Chương 1 ĐEN VÀ TRẮNG
Thanh tra Lạc căm ghét mùi bệnh viện, nhất là thứ mùi hăng hắc của nước khử trùng lẩn quất trong không khí. Chẳng phải vì có kí ức đau buồn gì ở đây, mà chỉ đơn giản là thứ mùi đó gợi nhớ đến nhà xác. Dù đã làm cảnh sát hai mươi bảy năm, nhìn thấy biết bao thi thể, anh vẫn khó lòng quen với mùi này. Nói chung, ngoài những kẻ biến thái đam mê tử thi ra, chắc không ai trông thấy người chết mà vui cho được.
Lạc thở mạnh, nỗi bất an vẫn không vợi bớt, tâm trạng còn nặng nề hơn cả khi theo dõi khám nghiệm tử thi trong nhà xác.
Anh mặc bộ vest màu lam chỉnh tề, buồn bã nhìn người đang nằm trên giường bệnh.
Bệnh nhân trong căn phòng đơn này là một ông lão tóc pha sương, gương mặt đầy nếp nhăn lấp ló dưới mặt nạ thở oxy, hai mắt nhắm nghiền, làn da tái nhợt, cánh tay lấm tấm đồi mồi cắm những ống nhỏ nối với mấy cái máy trị liệu đang hoạt động. Màn hình 17 inch gắn trên đầu giường hiển thị các số liệu như mạch đập, huyết áp, lượng oxy trong máu... Đường đo nhịp tim chạy chầm chậm từ phải qua trái thỉnh thoảng nhấp nhô, nếu không thì chắc ai cũng nghĩ ông lão này chết rồi, và nằm trên giường chỉ là một thi thể được bảo quản tốt mà thôi.
Ông lão là sư phụ của Lạc, ông đã dạy anh điều tra, thu thập chứng cứ, lập luận phá án bao nhiêu năm nay, nhưng chính ông lại thường không hành động theo một quy tắc cố định nào.
“Tiểu Minh à, phá án không thể chỉ biết chăm chăm làm theo nguyên tắc. Ngành này đã có quá nhiều thành phần bảo thủ máy móc rồi. Mặc dù phục tùng mệnh lệnh cấp trên là lẽ đương nhiên, nhưng con phải nhớ, bảo vệ người dân mới là nhiệm vụ thực sự của cảnh sát. Nếu chế độ đẩy người vô tội vào hiểm nguy, chính nghĩa không rõ ràng, bấy giờ chúng ta có lý do chống lại chế độ trì trệ đó.”
Nhớ lại câu cửa miệng của thầy, Lạc không khỏi gượng cười. Tên đầy đủ của anh là Lạc Tiểu Minh. Mười bốn năm nay, kể từ ngày lên chức quyền thanh tra, hầu như không còn đồng nghiệp nào gọi thẳng cái tên mộc mạc đó nữa. Chỉ có thầy vẫn kêu anh là “Tiểu Minh”.
Đối với chỉ huy Quan Chấn Đạc, Lạc cũng như con đẻ của ông.
Trước lúc nghỉ hưu, Quan là tổ trưởng tổ B Phòng Tình báo Hình sự tại Bộ chỉ huy. Phòng Tình báo hình sự, gọi tắt CIB, là cơ quan tình báo trung ương của ngành cảnh sát, phụ trách thu thập, phân tích và nghiên cứu tin tức tội phạm của các khu vực, rồi phối hợp với các phòng ban khác lập kế hoạch hành động.
Nếu coi CIB là não bộ của ngành cảnh sát, thì tổ B chính là thùy trước trán, làm nhiệm vụ phân tích, tổng hợp và tìm ra sự thật từ muôn vàn manh mối rối như tơ vò. Quan bắt đầu dẫn dắt tổ hạt nhân này từ năm 1989 và trở thành linh hồn của CIB. Năm 1997 chuẩn bị về hưu, ông nhận Lạc Tiểu Minh, điều tra viên mới được thuyên chuyển về tổ B làm đệ tử cuối cùng.
Chỉ huy Quan chính thức làm cấp trên của Lạc chỉ trong nửa năm, nhưng sau khi nghỉ hưu, ông làm cố vấn hợp đồng cho ngành cảnh sát nên vẫn có nhiều dịp chỉ bảo cậu hậu bối kém mình hai mươi hai tuổi này. Đối với người không có con cái như chỉ huy Quan, Lạc chẳng khác nào con đẻ.
“Tiểu Minh à, đấu trí với nghi phạm giống như đánh bài, phải để đối thủ đoán sai át chủ bài của mình. Dù con cầm đôi át cũng phải khiến đối thủ nghĩ con chỉ có quân 2, quân 3 tép riu. Kể cả khi thấy mình không có cửa thắng, con vẫn phải giả bộ đặt cược thêm, lung lạc đối thủ. Như thế mới khiến nghi phạm để lộ sơ hở.”
Quan từng căn dặn Lạc như vậy, lại dốc lòng truyền dạy bí quyết phá án như người cha ân cần chỉ bảo con trai.
Sau bao năm tiếp xúc, Lạc coi Quan như cha, cũng hiểu rất rõ tính ông. Đồng nghiệp từng đặt cho ông nhiều biệt danh như “cỗ máy phá án”, “mắt thần”, “thám tử đại tài”... Nhưng Lạc thấy người vợ đã khuất của thầy nhận xét mới là chuẩn nhất.
“Ông ấy hả, bản chất chẳng khác nào dân cá gỗ, phải gọi là ‘Quan Chấn Đo’ mới đúng.”
Dân “cá gỗ” là cách nói vui chỉ những người tính toán chỉ li, “đo” với “đạc” vừa khéo tạo thành một từ ghép chỉ sự cân đong đo đếm. Nhớ đến cách chơi chữ của cô, Lạc bất giác mỉm cười.
Thật vậy, Quan là một quái kiệt khôn khéo giỏi giang, thích hoạt động độc lập, hay cân nhắc thiệt hơn. Ông đã trải qua bạo động thập niên 60, trụ vững trong sóng gió xung đột với ICAC thập niên 70, đối đầu bọn lưu manh hung hãn thập niên 80, tận mắt chứng kiến quá trình thay đổi chủ quyền thập niên 90 và dõi theo bao chuyển mình của xã hội trong thập niên đầu thế kỉ mới. Ông đã phá hơn trăm vụ án suốt hàng chục năm trời, âm thầm viết nên trang sử chói lọi cho ngành cảnh sát Hồng Kông.
Giờ đây, ở cái tuổi gần đất xa trời, bao hình tượng tốt đẹp mà ông dày công gây dựng cho ngành cảnh sát lại đang vụn vỡ. Đến thời điểm năm 2013 này, vầng hào quang của cảnh sát Hồng Kông cũng đã phai nhạt đi khá nhiều.
Thời kì thuộc địa, lực lượng cảnh sát Hồng Kông từng được nữ hoàng Anh phong danh hiệu “Hoàng gia” vì lòng tận tụy với nghề. Sau sự kiện quét sạch tham nhũng hồi thập niên 70, họ trở thành đội ngũ hành pháp ưu tú nhất nhì thế giới, liên tiếp chặn đứng các hành vi phạm tội tại Hồng Kông, luôn coi trọng chức trách bảo vệ người dân, được mọi tầng lớp xã hội ủng hộ, gắn với hình tượng chí công vô tư, chân thành đáng tin trong mắt dân chúng.
Tuy thi thoảng vẫn có những con sâu làm rầu nồi canh, khoác trên mình bộ cảnh phục mà lại dính líu đến những vụ án kinh thiên động địa, nhưng phần lớn người dân đều coi đây là thành phần cá biệt, không ảnh hưởng đến cảm nhận của họ về lực lượng cảnh sát.
Những cảm nhận đó đã thực sự thay đổi vì một sự kiện lớn lao.
Sau cuộc chuyển giao chủ quyền năm 1997, các vấn đề chính trị dần dà trở nên nóng hổi. Khác biệt về giá trị quan nảy sinh trong tranh chấp chính trị từng bước lan sang mâu thuẫn xã hội. Khi các phong trào xã hội và biểu tình thị uy ngày một dữ dội, thì kẻ đứng mũi chịu sào chính là lực lượng cảnh sát.
Những năm gần đây, phía cảnh sát nhiều lần dùng biện pháp cứng rắn theo lệnh cấp trên để đàn áp biểu tình. Đến tổ trọng án còn bị cử đi điều tra và bắt giữ các phần tử tham gia phong trào quần chúng. Những nghi ngờ về lực lượng cảnh sát bén rễ trong dư luận và ngày càng thu hút nhiều sự ủng hộ từ người dân vốn không có lập trường rõ ràng.
Nhưng gây tổn hại nghiêm trọng nhất đến hình tượng ngành, là tin đồn cảnh sát “hai mặt” khi làm nhiệm vụ. Lực lượng cảnh sát có một nguyên tắc cố hữu, luôn giữ thế trung lập trong chính trị, đối mặt với tình huống nào cũng vì công lý, theo pháp luật.
Đến khi đụng phải các xung đột dây dưa tới những tổ chức có quan hệ mật thiết với chính phủ, cảnh sát gặp trở ngại, không duy trì được năng suất phá án. Có người còn lên tiếng khẳng định, giờ đây cường quyền lấn át chính nghĩa, cảnh sát Hồng Kông trở thành tay sai cho giới cầm quyền, dung túng các tổ chức được chính phủ chở che, không giữ cán cân công lý mà chỉ thuần túy phục vụ chính trị.
Trước đây, mỗi lần nghe thấy những lời như vậy, Lạc đều lập tức phản bác. Nhưng hiện giờ, bản thân anh cũng mấp mé dao động, phải chăng lời nói đó là đúng. Anh không thể khẳng định chắc nịch vị thế trung lập tuyệt đối, luôn đứng về phía nhân dân, hành pháp công bằng của ngành cảnh sát được nữa. Số người mang tâm lý “làm thuê” trong đội ngũ cứ tăng dần đều. Họ đã quên đi bản chất cao quý của nghề này, chỉ biết vâng lệnh cấp trên, chẳng khác nào lao động phổ thông làm công ăn lương ngoài kia.
“Làm nhiều sai nhiều, làm ít sai ít, không làm không sai.” Đôi khi Lạc vẫn nghe có người nói thế.
Năm 1985, Lạc đầu quân vào ngành, vì khao khát niềm vinh dự khi làm cảnh sát. Đối với anh, đây là công việc vô cùng thiêng liêng, diệt trừ tội ác, bảo vệ chính nghĩa. Nhưng đối với không ít lính mới, cảnh sát không còn là “vinh dự”, mà chỉ là “nghề nghiệp”. “Căm thù cái ác”, “trừ gian diệt bạo” đều là lý thuyết suông. Họ chẳng thiết làm tốt, chỉ mong làm xong, duy trì mức chuyên cần, mau chóng thăng chức lên lương, an toàn hạ cánh, nhận trợ cấp nghỉ với lương hưu(1) mà sống đến hết đời.
Quan điểm này phổ biến bao nhiêu thì những phẩm chất riêng có của cảnh sát mất đi bấy nhiêu, hình tượng cao cả trong mắt người dân cũng theo đó sụp đổ.
Mới đây thôi, Quan còn nằm thoi thóp trên giường bệnh, vừa nắm chặt tay Lạc vừa cố thều thào, “Tiểu Minh... Dù người dân căm ghét, dù cấp trên bắt làm chuyện trái lương tâm, dù kẻ thù bao vây tứ phía... Cũng đừng quên bổn phận và sứ mệnh của người cảnh sát... Hãy quyết định cho đúng...”
Lạc biết rõ “bổn phận” và “sứ mệnh” thầy nói là gì. Với tư cách tổ trưởng tổ trọng án Sở cảnh sát Đông Cửu Long, anh hiểu rằng trước giờ mình chỉ có duy nhất một nhiệm vụ: bắt giữ tội phạm, bảo vệ người dân. Khi sự thật bị vùi lấp khỏi con mắt công chúng, thì trách nhiệm của anh là phải lập lại trật tự, giữ gìn phòng tuyến cuối cùng của chính nghĩa.
Và hôm nay, để hoàn thành trách nhiệm, anh quyết định trông cậy cả vào người thầy đang hấp hối.
Nắng chiều đổ xuống vịnh biển xanh như ngọc. Tia nắng rạng rỡ xuyên qua khung cửa sổ sát đất, rọi vào phòng. Căn phòng chỉ có tiếng máy móc chạy, tiếng tít tít thỉnh thoảng vang lên cho biết bệnh nhân còn sống và tiếng gõ bàn phím lạch cạch. Một cô gái ngồi trong góc phòng đang giúp Lạc làm nhiệm vụ này.
“Chưa xong hả Táo? Họ sắp đến rồi.” Lạc quay sang hỏi cô gái.
“Sắp. Nếu anh nói trước là phải thay đổi cả hệ thống, em đã không chật vật thế này. Sửa giao diện thì dễ, chứ biên dịch mã nguồn thì hơi tốn thời gian.”
“Ừ, nhờ cả vào em.” Về lập trình máy tính thì Lạc mít đặc, chẳng hiểu giao diện với biên dịch mã nguồn là gì. Nhưng anh tin tưởng trình độ kĩ thuật của Táo.
Cô gái trả lời mà mặt cứ cắm vào bàn phím. Cô đội mũ lưỡi trai đen cũ kĩ, mái tóc nâu xoăn tít buông xõa bên dưới, trên khuôn mặt mộc là cặp đít chai gọng đen dày cộp, áo thun đen phối với quần yếm tả tơi xơ mướp, chân xỏ xăng đan để lộ mười đầu ngón sơn đen bóng. Cả người cô toát ra vẻ lập dị, trên bàn nước trước mặt còn bày ba laptop đang mở sẵn, dưới chân là một đống dây dợ nhằng nhịt.
“Cốc cốc.” Có người gõ cửa.
“Đến rồi.” Lạc nhủ thầm. Trong tích tắc, anh lấy lại ánh mắt diều hâu săn mồi.
“Sếp ơi, đến cả rồi ạ.” Thanh, cấp dưới của Lạc, mở cửa gật đầu chào. Những người phía sau lục tục tiến vào phòng bệnh, ai nấy đều tỏ vẻ ngờ vực, không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
“Chào cậu Nghĩa, cảm ơn cậu đã bớt chút thời gian.” Lạc đứng dậy tiến về phía cửa. “Cả năm người đều đến thế này thì tốt quá. Dù chỉ một người vắng mặt, việc điều tra sẽ lại dây dưa thêm mấy ngày. Vậy nên thực sự cảm ơn mọi người.”
Lạc mở lời rất lịch sự, nhưng ai cũng hiểu đó chỉ là mấy câu xã giao bề ngoài. Dù sao họ cũng đang đối mặt với một vụ giết người.
“Xin lỗi, nhưng tôi không hiểu vì sao chúng tôi phải tới đây.”
Người lên tiếng đầu tiên là Du Vĩnh Nghĩa, tức “cậu Nghĩa” mà Lạc vừa chào. Thông thường, khi cần lấy lời khai từ nhân chứng hay những người liên quan đến vụ án, cảnh sát sẽ mời họ về đồn hoặc làm việc luôn tại hiện trường. Nghĩa không ngờ mình lại được gọi tới phòng bệnh đơn trên tầng năm bệnh viện Hòa Nhân ở khu Tướng Quân Áo(2). Ngạc nhiên hơn, đây là một trong những bệnh viện tư nhân trực thuộc tập đoàn Phong Hải của nhà họ Du. Nhưng nơi đây đâu liên quan đến vụ án.
Lạc ung dung đáp, “Chỉ là trùng hợp thôi, mong cậu đừng băn khoăn. Cố vấn của chúng tôi được chuyển đến bệnh viện này, nên đành phải mời cậu tới đây. Chưa kể, Hòa Nhân tình cờ lại là một trong những cơ sở y tế có trang thiết bị tốt nhất nữa, nên càng tính là trùng hợp.”
“Vậy sao.” Nghĩa vẫn thấy lạ, nhưng không hỏi thêm. Anh mặc bộ vest xám, đeo kính không gọng, tuổi vừa tròn 32, khuôn mặt còn vương đôi nét ngây ngô, vậy mà đã phải đưa vai ra gánh trách nhiệm chủ nhân nhà họ Du. Mẹ bệnh nặng qua đời, bố bị giết hại, anh đành gồng mình chèo chống gia nghiệp, hợp tác cùng cảnh sát với tư cách người đứng đầu dòng họ. Gia đình anh là danh gia vọng tộc, tập đoàn Phong Hải là doanh nghiệp IPO. Nghĩa biết rồi sẽ có ngày mình phải đứng ra tiếp quản việc kinh doanh, nhưng chẳng ngờ trách nhiệm lại đè lên vai đột ngột thế này.
Tuy là con thứ, song hiện giờ Nghĩa lại là người lớn tuổi nhất trong số con cái trưởng thành của cả dòng họ. Từ khi tận mắt nhìn thấy thi thể bố nằm trong vũng máu, suốt một tuần nay anh không nguôi nhớ về Du Vĩnh Lễ, người anh trai yểu mệnh hơn hai mươi năm trước.
“Nếu anh cả còn sống, chắc chắn sẽ bình tĩnh đối mặt với tình cảnh này.” Nghĩa tự nhủ. Bố vừa qua đời, vậy mà trong đầu anh chỉ toàn hiện lên khuôn mặt anh trai. Hễ nghĩ tới Lễ, cổ họng anh lại nghẹn đắng. Cái chết của Lễ đã phủ bóng đen u ám xuống thời thơ ấu của anh. Phải mất mấy năm trời anh mới thoát ra được, và mới quen được với cảm giác nôn nao mỗi khi kí ức ùa về. Cơn hoảng loạn lâu lâu trỗi dậy ấy khiến Nghĩa hiểu rằng, cái chết của Lễ là sự thật không thể lãng quên. Anh chỉ còn cách âm thầm chấp nhận, lặng lẽ gánh vác trọng trách khi đứng đầu nhà họ Du.
Ví như trọng trách thay mặt gia đình đến làm việc với cảnh sát.
Lần nào giáp mặt thanh tra Lạc, Nghĩa cũng căng thẳng. Nhưng địa điểm lần này là bệnh viện Hòa Nhân quen thuộc, anh thấy thoải mái hơn so với sở cảnh sát lạnh lẽo. Nghĩa không phải bác sĩ, nhưng nắm khá rõ cách bố trí phòng bệnh ở đây, không phải vì anh là lãnh đạo cấp cao của tập đoàn, mà chỉ vì hơn một năm trước, cứ vài ba ngày anh lại ghé vào thăm mẹ.
Trước đó, mỗi năm Nghĩa chỉ đến bệnh viện thị sát nhiều lắm là một lần. Ngoài Hòa Nhân, tập đoàn Phong Hải còn sở hữu vô số bất động sản và các công ty buôn bán vận chuyển hàng hóa, đó mới là đối tượng đầu tư chính. Hòa Nhân không mang lại doanh thu cao nhất, nhưng lại có tiếng nhất. Bệnh viện luôn đi đầu trong việc đưa các kĩ thuật chữa trị tối tân của nước ngoài về Hồng Kông, từ phẫu thuật lỗ khóa(3), kĩ thuật RFLP(4) tìm kiếm bệnh di truyền dựa trên ADN, cho đến phương pháp điều trị ung thư bằng tia phóng xạ...
Nhưng, y như mấy phim ba xu éo le, dù sở hữu bệnh viện Hòa Nhân với trang thiết bị và đội ngũ thầy thuốc hàng đầu, phu nhân nhà họ Du vẫn không thể qua khỏi căn bệnh ung thư quái ác, đành nhắm mắt xuôi tay ở tuổi 59.
“Sếp Lạc, các anh làm phiền chúng tôi mấy ngày nay rồi đấy. Tôi thấy cảnh sát các anh không phá nổi vụ này, nên cố tình vẽ vời nọ kia để có cái mà báo cáo cấp trên thôi.” Cậu thanh niên đứng sau Nghĩa nói với vẻ châm chọc. Cậu ta là Du Vĩnh Liêm, con út nhà họ Du, kém Nghĩa tám tuổi. Khác với phong cách của người anh khôn khéo chín chắn, cậu mặc toàn hàng hiệu, đầu nhuộm đỏ, giọng điệu ngả ngớn, trước mặt cảnh sát cũng không biết kiêng dè, dáng vẻ ngông nghênh chẳng sợ ai.
Nghĩa quay đầu lườm em trai trách móc. Nhưng thật ra anh cũng đồng tình với quan điểm là cảnh sát chỉ làm qua loa cho xong chuyện. Ba người còn lại gồm Thái Đình vợ Nghĩa, bà Hồ Kim Mạt giúp việc, và ông Vương Quán Đường thư kí riêng của gia đình, cũng đều chung nhận định. Tuần trước từng người đã bị triệu tới sở cảnh sát để làm bản tường trình. Không ai hiểu nổi thẩm vấn thêm lần nữa thì có tác dụng gì với việc phá án.
Lạc không để ý đến lời xúc phạm, bình thản nói.
“Nhà họ Du là một gia tộc lớn, Phong Hải lại là một trong những tập đoàn tài chính trụ cột của kinh tế Hồng Kông, nên cánh nhà báo mới rình rập vụ này như hổ đói săn mồi. Cấp trên của tôi quan tâm, muốn nhanh chóng phá án để tránh gây náo động giới doanh nhân và chính trị, nên đành nhờ đến sự trợ giúp của thầy tôi, cố vấn Bộ chỉ huy. Mong các vị chịu khó thuật lại vụ án.”
“Thầy của anh là nhân vật lỗi lạc nào thế?” Liêm mỉa mai, không coi viên thanh tra này ra gì.
“Là Quan Chấn Đạc, nguyên tổ trưởng tổ B CIB, cựu tổ trưởng tổ trọng án Sở cảnh sát Đảo Hồng Kông, hiện là cố vấn đặc biệt của ngành cảnh sát.” Lạc cười đáp. “Thầy chưa bó tay trước một vụ án nào. Tính đến nay, tỉ lệ phá án luôn là một trăm phần trăm.”
Nghĩa kinh ngạc, “Một trăm phần trăm?”
“Đúng vậy.”
“Anh... Anh nói quá rồi! Làm gì có ai đạt tỉ lệ phá án một trăm phần trăm?” Liêm phản bác, nhưng nghe giọng điệu không còn hống hách nữa.
“Vị cố vấn họ Quan ấy đâu?” Ông Đường tò mò hỏi. Người thư kí tóc bạc trắng, tuổi ngoài lục tuần đánh mắt nhìn Táo đang ngồi gõ bàn phím trong góc phòng. Cô gái ở độ đôi mươi này không thể nào là cựu tổ trưởng tổ trọng án.
Lạc quay đầu về phía giường bệnh. Mới đầu mọi người còn chưa kịp hiểu, sau mới dần nhận ra câu trả lời theo hướng nhìn của anh.
Nghĩa thốt lên kinh ngạc, “Ông... ông lão này chính là Quan Chấn Đạc?”
“Đúng.”
Chẳng ai ngờ ông lão gần kề miệng lỗ trên giường bệnh lại chính là viên thám tử tài ba mà Lạc đang ca ngợi.
“Ông ấy... mắc bệnh gì?” Vừa dứt lời, Nghĩa lập tức hối hận. Đây là việc riêng của bệnh nhân, hỏi thẳng như thế có khi lại khiến thanh tra phật ý, mà anh thì không hề muốn gây chuyện với cảnh sát.
Nhưng Lạc chẳng giấu giếm, “Ung thư gan, giai đoạn cuối.”
Không ai để ý thấy, giọng anh thoáng xót xa khi buột ra câu nói này.
“Nhờ lão... ông lão này điều tra vụ án của bố tôi sao?” Liêm vẫn nói năng bất cần, nhưng ít ra cậu ta đã không thốt lên cụm từ “lão già chết tiệt”.
“Liêm à, ăn nói cho cẩn thận!”
Người nhắc nhở không phải Nghĩa mà là ông Đường, tôi tớ lâu năm của nhà họ Du.
Liêm bĩu môi, nhưng không cãi lại.
“Sếp Lạc, anh gọi chúng tôi tới bệnh viện là để thuật lại lời khai cho... cho ông Quan đây nghe sao?” Thái Đình rụt rè hỏi như sợ lỡ lời, có vẻ vẫn chưa quen với thân phận “bà chủ”.
“Đúng vậy.” Lạc gật đầu. “Thầy tôi không thể đến tận nhà riêng hay sở cảnh sát, nên cảm phiền các vị quá bộ tới đây.”
“Nhưng... ông ấy có nói được không?” Thái Đình nhìn về phía ông lão nằm trên giường bệnh. Trước khi gả vào nhà họ Du, cô từng làm bác sĩ, nên thấy bệnh nhân phải cắm ống thở vào mũi, nhờ máy móc hỗ trợ để hô hấp, cô biết ngay đối thoại với bệnh nhân đúng là chuyện không tưởng.
Lạc thản nhiên đáp, “Không được. Cũng chẳng cử động nổi nữa. Thầy tôi... vừa hôn mê lại rồi.”
“Hôn mê rồi á?” Liêm cướp lời.
Nghĩa thốt lên, “Tức là chúng tôi đến muộn sao?”
“Điểm Glasgow(5) là bao nhiêu?” Thái Đình lại hỏi.
“Ba.” Lạc đáp. Đây là tình trạng hôn mê sâu nhất. Chỉ khi bệnh nhân không thể mở mắt, nói chuyện, tứ chi mất hết phản ứng, con số “3” tàn nhẫn ấy mới xuất hiện.
Thái Đình hiểu tường tận ung thư gan đến mức nào thì sẽ gây ra hôn mê. Chức năng gan suy yếu khiến nồng độ NH3 hoặc một số axit amin trong máu tăng cao, ảnh hưởng đến hệ thần kinh, làm bệnh nhân bất tỉnh. Hội chứng não-gan này ban đầu sẽ ảnh hưởng đến ý thức của bệnh nhân, nghiêm trọng nhất là dẫn đến hôn mê sâu.
“Nếu không thể nói cũng không thể cử động, làm sao chỉ huy Quan giúp cậu phá án đây?” Ông Đường hỏi. “Cậu không đùa chúng tôi chứ?”
“Thầy vẫn nghe được.” Lạc bình tĩnh đáp. “Vả lại, nồng độ NH3 trong máu đã giảm xuống mức an toàn, sẽ không ảnh hưởng đến khả năng tư duy.”
Thái Đình ngắt lời, “Nghe được thì ích gì? Một bệnh nhân hôn mê sâu như ông ấy truyền đạt suy nghĩ cho anh bằng cách nào?” Trong năm người, chỉ mình cô có kiến thức chuyên môn về y học. Cô hiểu rằng giờ là lúc cần lên tiếng thay cho người nhà.
“Nghe được là đủ rồi.” Lạc trỏ cô nàng lập dị ngồi phía sau, “Cô ấy sẽ xử lý nốt những việc còn lại.”
Táo chẳng buồn đáp, vẫn mải miết gõ bàn phím, cũng không thèm đếm xỉa đến ánh nhìn khác thường của năm người kia.
“Cô ấy là Táo, chuyên gia máy tính.”
“Chuyên gia máy tính?” Nghĩa thấy giới thiệu như vậy cũng bằng thừa, vì trước mặt cô gái bày ba máy tính lớn nhỏ, vỏ máy dán hình hoạt họa, cùng một đống dây dợ nhằng nhịt, vừa nhìn đã biết là chuyên gia máy tính lập dị. Nghĩa nhớ là phòng kĩ thuật của tập đoàn cũng có mấy anh chàng quai quái như thế. Quả nhiên dân IT trông khác hẳn những nhà quản lý như anh.
Liêm lại bắt đầu chọc ngoáy, “Chuyên gia máy tính thì làm được gì? Rút não ông già này ra nối với máy tính à?”
“Ừ, cũng gần giống vậy.”
Mọi người ngơ ngác nhìn vẻ mặt nghiêm nghị của Lạc, không ngờ anh lại thẳng thắn khẳng định như thế.
“Giải thích thì hơi lằng nhằng, mọi người cứ nhìn tận mắt cho dễ hiểu. Tuy nhiên, phải điều chỉnh lại hệ thống thì các vị mới dùng thử được, sẽ mất chút thời gian.” Lạc quay sang hỏi Táo, “Vẫn chưa xong à?”
“Xong, được rồi đấy.” Táo ngẩng đầu đáp, đưa cho Lạc một cái vòng nhựa trông như bờm cài tóc. Chiếc bờm có màu đen, rộng khoảng 2 cm, một đầu gắn dây điện màu xám nối với máy tính màu lam đặt bên trái trước mặt Táo.
“Đây chính là dụng cụ để ‘rút não’ thầy tôi.” Lạc giơ bờm lên. “Ông Đường, phiền ông qua đây làm mẫu.”
Ông Đường lúng túng lại gần.
Lạc bảo ông ngồi xuống sofa, rồi giúp ông đeo bờm. Nhưng anh không đặt chiếc bờm lên mái tóc lưa thưa của người đàn ông già, mà kéo nó xuống ngang trán, trông như vòng kim cô của Tôn Ngộ Không, khiến ai cũng thấy khó hiểu. Ông Đường bị hai đầu chiếc bờm áp vào hai bên thái dương, còn trước trán cảm giác như có gì đó nhô ra từ mặt trong của vòng, chạm hẳn vào da. Lạc nhẹ nhàng xoay cái vòng để điều chỉnh.
Đang chăm chú nhìn màn hình, Táo đột ngột bảo, “Được rồi.”
Lạc liền dừng tay, quay ra hỏi, “Mọi người có biết EEG(6) không?”
Thái Đình cất tiếng, “Là điện não đồ?”
“Chính nó.” Lạc giải thích, “Não người được tạo thành từ các nơron. Khi não hoạt động, nơron sẽ sản sinh ra xung điện nhỏ. Phương pháp EEG giúp chúng ta đo đạc những xung điện đó. Các nhà khoa học gọi nó là sóng não.”
Nghĩa kinh ngạc thốt lên, “Lẽ nào... cái bờm này có thể chuyển đổi sóng não thành ngôn ngữ?”
“Không phải. Hiện nay các nhà khoa học vẫn chưa thể giải mã hoàn toàn suy nghĩ của con người thông qua sóng não. Nhưng nếu chỉ để kiểm tra tình trạng não bộ, thì phương pháp này đã được ứng dụng từ lâu, những năm gần đây cũng có nhiều bước tiến lớn, chỉ cần vài thiết bị đơn giản là thực hiện được.”
“Việc đo sóng não khó ở chỗ phải phân biệt được đâu mới đúng là sóng não.” Táo nói xen vào. “Ví như trong căn phòng này, chỉ riêng các thiết bị y tế cũng đủ tạo ra vô số sóng điện gây nhiễu. Trước kia, EEG phải được tiến hành trong môi trường đặc biệt. Nhưng ngày nay, với sự hỗ trợ của máy tính, việc loại bỏ tạp âm trở nên vô cùng dễ dàng. Tôi đã tự viết chương trình vận hành cho hệ thống máy móc này, các thuật toán giảm tạp âm thì lấy từ kho dữ liệu của một nhóm nghiên cứu thuộc đại học Berkeley ở Mỹ, còn giao diện...”
“Tóm lại, chỉ cần não vẫn hoạt động, thiết bị này sẽ giúp chúng ta đoán được nội dung cơ bản nhất trong suy nghĩ của đối tượng.” Lạc cắt ngang bài diễn thuyết bất tận của Táo, ra hiệu bảo cô xoay màn hình máy tính ở giữa ra cho mọi người nhìn. Đó là loại laptop xoay 180 độ. Màn hình chia đôi, nửa trên màu trắng có chữ YES màu đen, nửa dưới màu đen lại hiện lên chữ NO màu trắng, trên đường phân cách hai nửa màn hình là một dấu cộng màu xanh lam.
“Ông Đường, bây giờ ông hãy tập trung cao độ, tưởng tượng dấu cộng màu xanh di chuyển lên trên.” Lạc hướng dẫn.
Ông Đường tuy không hiểu gì nhưng vẫn làm theo.
Liêm chỉ vào màn hình hét lớn, “Nó... nó chuyển động!”
Trên màn hình, dấu cộng màu xanh đang từ từ dịch chuyển lên trên, khi chạm đến chữ YES thì máy tính kêu “bíp” một tiếng.
“Sóng não ở trạng thái tập trung và thả lỏng khác nhau rõ rệt.” Lạc vừa nói vừa trỏ màn hình. “Khi ông Đường tập trung tinh thần, não sẽ sản sinh ra... ra...”
“Sóng beta. Chỉ khi tinh thần tập trung sóng não với tần số từ 12 đến 30 hz mới xuất hiện.” Táo nhô đầu lên giải thích. “Còn khi thả lỏng, não chỉ sản sinh ra sóng alpha ở tần số 8 đến 10 hz.”
“Đúng vậy, là sóng beta.” Lạc cười trừ, nghĩ thầm mình đúng là chẳng biết gì về nghiên cứu khoa học. “Ông Đường, bây giờ ông thử thả lỏng đi, ngắm cảnh biển ngoài cửa sổ chẳng hạn, khi đó dấu cộng sẽ chạy xuống phía dưới. Ông có thể điều khiển dấu cộng màu xanh lên xuống nhờ vào hai trạng thái ‘tập trung’ và ‘thả lỏng’.”
Mọi người dán mắt vào màn hình, thấy dấu cộng chậm rãi di chuyển khi lên khi xuống, lòng bán tín bán nghi. Nhưng nhìn vẻ mặt càng lúc càng sững sờ của ông Đường, tất cả hiểu rằng thiết bị này thực sự đo được sóng não.
Dấu cộng lên xuống thêm đôi lần, ông Đường tấm tắc khen, “Đúng thật! Khi tôi cố bảo nó đi lên, nó liền đi lên! Còn khi tôi không nghĩ gì, nó sẽ từ từ trôi xuống.”
“Các vị muốn thử cũng không sao.” Vừa nói, Lạc vừa tháo thiết bị ra khỏi đầu ông Đường.
Bình thường, Nghĩa sẽ xin thử ngay, vì anh vốn luôn hứng thú với những thứ mới lạ. Nhưng trong tình cảnh này, anh không hề muốn gây chú ý, nhất là khi viên thanh tra trước mặt quá đỗi khó đoán.
“Khoan đã, cô chuyên gia kia nói đã tự viết chương trình, thế còn phần cứng thì sao? Cái bờm này có vẻ giống như được đặt làm riêng...” Ông Đường hỏi.
“Mua đấy.” Táo đáp.
Ông Đường trông hoang mang, “Có chỗ bán thứ này ư?”
“Cửa hàng đồ chơi Toy“R”Us.” Táo lôi thùng các tông từ đằng sau ra, “Đồ chơi dùng sóng não đã tung ra thị trường từ mấy năm nay, không còn lạ lẫm nữa. Tôi chỉ mua linh kiện về sửa sang một chút thôi. Đừng coi thường đồ chơi thời nay. Đợt trước tôi còn thử sửa ống kính 3D trong máy trò chơi điện tử thành máy cảm ứng thực tế ảo để thay thế găng tay thực tế ảo đấy.”
“Khoan đã.” Thái Đình ngắt lời, quay sang hỏi Lạc, “Tức là anh sẽ đeo thiết bị này cho ông Quan, chờ ông ấy suy luận các tình tiết vụ án rồi báo lại kết quả cho chúng ta ư?”
“Đúng thế.”
“Nhưng thiết bị này chỉ cho phép trả lời YES hoặc NO thì phá án sao được?”
Lạc quét đôi mắt lanh lợi nhìn mọi người một lượt, “YES hay NO cũng đều có ích cho điều tra.” Ngừng một lát, anh khẽ nhếch miệng, “Với cả, thầy tôi còn thông thạo thiết bị này hơn tất cả những người ở đây.”
Anh rời sofa để ra phía cửa sổ sát đất, vòng qua cả Táo cùng đống dây và máy móc, đến bên trái giường bệnh, nhẹ nhàng đeo chiếc vòng nhựa lên trán ông lão, đến khi Táo nói “OK” mới thả tay ra. Ngồi xuống chiếc ghế kê sát đầu giường, anh hỏi, “Thầy ơi, thầy có nghe thấy con nói không?”
Bíp. Âm thanh lanh lảnh đột ngột vang lên từ loa máy tính. Dấu cộng màu lam lập tức chạy thẳng lên trên, dừng ở chữ YES.
“Sao dấu cộng lại di chuyển bất thình lình vậy? Hay nó bị hỏng?” Liêm thắc mắc.
Tút tút. Lần này máy tính lại phát ra tiếng trầm trầm, dấu cộng nhanh chóng nhảy xuống chữ NO.
“Tôi bảo rồi, thầy tôi giỏi điều khiển thiết bị này.” Lạc nói. “Trước đây, mỗi lần hôn mê gan(7), thầy đều dùng nó để giao tiếp với tôi, tính cả thời gian luyện tập cũng phải hơn một tháng. Hệ thống đã ghi nhận nhiều số liệu của thầy, nên tỉ lệ sai sót gần như bằng không.”
“Có người thay đổi mức tập trung tinh thần nhanh đến vậy sao?” Thái Đình sửng sốt, hết nhìn ông lão lại nhìn màn hình.
Bíp. Dấu cộng lập tức chạy lên chữ YES.
“Người mù có thể đoán khoảng cách dựa vào tiếng động. Người điếc có thể đoán lời nói dựa theo khẩu hình. Khi bị dồn đến đường cùng, tiềm năng của con người sẽ bộc phát.” Lạc đan tay vào nhau, đặt trên đùi, “Vả lại, đây là công cụ duy nhất giúp thầy tôi kết nối với thế giới bên ngoài, không luyện thành thạo không được.”
Dấu cộng từ từ trở về đường phân cách, như thể người dùng đang tuyên bố dấu cộng là một phần cơ thể ông, không ai được phép nghi ngờ tính chính xác của nó.
“Để tiện cho việc điều tra, hôm nay tôi mời các vị đến đây giúp chỉ huy Quan nắm rõ tình hình. Thầy cũng sẽ hỏi các vị chi tiết sự việc trước và sau án mạng. Ban đầu tôi định chờ thầy tỉnh lại, nhưng các vị biết đấy, cấp trên rất chú ý đến vụ án này, nên tôi đành dùng phương pháp đặc biệt để thầy ‘lên tiếng’, tham gia điều tra. Đương nhiên, tôi sẽ là người đặt câu hỏi. Khi nào cần, thầy sẽ phản ứng ngay tức thì để gợi ý, giúp chúng ta lần ra chân tướng.”
Bíp. Dấu cộng chạy lên chữ YES.
“Tại sao phải thẩm vấn tất cả cùng lúc? Hung thủ không phải kẻ trộm ư? Tôi tưởng việc này đã rõ mười mươi rồi.” Liêm khinh thường hỏi.
“Tôi sẽ giải thích kĩ càng từng việc một. Hơn nữa, tôi còn phải sắp xếp lại tình tiết vụ án rồi mới kể cho thầy nghe.” Lạc trả lời vòng vo, vẫn an tọa ở ghế bên đầu giường bệnh, “Mời các vị ngồi. Sofa hơi chật nhưng cũng đủ cho bốn người, vị còn lại xin vui lòng ngồi ở ghế gần cửa ra vào.”
Ông Đường đã ngồi trên sofa từ trước. Nghĩa, Liêm và Thái Đình đến ngồi cùng. Bà giúp việc im lặng nãy giờ liền ra đứng cạnh cửa, đắn đo một lúc rồi ngồi xuống.
Sofa kê bên phải cửa phòng, đối diện cuối giường bệnh. Nghĩa ngồi giữa, bị chiếc bàn đặt ngang giường che mất tầm nhìn, chỉ thấy nửa trên khuôn mặt bệnh nhân.
Có điều, mọi người còn mải tập trung vào Táo đang ngồi ngay gần cửa sổ phía bên phải sofa, hay chính xác hơn là vào màn hình 17 inch với hai nửa đen trắng, tức thiết bị nói chuyện thay ông Quan.
“Thanh, chuẩn bị máy quay.”
Nghe lệnh, Thanh dựng giá đỡ ba chân bên cạnh Táo, khởi động máy quay phim loại nhỏ, điều chỉnh cho ống kính quay trọn mọi người trong phòng rồi gật đầu với sếp.
“Thầy ơi, bây giờ con sẽ tường thuật lại vụ án.” Lạc lấy quyển sổ trong túi áo ngực, giở ra rồi chậm rãi nói, “Khoảng từ ngày 7 đến ngày 8 tháng Chín năm 2013, tức từ tối thứ Bảy đến rạng sáng Chủ nhật tuần trước, tại biệt thự Phong Doanh số 163 đường Trúc Dương quận Tây Cống đã xảy ra một vụ giết người. Biệt thự này là nơi ở của gia đình ông Bân chủ tịch tập đoàn Phong Hải. Nạn nhân chính là chủ hộ, Nguyễn Văn Bân.”
Nghe đến tên bố, Nghĩa lại thấp thỏm không yên.
“Nguyễn Văn Bân năm nay 67 tuổi, ở rể nhà họ Du, tiếp quản vị trí chủ tịch tập đoàn Phong Hải từ năm 1986. Một năm sau, bố vợ là Du Phong qua đời, Bân trở thành chủ nhân nhà họ Du.”
Lạc lật trang.
“Trước đó, năm 1971, ông kết hôn với con gái độc nhất của nhà họ Du, bà Du Thiên Nhu, sinh được ba người con. Con trai cả Du Vĩnh Lễ đã mất năm 1990 do tai nạn giao thông, con thứ Du Vĩnh Nghĩa và con út Du Vĩnh Liêm vẫn đang sống tại địa chỉ trên. Năm ngoái, Nghĩa kết hôn nhưng không dọn ra ở riêng, mà cùng vợ là Thái Đình sống chung với bố mẹ.
“Vợ nạn nhân, bà Nhu, qua đời vì đau ốm tháng Năm năm nay. Ngoài bốn người kể trên, hiện đang sống tại nhà họ Du còn có thư kí riêng Vương Quán Đường và bà giúp việc Hồ Kim Mạt. Tối hôm xảy ra vụ án, những người có mặt tại biệt thự Phong Doanh gồm nạn nhân, hai con trai, con dâu, thư kí riêng và bà giúp việc, tổng cộng sáu người. Thầy có cần con nhắc lại không ạ?”
Tút tút. Dấu cộng đáp NO đầy dứt khoát.
“Tiếp theo con sẽ mô tả hiện trường và quá trình xảy ra vụ án.” Lạc hắng giọng rồi từ tốn nói, “Biệt thự Phong Doanh cao ba tầng, tổng diện tích tính cả vườn hoa là hơn 1800 m2, nằm trên đường Trúc Dương gần công viên ngoại ô(8) Mã An Sơn, xung quanh có khoảng bốn, năm kiến trúc thấp tầng cùng loại, phần lớn là biệt thự tư nhân. Ba đời nhà họ Du đều sống tại đây. Từ những năm 1960, biệt thự Phong Doanh trở thành nhà chính của dòng họ Du.”
Lạc liếc nhìn mọi người, để ý thấy bà Mạt khẽ gật đầu đồng ý, ánh mắt xa xăm như đang hồi tưởng về thập niên 60- 70 rực rỡ, khi cụ chủ Du Phong mới mở xưởng.
“7 giờ 30 phút sáng ngày 8 tháng Chín, Nghĩa thấy bố không xuống phòng khách đọc báo như mọi ngày, bèn lên tầng hai tìm thì phát hiện ông Bân đã chết trong phòng làm việc. Theo điều tra sơ bộ của cảnh sát hiện trường, đây là một vụ đột nhập ăn trộm, nạn nhân tình cờ bắt gặp kẻ trộm nên bị giết hại.”
Nghe lời kể của viên thanh tra, Nghĩa nhớ lại buổi sáng hôm ấy, không khỏi rùng mình.
“Cửa sổ bị đập vỡ, phòng có dấu vết lục lọi.”
Lạc đặt sổ xuống, hướng ánh mắt sang người cảnh sát già trên giường bệnh. Anh có thể miêu tả chính xác hiện trường gây án theo trí nhớ, vì anh đã suy đi nghĩ lại về nó biết bao lần.
“Phòng làm việc trông ra vườn hoa trồng vài cây phượng, thủ phạm dễ dàng băng qua vườn để tránh bị bắt gặp. Mặt ngoài cửa sổ dán mấy lớp băng dính rộng khoảng 5 cm. Hung thủ xem chừng có kinh nghiệm đột nhập, biết dán băng dính trước khi đập vỡ kính để mảnh vỡ khỏi rơi xuống đất gây tiếng động, sau đó mới bóc băng dính, luồn tay qua lỗ để mở chốt cửa. Chúng con tìm được một cuộn băng dính chống thấm dưới đất gần cửa sổ, Phòng Giám định đã xác nhận băng dính dán trên cửa sổ trùng khớp với cuộn băng dính đó.”
Dấu cộng không ngắt lời viên thanh tra, y hệt đang chăm chú lắng nghe.
“Phòng làm việc của nạn nhân rộng 36 m2, gồm hai giá sách, một bàn làm việc, một két sắt, hai sofa, hai bàn uống nước, bốn ghế xoay và một tủ sắt đặc biệt có kích thước 2x1x1 m. Trong tủ đặt súng phóng xiên. Nạn nhân thích lặn biển săn cá nên đã xin giấy phép để cất giữ súng phóng xiên tại nhà. Cạnh tủ sắt là một hộp xốp thể tích 1 m3 đựng báo và tạp chí cũ. Theo lời kể của người nhà, lúc rảnh rỗi, nạn nhân dùng hộp này làm bia tập bắn.”
“Không phải, sếp Lạc, cái đó không dùng để luyện tập.” Nghĩa bất chợt ngắt lời.
“Không phải ư? Tôi nghe ông Đường nói là...”
“Không, tôi không nói thế.” Ông Đường lập tức thanh minh, “Tôi chỉ nói anh Bân thường lấy nó ra làm bia ngắm, chứ không bảo để luyện tập. Mấy năm trước anh ấy bị viêm khớp, chân trái cử động kém nên không đi lặn được nữa, bèn bảo tôi làm một cái bia ngắm đặt trong phòng làm việc để thỉnh thoảng lôi súng ra chơi, ôn lại kỉ niệm. Thật ra những người săn cá biển đều hiểu rằng không nên dùng súng phóng xiên trên mặt đất, vì nguy hiểm.”
“Ồ, ra là tôi hiểu nhầm. Thưa thầy, chuyện là vậy đấy ạ.”
Máy tính “bíp” một tiếng, như thể người cảnh sát già vừa gật đầu bảo nói tiếp.
“Phòng bị lục tung, cả két sắt và tủ sắt đều có vết cạy bằng dụng cụ. Nhưng két sắt vẫn đóng nguyên, tủ sắt thì mở toang. Sách vở tài liệu trên giá rơi bừa bãi dưới sàn, màn hình máy tính vỡ vụn, đồ đạc trong ngăn kéo vứt la liệt ra đất. Sau khi kiểm kê, xác định chỉ mất khoảng 200 nghìn đô(9) tiền mặt, nhẫn trên tay nạn nhân, dao rọc thư khảm đá quý trên bàn và chiếc đồng hồ quả quýt cổ bằng vàng trị giá 300 nghìn đô đều còn nguyên. Hung thủ chỉ trộm tiền mặt.”
Đứng bên cạnh nghe sếp kể, Thanh nhớ hôm đầu đi điều tra, khi biết số tiền 200 nghìn mất cắp chỉ được nhà người ta coi là “tiền lẻ”, cậu mới ý thức được khoảng cách giữa mình với giới thượng lưu xa vời đến mức nào.
“Giám định viên không tìm thấy dấu vân tay hay dấu giày trong phòng. Chắc hẳn hung thủ đã đeo găng lúc gây án.” Lạc lại mở sổ, liếc nhanh rồi tiếp, “Đó là hiện trường gây án. Bây giờ con sẽ nói chi tiết về cái chết của nạn nhân.”
Bíp.
“Nạn nhân Nguyễn Văn Bân được con trai Du Vĩnh Nghĩa phát hiện vào hồi 7 giờ 40 phút sáng. Sau khi kiểm tra pháp y, thời gian tử vong dự đoán là từ 2 đến 4 giờ sáng. Thi thể nằm cạnh giá sách, sau đầu bị thương hai chỗ, nhưng vết thương chí mạng lại nằm ở bụng. Nạn nhân bị súng phóng xiên bắn trúng, mất máu quá nhiều dẫn đến tử vong.”
Trước mắt Nghĩa lại hiện ra hình ảnh mũi xiên kim loại vừa dài vừa mảnh cắm vào bụng bố.
“Bây giờ con sẽ miêu tả chi tiết về hung khí.” Lạc lật vài trang, tìm phần ghi chép về súng phóng xiên, “Mũi xiên trên người nạn nhân làm bằng thép, dài 115 cm, đầu xiên là móc câu dài 3 cm, đâm vào gan khiến nạn nhân mất nhiều máu. Giữa sàn có một khẩu súng phóng xiên làm bằng sợi các bon loại RGSH115 do công ty Rob Allen của Nam Phi sản xuất. Thân súng dài 115 cm, phần đầu súng khép kín gắn một ống cao su dài 30 cm. Trên súng chỉ có dấu vân tay của nạn nhân.”
Hôm mới tiếp xúc với vụ án, Lạc đau hết cả đầu vì đống từ chuyên môn này, phải mất kha khá thời gian bổ sung kiến thức mới hiểu được, về cơ bản, súng phóng xiên hoạt động nhờ lực đàn hồi của ống cao su, nguyên lý giống với ná cao su. Khi mũi xiên được giữ cố định bởi lẫy cò trên tay cầm thân súng, thợ lặn có thể kéo ống cao su gắn với đầu súng ra sau, gài phần móc làm bằng kim loại hoặc dây thừng vào mũi xiên. Đến lúc bật lẫy, móc trên tay cầm nhả ra, mũi xiên lao tới trước theo lực đàn hồi.
Đầu súng khép kín là chỉ loại súng có miệng hình tròn, mũi xiên phải luồn qua miệng tròn đó thì mới vào được rãnh trên thân súng. Còn loại đầu súng mở thì không có lỗ tròn trên đầu, chỉ có giá chữ V để cài xiên. Các đồng nghiệp thích lặn cho biết, nhiều người chuộng súng đầu mở, vì lúc bắn sẽ nhìn rõ con mồi. Nhưng đầu súng khép kín lại có ưu điểm là giảm độ rung của mũi xiên, tăng tỉ lệ trúng mục tiêu.
“Sau khi kiểm tra tủ sắt, chúng con xác định khẩu súng dùng để gây án là của nạn nhân. Bởi vì trong tủ có một ngăn đủ để đặt ba khẩu súng dựng đứng, lúc điều tra chỉ thấy có hai khẩu chiều dài không bằng nhau là RGSH075 và RGSH130, giá ở giữa trống không. Trong tủ còn một khẩu RGZL160 dài thuộc dòng súng Rob Allen Zulu và một khẩu Rabitech RB075 dài 75 cm làm bằng hợp kim nhôm. Hai khẩu này đều được tháo rời và đặt trong hai va li khác nhau để tiện mang đi. Ngoài ra còn vài mũi xiên thép dài từ 115 đến 160 cm. Giám định viên xác nhận những mũi xiên này và mũi xiên ghim vào bụng nạn nhân thuộc cùng một loại.”
“Bố tôi chưa bao giờ dùng khẩu Zulu đó.” Nghĩa xúc động, “Bố bảo mua nó về để săn cá mập, nhưng chưa kịp dùng đã phải từ bỏ thú vui lặn biển.”
Lạc tiếp tục tường trình, không đáp lời Nghĩa, “Trong tủ còn chứa một số dụng cụ lặn biển săn cá như mặt nạ, mũ chụp đầu, thiết bị điều chỉnh bình oxy, găng tay, dây phóng xiên, tuốc nơ vít, dao đa năng, hai con dao lặn dài 25 cm... Điều tra sơ bộ cho thấy, có khả năng hung thủ đã cạy tủ sắt, lấy súng phóng xiên ra rồi tấn công nạn nhân.”
Thanh nuốt nước miếng đánh ực. Suốt hai năm làm trợ thủ cho thanh tra Lạc, cậu đã nhìn thấy không ít thi thể, nhưng cứ nghĩ đến cảnh mũi xiên có móc câu đâm vào bụng nạn nhân khiến nội tạng nát bét là cậu lại sởn gai ốc.
“Ngoài vết thương chí mạng ở bụng, nạn nhân còn nhận hai vết thương nữa sau đầu.” Lạc nói, “Nhưng lạ là, theo báo cáo pháp y, sau lần tấn công đầu tiên, phải một lúc sau nạn nhân mới bị đánh lần thứ hai. Căn cứ vào vết máu trên quần áo và miệng vết thương, hai lần tấn công cách nhau khoảng ba mươi phút. Chúng con không thể xác định tình hình lúc đó, song Phòng Giám định đã tìm ra hung khí là bình hoa kim loại dùng để trang trí đặt trên bàn làm việc. Trên bình không có dấu vân tay. Xem chừng hung thủ đã cẩn thận lau sạch mặt ngoài sau khi dùng nó để tấn công nạn nhân.”
Lạc lại rời mắt khỏi quyển sổ, liếc một vòng rồi nhìn về phía giường bệnh.
“Điều khiến con cảm thấy kì lạ nhất là tình trạng tử vong.” Anh cau mày, “Nạn nhân nằm bên giá sách, cạnh đó là album ảnh gia đình. Giám định viên phát hiện có dấu vân tay dính máu, khẳng định nạn nhân đã giở xem album trước khi chết. Vết máu trên sàn cho thấy, sau khi nhận vết thương chí mạng, nạn nhân đã cố gắng bò từ bàn làm việc đến chỗ giá sách, khoảng cách giữa hai điểm này là 5 m, rồi mở album ra xem. Pháp y phán đoán rằng bị thương phải đến hơn hai mươi phút, nạn nhân mới tắt thở. Lúc trước, con cho rằng nạn nhân muốn để lại thông điệp nào đó, nhưng điều tra kĩ càng thì thấy các vết máu không hề có quy luật, dường như nạn nhân chỉ đơn thuần muốn xem lại ảnh cũ. Kì lạ hơn, cổ tay và bắp chân nạn nhân hằn vết trói, quanh miệng có vết dán băng dính nhưng đã được gỡ bỏ, cũng không thấy băng dính ở hiện trường.”
Mấy hôm trước, khi nhận kết quả khám nghiệm, Thanh cho rằng chưa chắc hung thủ đã dán băng dính bịt miệng nạn nhân. Biết đâu nạn nhân có máu khổ dâm, chơi bời với tình nhân xong để lại dấu vết như vậy. Thế là các đồng nghiệp nữ trong tổ quay ra nhìn cậu với ánh mắt khinh bỉ cứ như nhìn một tên biến thái. Lạc giễu cợt, chẳng lẽ cậu nghĩ người giàu ai cũng hoang dâm vô độ và có sở thích dị hợm?
“Tạm gác những điểm bất thường đó sang bên, nếu chỉ căn cứ vào hiện trường, chúng con đoán hung thủ là một tên trộm, nửa đêm phá cửa sổ đột nhập phòng làm việc, đang lục lọi thì bị bắt quả tang, nên đã dùng bình hoa đánh ngất nạn nhân, trói lại rồi lục lọi tiếp. Hung thủ thấy két sắt nhưng không mở được, dùng súng phóng xiên uy hiếp nạn nhân khai mật mã nhưng không thành, cuối cùng bắn chết nạn nhân rồi cuỗm 200 nghìn bỏ chạy...”
Tút tút.
Tiếng trầm vang lên ngắt lời Lạc. Dấu cộng chỉ vào chữ NO. Năm nhân chứng nhìn nhau, hết sức hoang mang.
“Ý thầy nói, hung thủ không phải người ngoài?”
Bíp. Dấu cộng lập tức chạy lên chữ YES.
Lạc ngớ người, “Thật ra sau khi điều tra kĩ lưỡng, chúng con thấy khả năng hung thủ không phải kẻ trộm tương đối cao. Ngoài cửa sổ không có dấu vết leo trèo, trong vườn hoa không lưu lại dấu giày. Con từng nghĩ hung thủ đột nhập bằng đường khác, ví như dùng dây thừng thả người từ trên mái xuống, nhưng lan can tầng thượng không có dấu vết nào cả. Cũng có khả năng hung thủ dùng trực thăng...”
Tút tút. Âm thanh lần này nghe như thể ông cảnh sát già đang cười nhạo cậu học trò cứ mải chui đầu vào ngõ cụt mà bỏ qua sự thật hiển nhiên.
“Thầy chỉ nghe tường thuật như thế đã biết hung thủ không phải người ngoài ạ?”
Bíp. Lại là một câu YES nhanh gọn.
“Là nhờ điểm nào... Cách hung thủ đập vỡ cửa sổ? Bằng chứng cho thấy nạn nhân bị giết bằng súng phóng xiên? Hay dấu vết lục lọi trong phòng?”
Dấu cộng đứng yên ở đường phân cách giữa màn hình.
“Bàn làm việc? Giá sách? Bình hoa? Sàn nhà...”
Bíp.
Dấu cộng lập tức phản ứng.
“Sàn nhà? Sàn nhà không có gì cả, không dấu vân tay cũng chẳng thấy dấu giày, sạch sẽ vô cùng.” Thanh nhanh nhảu nói.
Lạc quay phắt ra nhìn Thanh, rồi ngoái lại nhìn Quan, chừng như bừng tỉnh. Anh vỗ trán, “Đúng rồi! Chính là nó...”
“Sao cơ?”
Thanh vẫn không hiểu ất giáp gì. Năm người nhà họ Du cũng vậy.
“Thanh, cậu đã bao giờ thấy hiện trường vụ trộm nào sạch sẽ như thế chưa?” Lạc chậm rãi nói, “Không có dấu vân tay thì còn hiểu được, bởi đó là bằng chứng buộc tội, kẻ trộm ắt phải đeo găng. Nhưng dấu giày không phải chứng cứ gì quan trọng, nhất là khi đột nhập ăn trộm thông thường, kẻ trộm sẽ không cất công xóa sạch dấu vết, mà chỉ cần mua đôi giày mới, xong việc thì vứt đi là gọn.”
“Nhỡ đâu sau khi giết người, hung thủ lau sạch sàn nhà để che giấu?” Thanh thắc mắc.
“Nói vậy thì càng không lý giải được việc sách vở và tài liệu vung vãi dưới sàn.” Lạc bác bỏ, “Chúng ta đang giả định rằng hung thủ đi qua bãi đất trong vườn hoa, đột nhập căn phòng không người, đang sục sạo thì bị bắt gặp, bèn trói nạn nhân lại rồi lục lọi tiếp, vì không ép hỏi được mật mã nên đã ra tay hạ sát. Nếu hung thủ muốn lau sạch dấu giày, đầu tiên phải dọn dẹp những thứ vương vãi trên sàn. Lau sạch rồi, hắn không có lý do gì để vứt lại đồ đạc xuống. Giết người xóa dấu vết xong không chuồn luôn mà còn nấn ná bày biện hiện trường ‘bị lục lọi’ làm gì? Vô lý.”
Cuộc đối thoại khiến Nghĩa dần hiểu vì sao thanh tra Lạc lại nhờ ông Quan giúp đỡ. Mới nghe mô tả hiện trường, ông lão đang hôn mê đã đi đến kết luận mà cảnh sát phải tốn bao công sức mới tìm ra. Nghĩ đến đó, Nghĩa bỗng thấy ớn lạnh. Anh sợ người cảnh sát già không cử động nổi một đầu ngón tay kia vẫn có thể nhìn thấu tâm can mình.
Anh sợ, hành vi sát nhân không qua được mắt ông Quan.
“Nếu không phải người ngoài, vậy thì...” Ở bên cạnh, Thái Đình đột ngột lên tiếng, làm Nghĩa giật mình hoàn hồn.
“Vậy thì hung thủ chính là một trong năm người có mặt tại nhà họ Du hôm đó,” Lạc lạnh lùng nói.
Lập tức, năm nhân chứng, đúng hơn là năm nghi phạm, nhận ra mục đích thực sự của viên thanh tra suốt mấy ngày nay.
Ba hôm trước, khi thẩm vấn, Lạc đã hỏi về mối quan hệ giữa các thành viên trong nhà và quá khứ của nạn nhân. Trong đó lạ lùng nhất là câu, “Giả sử hung thủ không phải kẻ trộm, anh/chị nghĩ kẻ đó là ai?”
“Cái đồ... Hóa ra lúc đầu anh muốn moi tin từ tôi?”
Liêm đùng đùng nổi giận, nói năng chẳng hề nể nang. Lần này ông Đường không cản cậu nữa.
“Du Vĩnh Liêm, cậu phải hiểu rằng,” Lạc nhìn thẳng vào cậu thanh niên bằng ánh mắt diều hâu sắc bén, nói rành mạch. “Công việc của tôi là tìm ra sự thật, đòi lại công bằng cho nạn nhân. Tôi không có nghĩa vụ phải nịnh nọt các vị, vì cảnh sát luôn đứng về phía người bị hại, lên tiếng thay cho những người không còn lên tiếng được nữa.”
Thanh nghe rõ, khi nói những lời này, Lạc đặc biệt nhấn mạnh vào hai chữ “các vị”.
Bầu không khí bỗng trở nên nặng nề. Nhưng Lạc đã lấy lại giọng điệu bình thường ban đầu, “Bây giờ tôi sẽ thuật lại thông tin về từng người mà tôi đã thu thập suốt tuần qua, nếu có ý kiến gì xin các vị cứ thẳng thắn trình bày.”
Không ai đáp lời, chỉ có máy tính “bíp” một tiếng, như thể ông lão đang ra hiệu cho học trò nói tiếp.
“Đầu tiên là nạn nhân.” Lạc lật một trang trong sổ ghi chép, “Nguyễn Văn Bân, 67 tuổi, giới tính nam, chủ tịch tập đoàn Phong Hải. Theo lời khai từ nhân chứng, nạn nhân luôn đóng ‘vai phản diện’ trong giới kinh doanh, phương châm làm việc khác hẳn Du Phong người sáng lập tập đoàn, ví như bất chấp thủ đoạn để thu mua các công ty con và tấn công đối thủ, thường bị gọi là ‘Cá mập Phong Hải’. Tuy nhiên, giữa cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 và khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, doanh thu của Phong Hải chẳng những không giảm mà còn tăng cao. Cho nên, xét trên kết quả, phương pháp của ông Bân có lẽ cũng đúng đắn. Lại nói, các nhân viên quản lý trong tập đoàn đều đánh giá ông là người thân thiện, dù yêu cầu khắt khe hơn những ông chủ khác.”
Thanh đồ rằng đây chỉ là mấy lời đãi bôi. Tuy ông chủ đã qua đời, nhưng người lên thay chính là con trai ông. Nếu nhân viên lỡ mồm để sếp mới nghe được thì chỉ có nước cuốn xéo. Dùng từ “thân thiện” để miêu tả “cá mập”... Đúng là nực cười!
“Nguyễn Văn Bân vốn là cấp dưới của Du Phong. Lúc mới thành lập, Phong Hải chỉ là một xưởng nhỏ chuyên sản xuất đồ nhựa. Đến cuối những năm 1960, công ty chuyển sang đầu tư địa ốc, Du Phong liền nắm bắt cơ hội để Phong Hải được lên sàn tại vô số sở giao dịch chứng khoán.
“Bấy giờ, Du Phong thích tuyển dụng những người trẻ tuổi. Bân 23 tuổi, là nhân viên văn phòng, nhưng gây ấn tượng sâu sắc nhờ đầu óc linh hoạt, nên được thăng chức làm trợ lý riêng của ông chủ. Một người khác cũng được đề bạt là Vương Quán Đường khi ấy mới 20 tuổi, hiện đã 64, thư kí riêng của nhà họ Du, đồng thời cũng là một trong năm nghi phạm.”
Nghe đến tên mình, ông Đường bất giác thẳng lưng.
“Theo lời kể của những nhân viên đã nghỉ hưu có quan hệ thân thiết với nhà họ Du, hồi đó có tin đồn Du Phong không chỉ chọn trợ lý riêng mà còn định tuyển ‘phò mã’. Bấy giờ cụ đã 60 tuổi, có độc một cô con gái vừa tròn 16, bản thân cụ lại là con độc đinh. Người ta kháo nhau rằng cụ lo nhà họ Du tuyệt tự, nên mới cố tình tìm một người tuổi trẻ tài cao để cho ở rể, mai này tiếp quản tập đoàn. Có người nói khi ấy Nhu thân với Đường hơn. Nhưng về sau lại cưới Bân.”
“Sếp Lạc, cậu định nói đây là động cơ giết người của tôi?” Ông Đường xen vào. “Hồi đó cô Nhu tự chọn chồng chứ cụ Du Phong không hề quyết định. Vả lại, tuy thân thiết nhưng tôi với cô Nhu chưa từng yêu nhau. Huống hồ đã bốn mươi năm trôi qua, ai lại đi giết ‘tình địch’ vì những chuyện xưa như diễm ấy? Tôi luôn làm việc bên anh Bân, muốn ra tay đâu cần chờ đến hôm nay.”
Lạc đáp, “Tôi chỉ kể lại sự việc chứ không ám chỉ điều gì. Thầy tôi nghe tự khắc có suy đoán riêng.”
“Đúng đấy.”
Bà Mạt im ắng nãy giờ bỗng lên tiếng.
“Cậu Đường không phải hung thủ đâu. Cậu ấy thân với ông chủ và cô chủ lắm. Ông chủ với cô chủ kết hôn tháng Tư n?