Mấy lời cuối truyện
Sử ghi: Năm Mậu Thìn (968). Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng Đế, xưng là Đinh Tiên Hoàng Đế. Đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, lấy niên hiệu là Thái Bình nguyên niên, đóng đô tại quê nhà ở Hoa Lư, xây cung điện, định triều nghi. Quần thần tôn Ngài là Đại Thắng Minh Hoàng Đế... Nước mới lập sau một thời gian dài đại loạn. Tiên Hoàng Đế giữ phép nước cực nghiêm, cốt để cho trăm họ được yên lành sinh sống.
Năm Canh Ngọ (970) là năm đầu tiên hiệu Thái Bình, Tiên Hoàng Đế đặt 5 ngôi hoàng hậu, vỗ về trăm dân, mở mang đường sá. Lại nhớ đến lời luận giảng ngày xưa của Lê Thảo cho đúc tiền đồng hình tròn, tượng trưng cho trời, giữa có lỗ vuông tượng trưng cho đất, trên mặt đồng tiền ấy cho khắc bốn chữ “Thái Bình Thông Bảo”. Đây là đồng tiền đầu tiên ở nước ta, khuyến khích dân đi lại làm ăn, dạy dân cách dùng tiền làm tin thay cho cách trao đổi hàng hóa vướng víu bất tiện. Người thời ấy gọi tiền là “vật tiên”.
Trong một ngày cuối Xuân, người kể chuyện Mười Hai Sứ quân mở sách cũ thấy có sử gia đời sau viết:
“Xem cuộc đời 12 Sứ quân tranh nhau thì biết nghĩa hợp quần là khó, nhưng cũng biết cái trí não của dân tộc ta về hồi ấy đã đến độ tiến hóa. Lúc ấy hai vua Ngô tuy mất, Xương Xí là dòng dõi Thiên Hoàng, cũng như Đông Chu Quân nhà Chu, Hoài Dương Vương nhà Hán. Nếu các thổ hào cùng nhau phục tùng, hợp hơn mười bọn nhỏ làm một bọn lớn, tôn Ngô Xương Xí làm thiên hạ cộng chủ để nối dòng họ Ngô, mà các bộ Sứ quân thì tự trị lấy bộ mình. Khi quốc gia vô sự thời áo xiêm ngọc bạch như Tần - Tấn liên hoàn, khi quốc gia hữu sự thì môi hở răng lạnh, giữ gìn nhau như Ngu, Quắc kết nghĩa. Thế thì Hợp Chúng Quốc ở Bắc Mỹ và hai mươi lăm liên bang ở Nhật Nhĩ Man há chẳng xuất hiện vào nước ta về thế kỷ thứ 10 rồi ư?
Lại không làm thế, sớm chuông trống, tối giáo mác, mạnh ăn thịt yếu. Rút cục bị tiêu ma ở dưới ngọn cờ bông lau. Há chẳng phải là cái tội quần học bất minh (không rõ nghĩa hợp quần). Nhưng mà còn có chỗ đáng khen, vì trước hồi ấy mỗi khi gặp một phen biến loạn thì nhiều người dựa thế lực người Tàu. Như Đỗ Hoàng Văn đương khi có bệnh mà gắng đi xe sang nhà Tống, Lý Thúc Hiến đi đường tắt để chầu nhà Tề. Mượn thế lực người ngoài để bắt nạt đồng loại, thật đáng bỉ. Lúc bấy giờ các Sứ quân mỗi người xưng hùng xưng bá một phương. Sau Đinh Bộ Lĩnh cả thắng, xưng Vạn Thắng Vương, thì thế lực không Sứ quân nào chống nổi. Người Nam làm vua nước Nam, tưởng 12 Sứ quân có linh thiêng cũng ngậm cười ở nơi chín suối (Đại Việt Sử ký cải lương A 1146, quyển 1, tờ 63 đến 66b, Việt Sử Toàn Thư, của Phạm Văn Sơn)”.
Thời Mười Hai Sứ Quân bấy giờ có câu hát như sau:
Ở đời muôn sự của chung Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.
HẾT 1/4/1997 24 tháng 2 tức ngày Quý Hợi tháng Quý Mão, Đinh Sửu Linh Xuân – Thủ Đức
—ooOoo—