Chú thích
...
[←1] Thứ gỗ nhẹ, xốp, lõi dùng làm bấc đèn.
[←2] Núi này cách huyện Quế Sơn ba mươi chín dặm về phía Tây Bắc, có tên là Lai Chủy, người đời sau lại đặt cho tên nữa là núi Hoành Sơn, phía Bắc kề sông Thu Bồn - Quảng Nam ngày nay. Xưa có tiếng là nơi lắm trăn gió ẩn nấp rất nguy hiểm
[←3] Hồi này vẫn chưa nói về việc họ Tôn được đãi ngộ ra sao…
[←4] Huyện Siêu Loại thuộc quận Vũ Ninh. Vũ Ninh là tên gọi ở đời quốc tổ Hùng Vương. Đời Tấn - thuộc gọi là Tượng quận. Đời Hán – thuộc là đất thuộc hai huyện Luy Lâu và Long Biên. Các đời sau cũng có nhiều thay đổi tên.
[←5] Người xưa phân rượu ra thành nhiều loại, mỗi loại tùy theo cách chế, màu sắc, mạnh nhẹ mà gọi tên. Vì thế có các loại: Nhượng là rượu trong veo, đục gọi là Ang, mạnh gọi là Thuấn, lạt gọi là Li, rượu cất gọi là Chừa, cất chỉ trong một đêm là xong gọi là Lễ, rượu ngon là Tư, chưa lọc gọi là Lạc, rượu đỏ là Thể, rượu xanh là Linh, riêng rượu trắng gọi là Sai.
[←6] Dòng hạ lưu chỗ này sau bị bồi đắp dần, nay thì hoàn toàn mất hẳn.
[←7] Lời trong Kinh Thi.
[←8] Ngũ Nhạc: năm núi cao lớn nhất của nước Trung Hoa là: Đông Nhạc tức núi Thái Sơn, Tây Nhạc tức núi Hoa Sơn, Nam Nhạc tức núi Hoắc Sơn, Bắc Nhạc tức núi Hằng Sơn, và Trung Nhạc tức núi Trung Sơn.
[←9] Tứ Độc: bốn sông lớn nhất ở Trung Quốc là Giang, Hà, Hoài, Tế.
[←10] Tứ Du: bốn hướng đặc biệt: Thượng, Hạ, Đông, Tây ở bên ngoài chiêu độ của 28 ngôi sao trên trời (nhị thập bát tú); mỗi hướng 1.500 dặm.
[←11] Mượn thơ khuyết danh đời nhà Trần, vịch cảnh chùa Thần Quang.
[←12] Bài thơ này nay còn lưu lại trong sách Sử Ký
[←13] Thổ dân ở Úc châu (tức châu Đại Dương) cũng có cách ném một thứ khí giới gọi là boomerang bằng gỗ, hai đầu nhọn, có độ cong queo theo ý nhất định. Khi ném đi nếu không trúng đích thì boomerang bay vòng trở lại tay chủ.
[←14] Tam Thai: Tên ngôi sao, có Thượng Thai, Trung Thai và Hạ Thai. Cộng có 6 cái, cứ hai cái liên hệ làm một thành thử gọi là Tam Thai.
[←15] Đây là cờ Hùng Vương Dựng Nước, sau gọi vắn tắt là Cờ Hùng Vương. Độc giả muốn biết cờ này xin xem trong BẮN RỤNG MẶT TRỜI của tác giả Vũ Ngọc Đĩnh.
[←16] Tương truyền Đế Thích là vua cờ tướng. Truyện kể: Ở xã Liêu Hạ, huyện Đường Hào, tỉnh Hải Dương. Về triều nhà Lý năm Long Thụy thứ 2 (1055) có người ở Liêu Hạ (có nơi nói là Cổ Liêu) tên là Trương Ba, đời tu thiện, đánh cờ cao không ai địch được. Ông bèn qua bên Tàu gặp một người già xưng tên là Ky. Như cũng có tiếng cao cờ, kết bạn rồi cùng về làng Liêu làm cái am ở đấy. Một hôm hai người bảo nhau rằng: “Nghe ở thượng giới có Vua Đế Thích đánh cờ rất cao, bao giờ chúng ta được gặp để chúng ta cùng đấu trí vài ngày nhỉ!”. Bỗng thấy một ông lão mặc áo rách đội nón gỗ chống gậy đi đến xin đấu cờ với Trương Ba, ván nào cũng chỉ vừa đi được 4 hay 5 nước là ông lão đã thắng rồi. Trương Ba kinh hãi hỏi tên họ, ông lão bảo rằng: Ta là Đế Thích nhà ở trên thượng giới tam thập tam thiên (33 tầng trời). Người kia liền xuống thềm vái lạy, dâng mía ngọt và chuối thơm lên Đế Thích xơi. Đế Thích bèn lấy 3 thứ: trầm hương, đàn hương và giáng hương trao cho 2 người và bảo: “Sau có gặp nạn, thì đốt hương này ta sẽ đến cứu”. Nói xong lão nhân đằng vân bay lên trời. Hai người được hương ấy thì đem cất đi lâu ngày rồi quên mất. Sau hai người bị bệnh chết, người nhà dọn quét, thấy hương còn sót lại, bèn đem hương đốt, thì thần giáng xuống liền. Lúc đó 2 người đã chết rồi, thần liền triệu Tam phủ Công đồng hoàn hồn cho. Rồi 2 người sống lại, bèn lập miếu phụng sự, thường linh ứng. Sau Mạc Ngọc Liễn trùng tu lại tòa miếu. Đến đời Lê năm Hằng Định thứ 6 (1605) quan Thái Tể Hoàng Đình Ái có bệnh, đến đền cầu cũng được khỏi. Ông Ái sai quan vệ úy Nguyễn Bá Lý đốc công tu bổ lại miếu và dựng bia phụng sự. Sự tích có nói trong sách “Công Dự Tiệp Ký” của Vũ Phương Đề, y như trong sách “Kiến Văn Tiểu Lục của ông Lê Quý Đôn. Miếu này nay vẫn còn dấu tích.
[←17] Đời nhà Lý sửa sang tạo ra dòng Vạn Phước, cảnh trí u nhàn thanh nhã. Sách “Truyền Kỳ Mạn Lục” chép: Từ Thức cởi áo cừu tặng cho tiên nữ, cũng ở núi này. Sách “Lê Minh Chí” chép: Núi Tiên Du là một danh sơn trong 21 danh sơn ở An Nam; niên hiệu Hồng Vũ nguyên niên (đời Minh 1368) vua Minh hạ chiếu đem núi này cùng núi sông ở Trung Quốc hiệp tế ở Giao Đàn. Năm thứ 3, vua Minh sai sứ qua xét lại khiến về hình thế núi này và các núi Vũ Ninh, Phổ Lại cùng Vạn Kiếp đem về. Sách Cao Hùng Trưng An Nam chí chép: Vua nhà Trần sáng tạo, thư viện Lạn A, dùng danh nho Trần Tôn làm sơn trưởng, giáo thụ sinh đồ, lại thường đến tiết Trùng Dương đến thăm viếng. Cách phía Tây vài dặm có chùa Vĩnh Phước, lại cách vài dặm nữa có am Nguyệt Thường phía Bắc góc núi có chùa Kim Ngưu. Tức là nơi Cao Biền đào giếng thấy có con trâu vàng chạy ra, nên gọi tên ấy. Nơi đây sắc đá đỏ như vàng, ban đêm có hào quang, nên cũng gọi là núi Kim Ngưu.
[←18] Đăng Cao: leo lên núi cao. Người nước ta hay theo tục người Tàu, ngày trùng cửu bay rủ nhau lên núi để tị nạn. Tục lệ này do thuở xưa Phí Trường Phòng bảo Hoàn Cảnh ngày 9 tháng 9 phải mang lá cây thù du lên núi cao để tránh họa, ấy là khởi thủy cho tục “Trùng Cửu đăng cao” (Từ Nguyên dẫn sách “Túc Tề Hài ký”).
[←19] Theo mạch là Đường Lâm, nhưng từ các chương trước cứ đổi ra Hồi Hồ nên tôi để nguyên khi làm lại sách. - Lamtaxy
[←20] Về sau, năm Tự Đức thứ 13 (1860). Tri phủ Trần Ân đến nơi này xem phong cảnh, thăm miếu xong thì cho khắc biển ngạch đề là “Đảo Vũ miếu” tức là: miếu cầu mưa.
[←21] Đầm Bông có khe nhỏ chạy quanh co 30 dặm đến xã Tốt Động, huyện Mĩ Lương thì vào sông Tích. Ở Tốt Động sau này có ông Lê Lợi khởi nghĩa đuổi quân nhà Minh giành lại nền tự chủ, đánh trận ở Tốt Động này năm Bính Ngọ 1426, thây giặc chất cao như núi.
[←22] Vô phong lộc dao thảo cũng còn gọi là cây Tử Vi. Theo sách Quần Phương phổ và sách Từ Nguyên nói: Lấy móng tay cạo da cây tử vi thì trên ngọn cây lay động. Trong sảnh Tử Vi nhà Đường có trồng nhiều cây này.
[←23] Sách Từ Nguyên chú: cỏ “Ngu Mĩ Nhân” gặp khi người ta hát khúc “Ngu Mĩ Nhân” thì cành lá đều dao động.
[←24] Quân sự tính việc dàn xếp tránh những bất ngờ mai sau nghi là có thể có. Nhưng Quân sư vẫn không thể lường hết được mọi việc ở đời, chẳng thể nào thấy được hết mọi u uẩn của lòng người. Cho nên dù đã có những dàn xếp cột buộc kỹ đến như vậy. Việt Sử Tiêu Án của ông Ngô Thời Sỹ viết... Ngô Nhật Khánh cũng vẫn không bằng lòng, âm thầm ôm ấp mối hận riêng. Đợi cơ hội liền đưa cả gia quyến chạy xuống nước Chiêm Thành. Đi đến cửa biển, rút lấy con dao vẫn đeo rạch vào má công chúa vợ mình (Con gái của Đinh Tiên Hoàng đế) mà kể tội rằng: “Cha mày ức hiếp ta, ta đâu có vì mày mà quên thù được? Cho mày về, ta đi tìm người để cứu ta”. Sau đó dẫn người Chiêm vào cướp, đi đến cửa biển Đại Nha gặp gió to sóng lớn thuyền đắm. Nhật Khánh bị chết đuối, vua Chiêm Thành đành phải thu quân về Nước.
Riêng Đinh Bộ Lĩnh, khi gồm thâu được thiên hạ, đem giang Sơn về một mối, lên ngôi thì lập đến 5 ngôi hoàng hậu: Đan Gia, Trinh Minh, Kiều Quốc, Cù Quốc và Ca Ông. Về việc này, sử thần Lê Vân Huy chê rằng: Đinh Tiên Hoàng là người không biết cổ học, mà bầy tôi bấy giờ không ai sửa chữa lại. Đến nỗi mê đắm, thiên tư lập 5 ngôi hoàng hậu ngang nhau. Sau Lê, Lý phần nhiều bắt chước, chính là do Tiên Hoàng đế khởi xướng...
Còn Ngô Thời Sĩ thì phê bình: Một âm một dương gọi là đạo. Các bà hoàng hậu dựng nên nhà Hạ giúp đỡ nhà Chu, không nghe có đến hai hoàng hậu, huống chi lại có 5 hoàng hậu ư? Từ năm Thiên Nguyên nước Chu lập 5 hoàng hậu, bài sách văn phong hoàng hậu có câu rằng: “Đức ví với khôn nghi, ngũ hành là số 5”. Đó là lấy lời câu kinh, để che lỗi của mình. Vua Đinh Hoàng không học sách, theo ý riêng mà làm càn, đúng như chuyện nước Chu. Lỗi đó hai bên cũng như nhau.
[←25] Vương nhắc đến những cảnh đẹp ở núi Sài Sơn. Trên núi có chỗ phía Bắc gọi là Thiên thị, chợ Trời, phía Đông có Trúc viên, vườn tre. Tương truyền là vườn của Lữ Gia ngày xưa.
[←26] Mãi đến khi Thập Đao Tướng Quân là Lê Hoàn lên thay nghiệp nhà Đinh, lập ra nhà Tiền Lê. Lúc ấy nhà Tống cho là Giao Châu đại loạn. Sai hai quân thủy bộ vào Giao Châu. Lư Đa Tốn mang thư dến dụ Lê Hoàn không được, rồi nhà Lê cho binh tướng tiến đánh binh Tống.