hồi Hồ ta!

Sứ quân tiếc rẻ mãi, rồi bảo thuộc hạ kể lại những điều lão đạo sĩ thần tiên nói gì. Thuộc hạ là hai thầy trò pháp sư thay nhau kể. Nói rằng:

Đạo sĩ râu tóc bạc phơ ngồi ở giữa chợ giảng: Gà trống trắng ba chân gáy như tiếng kèn ba ống núi Tây phương, giống điềm ngày xưa khi Hoàng Đế ra đời có con gà trống ba chân đến gáy trước nhà. Là điềm đại quý. Gà ba chân gọi là “ba vua đội bếp” nhà nào cũng có để đun nấu. Như thế thì gà quý này xuất hiện ở đâu thì ở đấy có vua ra đời, gà xuất hiện gáy ở Hồi Hồ thì ắt là ứng vào Chúa công minh thánh rồi!

Sứ quân Kiều Thuận mừng quá, pháp sư lại thuật tiếp:

- Ở Hoàng Thạch có cá vàng bảy lần nhảy lên mặt nước đớp bông sen rồi lặn mất. Đạo sĩ thần tiên bảo rằng: “Cá vàng là hoàng long, bảy lần bay khỏi mặt nước là vương nghiệp kéo dài được bảy đời dài tổng cộng khoảng năm trăm năm. Cá đớp bông sen là điềm đức sáng tổ vương nghiệp ở ngôi cao quý, ứng vào ngôi cao quý nhất ở Hồi Hồ!” Chúng thuộc hạ mừng Chúa công minh thánh ứng nghiệm!

Sứ quân không giữ nổi nỗi mừng, kêu lên:

- Đúng thế! Ta phải ở ngôi vua là đúng!

Chúng thuộc hạ của Sứ quân cùng hùa theo hò reo tung hô Sứ quân. Pháp sư hân hoan tiếp:

- Bẩm Chúa công minh thánh. Gió xoáy nhổ bụi chuối đem trồng giữa quan lộ, lão thần tiên đạo sĩ bảo: Cây chuối thân thẳng là hiền quân tử hùng cứ một phương, lá rộng dài tủa ra chung quanh là hình cái lọng che cho bậc nhân thần. Gió đem chuối trồng giữa quan lộ, ấy là trời báo trước cho biết điềm vua xuất hiện giữa thiên hạ. Chuối lại trổ bắp ra hoa, ấy là điềm giang sơn sung túc phong nhiêu. Điềm trời vẫn ứng vào Chúa công minh thánh ở Hồi Hồ ta!

Sứ quân mê mẩn, trong lòng cho là mình hiện đang là vua, ngài sung sướng quá thốt lên:

- Tiếc quá! Thế mà ta không được gặp bậc thần tiên!

Pháp sư vênh váo tiếp:

- Bẩm Chúa công minh thánh. Đến công đực vừa múa vừa đẻ trứng ở Phụng Cách, thì lão thần tiên bảo: Mừng thay cho Hồi Hồ, chẳng cần phải vất vả binh tướng mà được cả thiên hạ! Công múa là chào minh vương, đẻ trứng là nuôi trăm họ. Chỉ việc Chúa Công minh thánh làm vua, thì trăm họ được an lành làm ăn phát đạt. Còn như ở Miêu Nha, An Nội, hai chợ cách xa nhau mà tự nhiên hai cửa đều quay cả về hướng Đông, lão thần tiên bảo là: Chợ là nơi trăm họ làm ăn đông đúc, hai của tự nhiên quay cả về hướng Đông ấy là điềm trời cho hay, khi nào mặt trời lên, thì thiên hạ hướng cả về phía Đông là phía Chúa công minh thánh ngự hiện giờ. Trăm họ thay đổi cuộc đời, mở rộng cửa để bày hương án lạy mừng đấng quân vương ra đời.

Sứ quân mừng quá đỗi, lập cập hỏi:

- Thế còn ba điềm trời núi rừng thì sao?

- Bẩm tình Chúa công minh thánh. Việc trước hết là trâu cổ dưới nước chạy lên là điều ma vương ám ảnh xuất hiện chạy đâm vào núi Tây phương thì tan mất. Là điềm chân chúa ra đời ma vương tẩu tán; Việc thứ hai: Vàng ròng chảy ra từ núi Mộng Thất đọng thành hình cái ấn vuông vức. Ấy là điểm trời trao cho đất Hồi Hồ ta thiên ấn để làm bằng cai trị muôn dân; Việc thứ ba là Chợ Trời thiên thị ở trên núi, đêm có người nhà trời xuống họp chợ. Rõ ràng là đất lành ngay đến cả người nhà trời cũng thảnh thơi đi lại chẳng sợ gì cả. Những điềm ấy dấu vết còn rành rành. Bẩm trình Chúa công minh thánh. Hồi Hồ ta nhờ thiên hạ đại loạn, Hoa Lư vất vả đem xương máu đi gây sự với thiên hạ. Ta cứ bình yên đợi cho “trâu cổ vào núi, ấn vàng trao cho”. Thế là ngồi nhàn được cả nước, rõ ra là cơ trời!

Sứ quân sung sướng đến cùng cực. Chưa bao giờ trong đời ngài lại được hưởng những điều lành nghe êm tai đến như vậy. Ngài mê đi ngồi lặng, vẻ mặt ngài chưa bao giờ lại thấy hiện ra những nét hiền từ khoan ái đến như lúc này.

Chợt có người kêu to lên:

- Chúa công! Chúa công! việc lớn trong thiên hạ không thể nhìn vào những việc mơ hồ mà quyết đoán được, phải xem rõ thực tế mới phải!

Sứ quân giật mình, ai là người dám làm rối giấc mộng của ngài? Ai đảm bảo những điềm trời rành rành ấy là những việc mơ hồ? Ai dám vô lễ kêu to mà lại chẳng biết phải thưa là “Chúa công thánh minh” như thế? Sứ quân hầm hầm, gương mặt chợt trở lại hung ác. Ngài giận đến tái cả nước da vốn tái vì đam mê nữ sắc quá đáng. Ngài quát:

- Hồ Phi Đạo, sao ngươi dám vô lễ ngu dốt nói ra những lời lẽ trái với ý trời như vậy?

Hồ Phi Đạo là người đọc sách, lại giỏi võ, nhưng khi tinh thông binh pháp rồi thì lại chán việc võ. Chú tâm vào việc tu thần dưỡng khí, là tướng của Sứ quân Kiều Thuận. Người ở vùng núi Tử Trầm. Nghe trong núi Tây phương ngó xuống sông Tích, có loại cát đó gọi là “đan sa” có sức giúp trường sinh bất tử. Chẳng thế mà sách cổ có chép: “Ông Cát Trĩ Xuyên người đời Tấn (Trung Hoa), muốn tìm được thuốc “đan sa trường sinh”. Nên xin làm chức Lệnh huyện Câu Lậu. Sau quả nhiên được thành tiên. Chính thi sĩ Đỗ Phủ cũng có thơ: “Giao Chỉ đan sa trọng”, tức là ở nơi đây.” Hồ Phi Đạo học nghệ vũ tinh thông, thấm võ đạo, cho nên muốn vào rừng sâu tìm nơi ẩn dưỡng. Toan theo gương Cát Trĩ Xuyên trở thành tiên bất tử, nhưng tìm chẳng thấy cát đỏ trường sinh. Rồi lưu lạc sau cùng đến nương nhờ Sứ quân Kiều Thuận. Phi Đạo tính tình ngay thẳng, không ưa những việc mê tín đồng bóng. Theo Sứ quân mà luôn luôn hục hặc với bọn pháp sư thuật sĩ. Nay trong hội, nghe việc thiên hạ đại loạn, binh biến lần lượt xảy ra ở các nơi. Các Sứ quân lần lần bị Hoa Lư thôn tính. Nay sắp đến Hồi Hồ lâm nạn, Sứ quân đã chẳng nghĩ đến việc ra quân cự chiến, gìn giữ giang sơn. Lại đi nghe những phường xu nịnh đồng cốt nói toàn những chuyện hoang đường, thì Hồ Phi Đạo không chịu được mới kêu to lên như thế.

Khi nghe Sứ quân giận dữ mắng, hỏi, thì Hồ Phi Đạo bước ra. Trước hết tháo bỏ thanh gươm to bản treo ở thắt lưng đặt xuống nền nhà, rồi hùng hồn thưa:

- Bẩm trình Chúa công, việc đời trị lâu thì lại loạn, trị loạn thay nhau xuất hiện ấy là lẽ tuần hoàn tự nhiên. Lúc có loạn thì ra quân cự chiến gìn giữ giang sơn, những điềm xảy ra chẳng qua chỉ là tự nhiên mà có. Cũng có khi để báo trước một việc như trời sắp mưa thì âm u, mây nhiều, gió thổi, trời nắng thì đêm trời nhiều sao, mặt đất nóng. Hoa Lư đánh chiếm các nơi, sắp vào đến cửa ngõ nhà ta, thì thuộc hạ nghĩ Chúa công nên xuất binh tướng ra trận, sửa sang lại thành quách, tích trữ lương thực, rèn đúc gươm đao. Chứ không nên nghe những giảng luận về điềm trời mơ hồ.

Sứ quân quát to:

- Như vậy, thì ngươi bảo những điềm vừa rồi là thế nào?

- Bẩm trình Chúa công, gà ba chân chẳng phải là hiếm trong thiên hạ, tiếng gáy ồm ồm là gà loại cổ lớn. Đến việc cá chép vàng dài cả thước là bình thường. Cá lớn thấy bông hoa tất tưởng là côn trùng mồi nên nhảy lên đớp là thường. Gió thổi bụi chuối là tất nhiên vì lá chuối to hứng nhiều gió, còn bảo là gió đem cây trồng giữa quan lộ thì nên hỏi xem ai là người được thấy, ở đâu. Công đực để trứng, tuy là lạ nhưng cũng là điều thường như gà mái lại gáy. Hai cửa chợ đổi hướng, có khi là người ở đấy làm ra để tiện việc đi lại, không nên vội tin vào điều mơ hồ. Chỉ nên tin là Chúa công sẽ được cả thiên hạ thì hơn.

Sứ quân gay gắt:

- Thế còn ba điềm núi rừng?

- Bẩm trình Chúa công, trâu cổ ở Câu Lậu hay chọi nhau đến mềm sừng thì chạy ngâm xuống nước sừng lại cứng. Chắc là trâu chọi thua chạy lẫn vào rừng, thiên hạ lầm là trâu chui vào vách núi; Vàng ròng chảy đúc thành thiên ấn, cũng chỉ nghe thiên hạ nói chứ đã có ai thấy chưa? Vả lại nếu thấy sao chẳng thấy nói có người đem được ấn vàng ấy về? Về Thiên Thị, ai là người nửa đêm lên núi xem người nhà trời họp chợ? Chỉ thấy ai cũng nói mà chẳng ai tận mắt chứng kiến!

Sứ quân càng gay gắt:

- Thế còn những vết chân người nhà trời thì sao?

- Bẩm trình Chúa công, thuộc hạ tuy chưa được đến xem, nhưng cũng cho là đấy là vết chân của thiên hạ hiếu kì leo lên đấy xem còn để lại!

Đến đây thì Sứ quân giận lắm rồi, hóa ra bao nhiêu điềm lành báo việc mừng của ngài chỉ toàn là những việc mơ hồ hão huyền. Sứ quân giận đến nghẹn cổ chăng thốt ra lời được, pháp sư Mao Bất Đắc liền lên tiếng:

- Bẩm trình Chúa công minh thánh. Rõ ràng điềm trời hiện ra cả Hồi Hồ đều biết. Thế mà lại bảo là những điều mơ hồ hão huyền, thì ông Hồ quả là người cậy giỏi khinh thường Chúa công minh thánh, lại làm cho lòng người hoang mang nghi ngờ. Nếu cứ để cho trong thiên hạ đầy những nghi ngờ hoang mang, hỏi rằng làm sao để minh bạch được cuộc trị an của đấng nhân thần lúc trị nước nữa! Hồi Hồ ta từ khi được Chúa công minh thánh mở ra, gọi là một nước thì chưa đủ, nhưng là nơi để dựng nước thì đúng. Giặc nào đến cũng phải tan, trời đã an định việc lớn. Chúa công minh thánh không nên vì lẽ gì mà do dự để khiến trái ý trời!

Những lời nói của Mao Bất Đắc làm cho Sứ quân như lửa đang cháy lại đẩy thêm rơm. Sứ quân thét lên:

- Hồ Phi Đạo, mi đúng là tên không biết đạo. Dám chê bai việc ta, bác bỏ ý trời, làm loạn lòng người. Không trừng trị tất sinh loạn lớn!

Sứ quân mắng xong liền thét giáp sĩ lôi Hồ Phi tạo ra chém đầu ngay tức thì. Cả nghị sảnh kinh hoàng, không ai ngờ được Sứ quân lại quyết liệt đến như vậy! Giáp sĩ vừa xô tới, đã lại có người nhào ra kêu to lên:

- Chúa công minh thánh! Chúa công minh thánh! Xin ngài hãy khoan khoan, không nên giết Hồ Phi Đạo. Lời nói của kẻ sĩ không phải là những lời vu vơ, giết kẻ sĩ là điều làm náo động lòng người. Xin Chúa công minh thánh hãy nghĩ lại!

Người vừa mới nói, chính là văn sĩ Nguyễn Tài Đức. Đức cũng là người đọc sách, ưa đạo thánh hiền. Người Hồi Hồ, theo phò Sứ quân, thấy những hành vi tàn bạo của ngài thì nhiều lần can gián. Khiến Sứ quân không lấy làm hài lòng, trong bụng vẫn có ý căm ghét. Nay nghe Đức nói như vậy thì Sứ quân đang giận lại càng giận hơn nữa, ngài thét to:

- Lại đến lượt mi nữa, bao nhiêu lần cậy sách, viện lời hiền thánh để gọi là khuyên can ta, nhưng thật ra là để chê bai bài bác ta. Ta khoan dung chẳng nói, bây giờ lại hùa theo đứa phản chủ để bảo là ta làm náo động lòng người. Bọn đọc sách chúng bay, chuyên viện sách để che đậy cho những hành vi đốn mạt, cản trở việc lớn chẳng ít, gây họa cho người đời chẳng phải là nhỏ. Nay không trừng trị một phen thì rồi đây cả Hồi Hồ này đến loạn mất thôi!

Rồi Sứ quân chẳng thèm nghe những lời van xin của Nguyễn Tài Đức. Thét giáp sĩ đem cả hai người ra chém đầu tức thì.

Nguyễn Tài Đức thấy không xong, mới ngửa mặt lên trời cười to mà rằng:

- Thôi thôi, mạng ta đến đây là hết cũng phải, đọc sách mà lại theo phò yêu ma. Ngần ấy năm cũng đủ tội lắm rồi!

Sứ quân Kiều Thuận chém xong hai thuộc hạ, lại nghe lời bọn pháp sư kể thêm mãi về những điềm trời, tán rộng rãi những lời giảng của thuật sĩ. Càng ngày càng mê mẩn với việc “trời cao đã định, đế vương tất thành”. Sứ quân chẳng nghĩ gì đến việc đem binh phòng giữ các nơi, lại liên miên mở hội vui chơi yến tiệc đợi ngày đăng quang!

Giữa lúc cả Hồi Hồ tưng bừng lễ hội chờ đón tin mừng lớn sắp đến chẳng biết tại sao lại có. Thì lại có tin: “Động chúa Hoa Lư là Đinh Bộ Lĩnh tới Hồi Hồ thì mê mẩn nhan sắc của mẹ Sứ quân, đóng binh ở lại. Rồi sai tướng về Hoa Lư sửa sang lại hang động, đưa người đẹp về đấy an hưởng thú vui, từ bỏ việc chinh chiến rồi”. Sứ quân nghe tin thì cười ngất bảo chúng thuộc hạ:

- Thế là thằng chăn trâu cắt cỏ lui về hang động. Hóa ra chí lớn của nó cũng chỉ bằng chiều rộng của nụ cười mĩ nhân mà thôi! Cũng phải, ở đời này có gì hơn được thú vui với người đẹp!

Thế là Sứ quân truyền chúng thuộc hạ xem xét sửa sang lại phủ đường Hồi Hồ. Bài trí khắp nơi như chốn cung đình, bày dặt xây cất cung nọ viện kia. Nào là cung thiết triều, nào là ngự tẩm với những hậu cung chứa gái đẹp, cho đúng với phong cách của vua chúa. Sứ quân làm cho phu nhân vợ ngài phát điên lên vì ghen tức. Ngài lại dụ dỗ: “Bậc vua chúa phải như vậy, bù lại phu nhân sẽ là hoàng hậu. Đã là hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ thì phải có lòng từ thiện, biết bao dung. Có thế mới giúp bồi được thêm đức cho vua, giữ cho vương nghiệp được lâu dài bảy đời như lời thuật sĩ bảo”. Phu nhân dù tức nhưng cũng phải gắng để cho đúng ý trời. Bà cũng lo sửa soạn cho cung hoàng hậu của mình, bày ra biết bao nhiêu cảnh trái tai gai mắt. Lại đến đám thuộc hạ của Sứ quân, thay nhau hòa vào nịnh hót Sứ quân đủ điều. Xúi bẩy vợ Sứ quân đủ thứ, thừa cơ hội để vơ vét hưởng thụ, biến Hồi Hồ thành chốn địa ngục trần gian. Khắp nơi bày ra những cảnh chơi bời sa đọa. Thiên hạ bảo rằng chưa bao giờ một giang sơn của một Sứ quân lại nhiều đạo sĩ, thuật sĩ xuất hiện như dạo ấy ở Hồi Hồ. Bọn tà đạo này ngày đêm hết nói đến điềm trời lại nói đến thiên văn thiên tượng. Khiến cho trăm họ ở Hồi Hồ mới đầu điêu đứng với những việc làm của Sứ quân, nay cũng bắt đầu cắn răng cố nhịn nhục đợi thêm ít ngày tháng nữa. Điềm trời ứng vận, Sứ quân lên ngôi báu, thì sẽ được ban ơn bù lại khổ cực ngày hôm nay. Thế là cả Hồi Hồ chẳng nơi đâu lại không náo nức đợi chờ!

Thấm thoát trăng mới tròn đã lại khuyết. Hồi Hồ (Đường Lâm) mới tạm bình thường lại sau những ngày lễ mừng một lúc ba đám cưới lớn. Trăm họ dễ chịu trong cuộc sống mới được mươi ngày, thì một sớm Quân sư đã trình vào xin Vạn Thắng Vương mở hội định việc lớn.

Vào hội, Quân sư trình:

- Bẩm trình Vương, như vậy là việc Hồi Hồ đã được gần nửa tháng trời. Vâng lệnh Vương các nơi vẫn nỗ lực sửa soạn, hôm nay mở hội để các tướng nghe lệnh mới. Xin Vương ban lời.

Vạn Thắng Vương tuy say duyên mới bên người đẹp, ngài vẫn được Quân sư trình riêng về mọi việc. Ngài thường tỏ ý nóng lòng hỏi Quân sư về ngày đại binh lại lên đường. Cho nên hôm nay trong hội nhìn các tướng đông đủ, nghe Quân sư trình, ngài vui vẻ bảo:

- Này các ông, đường ta đi hết lên Bắc, sang Đông, lại quay về Tây, tung hoành trong thiên hạ đi là đến nơi, chiến là thắng. Có lúc vất vả phải đổ cả xương máu, có lúc dàn xếp là thành, thiên hạ thuận phục mà theo về. Ta dừng quân ở Hồi Hồ cũng được gần nửa tháng rồi, nghỉ ngơi như thế cũng là đủ rồi. Nay đến lúc các tướng của ta lại mang binh vào trận, đi nốt chặng đường về đến Cổ Loa. Ta tuy dừng lại nơi này, nhưng thật ra giữa lúc ta nghỉ ngơi thì thiên hạ lại vất vả náo động. Đấy chẳng phải là tình cờ mà có, đây chính là những dàn xếp của ta mà thành. Ta để Quân sư nói để các ông biết việc!

Quân sư nói:

- Bẩm trình Vương, thưa các ông. Hôm nay các ông thấy vắng mặt một số tướng, ngày ta vào Hồi Hồ có mặt gần như chẳng còn thiếu một tướng nào. Một số vắng mặt hôm nay ấy là vì các ông ấy vâng lệnh Vương cầm quân đi các nơi ta sắp nói để các ông nghe đây!

Quân sư ngừng lại, các tướng có vẻ ngạc nhiên, tuy rằng các ông đều biết một số tướng có lệnh trở lại quân. Hóa ra là các ông ấy mang trọng trách lại đem quân vào trận! Trận lần này tất không thể ở chỗ nào khác hơn được là Hồi Hồ. Hồi Hồ, miền đất giang sơn của Sứ quân Kiều Thuận ít được mọi người biết đến. Các tướng muốn được biết xem nơi ấy thế nào.

Quân sư tiếp:

- Trước hết, ông Thẩm Thụy Hùng vâng lệnh vào Hồi Hồ, điều động các tế tác của ta ra sức thi hành kế. Ông Thẩm khoác áo đạo sĩ, giảng về các điềm trời hay thiên tượng, tế tác của ta phao đi khắp nơi. Khiến cho Hồi Hồ với Sứ quân Kiều Thuận u tối tin rằng mình sắp lên ngôi vua, an nhàn mà được cả thiên hạ. Thành ra không sửa soạn việc quân, lại giết mất hai thuộc tướng văn võ toàn tài. Lúc này Sứ quân đang đợi ngày thiên mệnh linh ứng như lời đạo sĩ họ Thẩm của ta giảng dạy.

Các tướng cười ồ. Quân sư ra hiệu im lặng rồi kể lần lượt hết thảy mọi việc Hồi Hồ, được tế tác liên miên trình về. Rồi Quân sư tiếp:

- Lúc này, binh ta chắc chắn đã vào Hồi Hồ. Tướng cầm quân ở đây là ông Nguyễn Bặc!

Các tướng nghe nói giật mình. Hóa ra giữa lúc các ông còn được an nhàn uống rượu mừng với nhau, thì bình tướng nhà đã vào đất địch! Ngay như các ông còn không biết chút nào, liệu Hồi Hồ có biết gì không?

Quân sư tiếp:

- Hồi Hồ với Sứ quân cùng đám thuộc hạ như thế, có tru diệt tất cả cũng chẳng phải là quá. Chỉ tội là dân chúng đã quá lầm than, đang trong lúc ngửa cổ đợi minh quân xuất hiện. Nếu binh lửa dữ dội tất không thể nào tránh được tai họa cho dân. Vì thế ta mới chọn tướng Nguyễn Bặc cầm quân. Ông Bặc tính tình tuy kín đáo ít nói nhưng lại có lòng nhân, thương người, hành sự quyết liệt có tính toán suy nghĩ. Ông ấy cầm quân thì không lo quân kỷ bị xâm phạm. Vả lại ta còn để ông Phạm Hạp đi cùng, thì chẳng phải lo về việc nhiều máu phải đổ nữa, ta cũng đã dặn hai ông ấy biết phải hành động ra sao, phải tránh những việc gì. Ngoài hai ông ấy, cũng còn một số các ông khác nữa đi theo để trợ quân mà thôi!

Thật là kỳ lạ, việc quân hệ trọng đến như vậy, mà ở cứ doanh vẫn thấy bình lặng như chẳng hề có việc gì! Vương nói:

- Quân sư có dặn các tướng vào Hồi Hồ là nên cố tránh việc chém giết, nhưng ta nghĩ: Cũng cần phải nghiêm chiến luật, để làm gương cho thiên hạ. Sau nữa là nghiêm được phép nước trong cuộc trị an, gồm thâu được toàn thể sức mạnh để đối phó với binh lửa mai sau. Chứ không thể chỉ một mực khoan ái tha thứ cho hết cả được. Vì thế Quân sư cũng đã có lệnh đến cho các tướng cầm quân, nói rõ mọi việc. Tinh mơ hôm nay, tin mới trình về nhiều việc hay. Quân sư nên thuật lại hết cho các tướng nghe.

Quân sư vâng lệnh, tiếp:

- Sau khi đã lập được kế ở Hồi Hồ, thì ông Thẩm Thụy Hùng vượt dòng Bạch Hạc, lên Tam Sơn. Lúc này ở Phong Châu tất cũng đang náo loạn! Còn ở Hồi Hồ, tin sớm hôm nay trình về nói rằng: Binh ta bất thần vào Hồi Hồ lúc gần rạng sáng, giáp binh do chính tướng quân Nguyễn Bặc sai bảo lẻn vào phủ đường. Vì tướng quân bảo với tướng Phạm Hạp là phải đích tướng quân đi gặp Sứ quân Kiều Thuận mới được. Còn đại binh thì giao cho tướng Phạm Hạp trông coi kéo theo tiếp ứng.

Vương bảo:

- Tại sao lại phải đích tướng quân Nguyễn Bặc lén mang giáp binh vào phủ đường?

Tin trình: Phủ đường Hồi Hồ từ khi Sứ quân cho lệnh chém đầu hai tướng Hồ Phi Đạo và Nguyễn Tài Đức đem bêu đầu nơi kẻ chợ. Thì chẳng còn ai dám lên tiếng khuyên can Sứ quân điều gì nữa, tất cả chỉ hùa theo lấy lòng Sứ quân. Trước là để giữ mạng riêng, sau là lo trước để lỡ ra điềm trời thiên tương ứng thật mà Sứ quân làm vua thì mình không mất chỗ mai sau. Thành thử vì thế khi có lệnh của Sứ quân bảo là sửa soạn lễ mừng, đợi ngày Sứ quân lên ngôi nhận mạng trời sai, thì mọi việc binh bị vốn đã nghèo nàn này lại càng thêm luộm thuộm. Tướng chỉ lo trau chuốt thanh gươm cho đẹp, bộ chiến giáp cho bóng, ngựa trận chải lông cho mượt. Phòng khi làm chức tướng quân lớn của triều đình thì phong độ được chững chạc. Bọn pháp sư phù thủy tranh nhau mở lễ, sáng đón mặt trời, trưa lạy thần gió, chiều thờ thần mưa, làm cho bá tánh cũng phải đua nhau cùng với đủ thứ. Hòn đá bên đường cũng bảo là linh vật, cái cây mọc lâu đời tán lá lớn cũng là linh thụ, người chết trôi đem vùi trong bãi cát bến sông cũng bảo là linh thần!

Đến giữa trưa ngày hai tướng bị chém, đầu cắm trên cọc tre đem bêu ở kẻ chợ. Mới đầu kẻ qua người lại còn xót thương, sau chẳng ai buồn nhòm ngó nữa thì đột nhiên hai chiếc đầu phơi nắng máu đã khô cứng. Thế mà tự dưng hai hàng nước mắt lại tuôn dài xuống mả, dân chúng thấy lạ bảo nhau đến xem thì thấy hai dòng nước mắt còn ướt. Ai cũng bảo là hai ông ấy chết oan nên mới khóc như vậy, có người lén đốt hương rồi nhiều người bắt chước. Chớp mắt náo nhiệt cả một vùng, thiên hạ tranh nhau cùng lạy. Việc ồn ào đến tại Sứ quân, ngài giận bảo:

- Hai đứa ấy nó khóc vì chết rồi linh hồn được ma quỷ thánh thần chứng cho, hay là chúng nó tội lỗi cho nên nó khóc!

Rồi Sứ quân sai đem đốt hai cái đầu đi. Việc lạ xảy ra, lửa thiêu đốt chán chê, lúc bới than tro thì vẫn thấy hai cái đầu y nguyên chẳng cháy. Sứ quân nghe biết lại giận sai đem xác hai tướng cùng với hai cái đầu ra kê trên đá lấy dao lớn băm vằm cho nát vụn rồi thả xuống sông. Thịt nát xương tan thế mà khi quân quăng xuống sông lại thấy hai ông hiện lên rõ ràng, cả hai cười lớn rồi từ từ chìm xuống dòng Bạch Hạc mà hóa. Dân thương tiếc lập miếu thờ ở chỗ chân núi Mộng Thất. Sứ quân nghe biết, tra hỏi ai cũng bảo là nghe nói thế, hỏi ai nhìn thấy hai cái đầu khóc, hai bóng người hiện trên sông, thì chẳng ai nhận là có nhìn thấy. Cả Hồi Hồ khắp nơi người ta đồn đãi chứ chẳng ai thấy gì cả. Sứ quân muốn để yên lòng các tướng, lại sai mở đại tiệc ở trong phủ. Các tướng đều phải vào dự, tiệc kéo dài ba ngày.

Đến đêm ngày thứ ba thì chẳng còn ai lại không mệt mỏi vì suốt ngày ăn chơi, suốt đêm vừa rượu lại vừa tha hồ được hưởng thụ gái đẹp. Sứ quân bảo: “Hưởng thụ cho nhiều đi, lúc nào ta lên ngôi rồi thì phải nghiêm chỉnh. Lúc ấy phải dốc hết lực vào việc thờ phụng minh quân”. Vì thế chỉ sau ba ngày trác táng mà chẳng còn tướng nào muốn cầm đến binh khí, không ông nào lại còn sức để ra về hay muốn ra về nữa.

Lúc ấy, Quân sư Lê Thảo cho gọi tướng Nguyễn Bặc đến bảo:

- Phủ đường Hồi Hồ đang hồi mê đắm, cả Hồi Hồ quân bệ rạc, tướng bê tha. Sứ quân hung tàn giết thuộc hạ, việc quân bỏ ngỏ. Vậy tướng quân gấp trở về doanh Bạch Hạc, đem mười nghìn quân theo tế tác dẫn đường gấp vào lấy phủ đường Hồi Hồ. Đây là lúc cơ hội thật thuận tiện, tướng quân vào trận xét thấy thật cần thì hãy chém giết, cố tránh tai họa cho dân ở đấy!

Nguyễn Bặc được lệnh kinh ngạc, ông thưa:

- Bẩm Quân sư, bất thần công kích thì được thế lợi, nhưng tôi nghĩ dù sao chăng nữa thì Hồi Hồ cũng có phòng bị ít nhiều. Chứ làm sao lại có thể lấy ngay được như thế?

Quân sư cười mà rằng:

- Tướng quân không phải lo lắng, ta đã dọn xong đường cho ông đi được nhàn hạ, ông cứ đi! Sẽ có thêm ông Phạm Hạp cùng mấy ông nữa đi giúp cho ông!

Nguyễn Bặc vâng lệnh, trong lòng vẫn cứ hoang mang, suy nghĩ mãi chẳng hiểu được gì. Đến khi về Bạch Hạc rồi tướng Phạm Hạp cùng mấy tướng cũ của Đỗ Động vâng lệnh cùng theo quân, thì ông lập tức kéo quân đi ngay. Tế tác dẫn đường, vượt rừng tránh núi, đi đường tắt vào Hồi Hồ. Quả thật trên đường trẩy quân, các tướng kinh ngạc thấy: Hình như Hồi Hồ chẳng hề bao giờ lại có binh tướng, ở đây là đất thanh bình không có dấu vết gì tỏ ra là có việc quân. Hỏi thì tế tác thưa: “Mọi việc chỉ được biết đã cho người sửa soạn trước”. Nhưng sửa soạn gì thì chẳng ai hay.

Tế tác Hoa Lư nhan nhản khắp nơi, trà trộn vào đám quân hầu ở phủ đường. Bao nhiêu việc tai nghe mắt thấy thì trình cả về cho tướng Nguyễn Bặc. Bặc bảo với các tướng:

- Bọn Kiều Thuận mê cuồng, dốc sức sa đọa đợi ngày lên ngôi làm vua. Đến nỗi quân ta kéo di chẳng phải một vài người, thế mà vẫn mơ ngủ chẳng biết. Cứ như thế này thì có khi ta vào đến phủ đường Kiều Thuận cũng không hay biết!

Quả thế thật, khi tế tác báo tin phủ đường. Thì Nguyễn Bặc bảo tưởng Phạm Hạp:

- Nông nỗi này, chẳng cần phải kéo cả đại quân vào phủ đường. Tôi đem theo một toán giáp sĩ bất thần vào phủ đường bắt sống Kiều Thuận. Ông cùng các ông khác đem đại quân, trước hết thật nhanh lấy cho xong thành Trương Xá, sau Trương Xá là đến Phú Lập. Khi đã xong Trương Xá rồi thì Phú Lập chẳng đánh cũng phải tan. Xong hai thành ấy ông dốc binh vây chặt phủ đường hộ tôi, nếu mọi việc êm thắm thì thôi. Còn nếu phủ đường Hồi Hồ kháng cự thì ông ra tay ngay nhé! Tôi đi sau ông nửa ngày, như thế là ông chỉ có cùng lắm là một ngày để vượt qua hai thành của Hồi Hồ đấy!

Tướng quân sai tế tác dốc hết lực đi về. Bao nhiêu việc ở phủ đường tướng quân nghe trình, tưởng như mình đang nhìn tận mắt. Trong lòng tức giận đến khi đem bọn giáp sĩ theo tế tác dẫn đường hai mặt trước sau phủ đường bất thần xâm nhập, nhìn quang cảnh tự dưng Bặc thấy máu như lồng lộn trong huyết quản. Bặc vốn là người trầm lặng, đạo đức, nay tận mắt nhìn những trò trác táng dâm ô bày ra, tai nghe những âm thanh bỉ ổi đủ thứ thì không chịu được. Liền khẽ lệnh cho các tay giáp sĩ: “Không cần phải nương tay, giết cho hết bọn thuộc hạ của Sứ quân Kiều Thuận”. Tướng quân lại bảo tế tác dẫn đường cho ông đích thân đến tìm Kiều Thuận.

Tướng quân Phạm Hạp mang trọng binh, cùng với hai tướng Trương Đức Xuân, Tống Thừa Vu là tướng cũ của Bình Kiều, và các tướng Quốc Hồi Uy, Nhan Mục Thản là cựu tướng Đỗ Động. Năm tướng kéo quân theo tế tác tràn vào địa phận phủ đường Hồi Hồ. Lúc ấy trời mới muộn vào đêm chưa qua hết giờ Tí, trăm họ nhiều nơi còn đang rượu chè tưng bừng. Phạm Hạp liền cho quân bắt một đám người hỏi sự thể, thì chúng nói rằng: “Sứ quân được đạo sĩ thần tiên từ xa đến giảng điểm trời cho biết sắp được cả nước, lên ngôi chí tôn. Vì thế Sứ quân mới ban lệnh cho dân chúng được vui chơi, đợi ngày ngài lên ngôi báu thì ban cho an vui hạnh phúc”. Tướng quân nghe dân trình như thế thì lấy làm ngạc nhiên lắm, không hiểu đạo sĩ thần tiên nào từ đâu đến lại xui Sứ quân những điều như vậy. Hỏi thì chúng thưa rằng: Đạo sĩ thần tiên ở lại Hồi Hồ ba ngày rồi vượt Bạch Hạc lên Bắc rồi. Tướng quân Phạm Hạp cho là Sứ quân Kiều Thuận đến hồi tàn mạt, hay tin những điều cúng vái pháp thuật. Cho nên bị bọn pháp sư, thuật sĩ mê hoặc. Ông nói với các tướng cùng đi:

- Như vậy, thì có lẽ đến hồi mạt vận của Kiều Thuận rồi cũng không biết chừng! Có khi Quân sư biết cho nên mới bất thần cho lệnh tiến quân gấp đến thế này! Bây giờ ông Nguyễn Bặc được tin về tình hình ở phủ đường, cho nên mới đem giáp binh đi như thế. Cho dù thế nào chăng nữa cũng phải gấp đi yểm trợ cho ông ấy. Không thể khinh suất được, lỡ ra có điều gì bất ngờ chăng?

Tướng Trương Đức Xuân bảo:

- Nếu đại binh ta tụ lại một nơi, dốc lực đánh phá một chỗ, thì trước hết binh kéo đi đông quá dễ gây náo động. Hai là địch còn có các mặt khác để chống đỡ hay trốn chạy. Vậy ta nên chia nhau nhiều mặt cùng kéo tới thì tốt hơn cả.

Các tướng bằng lòng, thế là Trương Đức Xuân mang hai nghìn binh đi vào cửa phía Đông thành Trương Xá, tướng Tống Thừa Vu đi cửa Nam, tướng Quốc Hồi Uy đi cửa Tây, còn tướng Nhan Mục Thản thì cùng với Phạm Hạp gấp đưa binh lên cửa Bắc. Lại hẹn nhau: Xong thành Trương Xá thì kéo binh đi lấy thành Phú Lập ngay để còn kịp kéo về phủ đường tiếp ứng cho tướng Nguyễn Bặc.

Các tướng đem binh đi, Nguyễn Bặc còn lại năm trăm giáp sĩ. Kín đáo ẩn quân đợi ước khoảng giờ hẹn đã tới liền kéo quân đi. Nguyễn Bặc nhắm hướng phủ đường, theo chân tế tác cùng giáp sĩ lặng lẽ kéo đi. Phạm vi chung quanh phủ đường dân có nơi còn thức, nhiều nơi đã tắt đèn đi ngủ. Binh Hoa Lư theo Nguyễn Bặc kéo đi dù êm thế nào chăng nữa, cũng gây ra những tiếng động làm cho dân chúng thức giấc. Rồi chẳng mấy chốc tin đồn lan ra. Có nơi bảo là binh tướng của Sứ quân đi công việc. Có nơi lại quả quyết: Binh lạ ở ngoài kéo vào. Thế là chớp mắt dù đang nửa đêm cả phủ đường Hồi Hồ dân chúng cũng thức dậy hỏi nhau lo lắng, chẳng biết có việc gì. Có người lại còn quả quyết: Binh lạ toàn mặc đồ đen, không thấy có khí giới, ở ngoài xa thì đi bằng ngựa, vào sát phủ đường thì bỏ ngựa đi bộ. Có lẽ có biến ở phủ đường. Có kẻ bạo gan còn nương vào bóng đêm rủ nhau kéo đi xem có việc gì. Càng đến gần phủ đường, càng thấy có những dấu hiệu lạ.

Lúc ấy, tướng quân Nguyễn Bặc cho là giờ hẹn đã tới, gấp đem giáp sĩ vào phủ đường Hồi Hồ. Phủ đường tuy đã quá nửa đêm mà vẫn còn sáng đèn đuốc. Binh Hoa Lư lặng lẽ tràn tới, được lệnh cho dù có giao chiến cũng tuyệt đối không được lên tiếng. Tuy vậy, cả một đạo quân đi như thế, cũng không làm sao để hoàn toàn yên lặng như một mình thích khách đi được. Cho nên khi đạo quân đến sát phủ đường, thì quân canh đã phát giác ra, liền lập tức báo động.

Nguyễn Bặc thấy tình thế, liền lập tức hô quân ào tới. Trên đường tiến binh lại có lệnh: Bất cứ quân canh nào của Hồi Hồ không bỏ chạy, tay còn cầm khi giới, đều giết sạch. Thế là quân Hoa Lư nghe lệnh tràn tới nhưng vẫn không lên tiếng.

Trong phủ đường, Sứ quân vừa lui về tư thất. Cuộc vui chốn phòng riêng với mĩ nhân không phải là vợ Sứ quân lại vừa mới bắt đầu, thì ngài nghe tiếng trống hiệu báo có biến. Sứ quân gạt mỹ nhân sang một bên rồi vội khoác áo cầm gươm dài chạy ra. Vừa ra đến phủ đường thì thấy đang có giao chiến lớn. Ngài chẳng hiểu có biến loạn gì, ngài thét lớn:

- Có việc gì? Sao có chiến ở đây?

Vừa thét dứt, thì Sứ quân cũng nhìn ra được: Các tướng của ngài đang tận lực chiến với binh lạ, mặc toàn đồ dạ hành màu đen. Binh lạ chẳng thấy lên tiếng chỉ thấy cứ lăn xả vào các tướng, cuộc hỗn chiến thật dữ dội.

Các tướng của Sứ quân Kiều Thuận thật đông, có nhiều người dữ dội, nhưng suốt mấy ngày qua triền miên bên những vò rượu, lăn lóc với gái đẹp chẳng ngừng. Ngay tại đại sảnh tiệc rượu lúc ấy cũng còn đang sôi nổi đầy ắp những sơn hào hải vị, rượu từng vò chất dọc hai bên vách đại sảnh, cảnh trụy lạc dâm ô bừa bãi khắp nơi. Các tướng nhiều người thức thâu đêm suốt sáng. Một đời người chẳng có đến hai lần được hưởng thụ lớn đến thế này, cho nên chẳng ông nào lại nỡ từ chối.

Bây giờ, men rượu làm cho tinh thần đảo lộn, trí sáng có cũng thành trí tối, sức lực theo với những cuộc truy hoan mà suy nhược. Giữa tiệc khí giới chẳng có, làm sao chống lại được với dám giáp sĩ hung dữ quá chừng. Giáp sĩ chủ dùng thuần dao ngắn. Mới đầu đã tưởng là bất thần đánh úp thì giết hết được các tướng của Sứ quân, nào ngờ cũng còn nhiều người tuy say và đã mất nhiều sức lực, nhưng quân cũng không phải là địch thủ của các ông ấy. Cho nên dần dần các tướng Hồi Hồ đã cướp được dao của quân Hoa Lư. Bây giờ cuộc chiến mới thật khốc liệt.

Tướng quân Nguyễn Bặc xua quân tràn vào, ông để mặc cho quân tha hồ chém giết, ông nghĩ: “Vương với Quân sư vẫn thường dặn là cố tránh chém giết, nhưng trong cảnh này ở Hồi Hồ thì giết cho hết binh tướng của Kiều Thuận cũng không phải là quá”. Cuộc chém giết chưa lâu, năm bảy tướng Hồi Hồ thiệt mạng, một số người bị thương. Nhưng bây giờ thì các tướng đã có khí giới, định được tinh thần, và thét vang bảo nhau ra sức đánh giặc.

Giữa lúc ấy, Sứ quân Kiều Thuận đã chạy tới, ngài thét to rồi hoa gươm xốc tới cứ binh mặc quần áo đi đêm thì thẳng tay chém giết. Lại hô các tướng mau mau giãn ra, ra khỏi đại sảnh để cự chiến.

Tướng quân Nguyễn Bặc thấy một người trung niên, để hàm râu lởm chởm. Vóc dáng cao to nhưng có vẻ gầy, khuôn mặt với hai gò má hơi cao có phần nghiệt ngã. Người này mặc áo thường, tay cầm gươm dài xông xáo chém giết quân của ông dữ dội lắm. Tướng quân chưa vội vào trận, còn quan sát xem người mới tới là người thế nào, các tướng Hồi Hồ hành động ra sao.

Đến khi nghe người mặc áo thường thét bảo các tướng, thì Nguyễn Bặc hiểu ra đây chính là Sứ quân Kiều Thuận. Tướng quân thét lớn lên:

- Kiều Thuận, mau đầu hàng! Đại binh Hoa Lư đã vào đến đây rồi mà còn mơ ngủ kháng cự sao!

Cùng với tiếng thét, tướng quân vẹt đường xốc cây giáo sắt nặng tám mươi cân tràn đến chỗ Sứ quân. Sứ quân chẳng nói huơ trường kiếm chém bổ xuống giữa đầu Nguyễn Bặc. Bặc cười nhạt vung giáo dài hất ngược lên, rồi áp đánh Sứ quân kịch liệt.

Từ lúc Sứ quân xuất hiện, các tướng hăng lên. Người bị thương mặc cho máu chảy, cũng cướp lấy dao ngắn của binh Hoa Lư xông vào tiếp sức với chủ vây lấy Nguyễn Bặc. Binh Hoa Lư dần dần bị các tướng đẩy lui trở ra bên ngoài. Trong đại sảnh lúc này đã rộng chỗ, sáu tướng cùng với Sứ quân vây lấy Nguyễn Bặc. Bặc tính tình vốn lầm lì lúc này lại càng lầm lì. Mím chặt môi cử giáo sắt cự chiến với các tướng Hồi Hồ thật dữ dội. Nhưng, mãnh hổ chẳng thể địch lại được với đàn cáo nhỏ. Chẳng mấy chốc tướng quân đã thấy bất lợi, lâu nữa thì thế nào cũng thất thế!

Tướng Nguyễn Bặc cứ nhằm vào Sứ quân Kiều Thuận ra sức tiến đánh. Có tướng Hồi Hồ kêu lớn lên:

- Chúa công mau ra ngoài, sai các tướng gìn giữ các nơi. Để chúng tôi giết thằng giặc này!

Đích thị đây là Sứ quân Kiều Thuận, tay gươm của Sứ quân tỏ ra có bản lĩnh. Lần đầu tiên trong đời làm tướng, Nguyễn Bặc được tiếp một Sứ quân tận tay cầm gươm vào trận. Ông hứng khởi quá quên mất rằng đạo giáp binh của mình chỉ có dao ngắn. Bây giờ không có hành động gì khác mà tình thể kéo dài, tất đám quân ấy khó lòng còn được với các tướng của Hồi Hồ.

Nguyễn Bặc chiến với Kiều Thuận chưa thể thắng ngay được. Dù rằng Sứ quân không phải là địch thủ có thể cầm cự lâu với tướng quân, nhưng trong thời gian này cũng đủ để quân của ông bị thiệt hại nhiều. Lại thêm phủ đường đã có báo động, tướng nội trấn phủ đường Hồi Hồ đã kịp mặc giáp lên ngựa đem quán đến cứu ứng. Tướng nội trấn này tên là Phùng Chí Tôn, tự bảo rằng mình là dòng dõi của Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng ngày xưa. Chí Tôn vóc người đồ sộ, hai mắt sáng như sao, miệng rộng có sức khỏe. Trước làm nghề đi rừng, học nghệ chẳng ai biết theo môn phái nào. Chỉ biết vì Chí Tôn xử cây búa rừng dữ dội lắm, cho nên người đời tặng cho danh hiệu là “Thiết Phủ Thiên Lôi”. Ý nói ông ta là Thiên Lôi cầm búa sắt. Chí Tôn đã có sức khỏe, lại có tính đa sát rất hợp ý Sứ quân. Được ngài tin yêu trao cho chức Nội An tướng, cai quản tất cả binh mã nội phủ. Nay vì lễ hội, Sứ quân ban cho các tướng suốt trong mấy ngày liền, thì Chí Tôn cũng như các tướng khác có bao nhiêu sức lực dốc cả vào hưởng thụ. Có lúc rượu say gái đẹp đến nhữn cả người ngay tại đại sảnh. Bây giờ lên ngựa mang búa vào trận cùng các tướng vây đánh Nguyễn Bặc, thì lúc đầu lấy đông chèn ép Bặc. Chỉ trong một lát là tuy đông hóa ra vẫn chẳng làm gì được tướng Hoa Lư.

Sứ quân nghe tướng trấn nội phủ kêu lên như vậy, thì mở rộng đường gươm toan thoát ra, nhưng Nguyễn Bặc là người khôn ngoan đời nào lại để Sứ quân đi khỏi được. Thế là cây thiết giáo trong tay vận hết sức, có bao nhiêu tài nghệ đem cả ra cùng một lúc chiến với sáu tướng Hồi Hồ và Sứ quân. Áp đảo không cho Sứ quân có thể ra ngoài được.

Tướng Thiết Phủ Thiên Lôi Phùng Chí Tôn giục ngựa xông bừa vào. Các tướng Hồi Hồ giạt tránh cả ra. Chí Tôn kêu:

- Chúa công mau mau lên ngựa!

Chí Tôn vừa kêu vừa phóng mình xuống đất. Sứ quân Kiều Thuận vừa thu gươm toan nhún mình bay lên yên ngựa, thì Nguyễn Bặc đã như con rồng uốn khúc. Tay giáo quật mạnh xuống sàn nhà lấy đà tung mình vọt lên. Giáo sắt lia ngang, chặn không cho Sứ quân có thể lên ngựa được. Sứ quân vừa nhún chân lấy đà nhảy lên, thấy ngọn giáo bay tới thì vội vàng cử gươm lên đã nghe “choang” một tiếng. Thang gươm tuột ngay khỏi tay Sứ quân, ngài luống cuống vừa hoành thân toan chạy trở lại thì ngọn giáo sắt đã như làn gió đập xuống toan đánh vào giữa đỉnh đầu Sứ quân. Tướng Phùng Chí Tôn vừa xuống ngựa ở ngay cạnh đấy, tức thì tung búa sắt lên chặn cây giáo nghe “chát” một tiếng. Chí Tôn thấy cánh tay như muốn lìa ra, cây búa rũ xuống. Bao nhiêu sức mạnh của cánh tay dữ dội từng giết cả trăm người ấy, lúc này không nâng nổi cây búa trận lên!

Sáu tướng thấy thế ùa cả lại, tận lực vung dao ngắn nhất tề đâm xả cả vào Nguyễn Bặc. Ngọn giáo của Bặc có lợi hại nhưng ở nơi tương đối không rộng, lại vướng víu đủ thứ bàn ghế chum vò, chân bước đi đạp lên không biết bao nhiêu là bát đĩa món ăn ngổn ngang đầy trên sàn, sơ sẩy là trượt chân ngã ngay. Vì thế sáu tướng xả thân cứu chủ cùng một lúc ập tới nguy hiểm quá. Nguyễn Bặc vọt mình bay tới chỗ Sứ quân không lo Sứ quân có khí giới đánh lại. Ông lia cây giáo sắt ngược trở lại cản các tướng Hồi Hồ.

Sứ quân mất gươm thét thuộc hạ, mau mau lấy khí giới cho ngài. Trong sảnh lúc ấy binh Hoa Lư thấy chủ tướng còn vướng trong sảnh thì hò reo ra sức xông vào. Tướng Phùng Chí Tôn sau khi cánh tay bị tê dại vì chặn đường giáo của Nguyễn Bặc, thì thận trọng. Cán búa dài của người đi rừng bây giờ ông ta cầm bằng cả hai tay, vì thế sức mạnh đã lấy lại được. Chí Tôn lăn xả vào đánh Nguyễn Bặc, hung tính nổi lên. Chí Tôn không còn biết sợ là gì nữa khiến cho Nguyễn Bặc cũng thấy khó khăn.

Thừa lúc tướng Hoa Lư bị vướng víu, lại phải chống đỡ với sáu bảy tướng của mình. Sứ quân cầm dây cương lôi con ngựa chạy ra ngoài. Nguyễn Bặc không thể nào cản Sứ quân lại được, đành chú hết tâm cự chiến với các tướng Hồi Hồ.

Sứ quân thoát được ra ngoài, giáp binh Hoa Lư xúm xít ùa tới ra sức đâm chém. Sứ quân tay không chẳng l