NGÀY THỨ BẢY
Chủ nhật, ngày 3 tháng 6 năm 2018
❖ ❖ ❖
Wallis có một giấc mơ ám ảnh mình suốt thời thơ ấu, đến thuở thiếu thời và cả thời điểm hiện tại. Lúc ấy anh khoảng 7 hoặc 8 tuổi, đang đi dọc con phố đông đúc toàn khách du lịch và các dãy cửa hàng bán đồ trang sức, cốc cà phê và nam châm giá rẻ. Một con tàu du lịch khổng lồ cập cảng, đậu sừng sững ở bến tàu như một lâu đài thời hiện đại.
Roy không thể nhìn thấy thứ gì đang bám theo mình, nhưng anh biết nó ở đó. Nó luôn ở đó và dõi theo anh. Đây là lý do của nỗi ớn lạnh kinh hoàng trong anh: sự bất lực và không thể thoát ra khỏi vận mệnh. Thứ đã tóm được anh cả trăm lần trước đây, và nó sẽ luôn bắt kịp anh thêm cả nghìn lần nữa trong tương lai.
Dù vậy, anh vẫn tiếp tục len lỏi qua đám đông ồn ã, tiếp tục ngoái đầu lại phía sau để tìm kiếm kẻ đeo bám không thể nhìn thấy của mình, tiếp tục đấu tranh với những giọt nước mắt luôn chực trào. Anh có một ham muốn tột cùng là tiếp cận một viên cảnh sát đang điều khiển giao thông bên vệ đường để xin sự giúp đỡ. Nhưng anh không làm vậy, vì anh đã từng làm thế, trong giấc mơ trước, và vị cảnh sát đó không những không thể giúp anh mà còn khiến anh chậm lại để kẻ đeo bám kia có thể đuổi kịp.
Roy bắt đầu chạy. Anh va phải người trên đường, làm đổ những quầy đồ lưu niệm và gọi cha mẹ mình, nhưng họ chẳng giúp được gì cả. Họ đã chết. Họ chết ở đây, ở Bahamas này. Chiếc du thuyền bị lật được một ngư dân phát hiện cách đảo Paradise hai mươi hải lý. Thi thể của họ không được tìm thấy. Bi kịch này xảy ra khi Roy đang là sinh viên năm nhất của trường Đại học Los Angeles, và bản thân anh trước đây chưa từng đến thăm bất kỳ hòn đảo hay vịnh nào trong quần đảo này, nhưng tâm trí anh quá rối bời cho những suy nghĩ kỹ càng và hợp lý.
Đám đông khách du lịch và người dân địa phương thưa dần, và trước khi kịp nhận ra, anh chỉ còn lại một mình trên phố. Nhà thờ Công giáo Roman mà anh thường đến cùng cha mẹ vào mỗi sáng Chủ nhật vẫn sừng sững ở góc phố. Anh vội vã chạy về phía cánh cổng mở hé, lao vào sảnh chính bên trong. Nội thất không giống như những gì anh nhớ. Không có những băng ghế dài trải khắp sàn gỗ cứng. Những dải tường vy leo cao phủ đầy các bức tường đá và vây kín những ô cửa kính màu. Những đường viền khuyết và mái che mở ra khoảng giếng trời màu xanh lam to rộng.
Vì một lý do nào đó, người ta đã bỏ hoang nhà thờ này, để mặc nó tàn lụi theo thời gian, và Chúa cũng rời đi.
Điều đó có nghĩa là ở đây không mang lại sự an toàn. Anh phải đi. Anh phải tìm ra một nơi nào đó tốt hơn để trốn…
Nhưng quá muộn rồi.
Cánh cửa nhà thờ đã đóng lại. Không gian trở nên tăm tối.
“Không,” anh rên rỉ, và một phần trong anh biết rằng anh đã thốt ra bằng lời từ đó trên chiếc giường anh đang nằm.
Bóng đêm vẫy gọi anh, anh tiến về phía nó, không thể chống cự. Ra đến cửa, Roy có thể cảm nhận được lũ quỷ dưới địa ngục đang ở phía bên kia. Anh từng xuất hiện cảm giác này, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy chúng. Không có những con ngươi dữ tợn hay hàm răng sắc nhọn. Nó chỉ rất lớn, khổng lồ. Nó khiến anh cảm thấy mình nhỏ bé như một hòn đá dưới chân núi.
Wallis bật dậy, nuốt ngược dịch mật chực trào ra khỏi cổ họng.
Ánh mặt trời chói lóa khiến anh nheo mắt. Phải mất một lúc anh mới nhận ra mình đang ở trên giường của Brook. Cảm giác này luôn xuất hiện khi anh thức dậy trên giường của một người phụ nữ – một nơi không phải là nhà và có thể là nơi anh không nên ở lại – vây chặt lấy anh. Tuy nhiên, nó rất nhanh được thay thế bởi cảm giác khác: một sự vô ưu. Ác mộng không phải thứ đáng quan tâm, thật tuyệt khi được thức giấc trong phòng ngủ của Brook. Những tia nắng ban mai ấm áp chiếu xuyên qua ô cửa sổ, hương dâu của ga trải giường thoang thoảng, sự di chuyển nhịp nhàng của căn nhà nổi theo từng gợn sóng. Nội thất đều bằng gỗ tự nhiên và thêm những món đồ trang trí thủ công chiết trung, khiến ta cảm giác như được thức dậy trong một căn nhà gỗ trên cây dễ thương thời thơ ấu.
Lau những giọt mồ hôi trên trán và cố quên đi cảm giác sợ hãi còn đọng lại từ giấc mơ, anh gọi, “Brook?”
Không có tiếng trả lời.
Căn nhà nổi không lớn, anh cũng không nghe thấy tiếng nước chảy, có nghĩa là cô đã ra ngoài.
Anh gạt chăn sang một bên, tìm kiếm quần áo của mình mà anh nghĩ chắc hẳn phải ở đâu đó trên sàn nhà, nhưng cuối cùng anh lại thấy chúng được gấp gọn gàng trên chiếc ghế nơi góc phòng.
Brook đã để lại lời nhắn trên một tờ giấy nhớ màu hồng dán bên trên:
Lại là một ngày thứ Bảy, lại là một ngày phải làm ca sáng. Trước khi biết anh, em vẫn luôn mong đợi được nhìn thấy anh mỗi khi anh tới để uống một ly latte vani. Còn bây giờ thì em phải mong ngóng điều gì đây?
Hãy tự nhiên làm những gì anh muốn nhé. Gọi lại cho em.
хохо
Wallis kiểm tra điện thoại và chìa khóa trong túi áo khoác của mình rồi rời đi, sau khi đảm bảo rằng cửa nẻo đã được khóa cẩn thận. Một buổi sáng đầy nắng và mát mẻ, không khí trong lành và hơi ẩm bởi sương sớm, anh cảm thấy tràn đầy năng lượng. Anh nhìn thấy một quán cà phê bên kia đường và cảm thấy đói rã, đêm qua anh đã không thưởng thức món mỳ Ý của Brook. Liếc nhìn đồng hồ và thấy đã gần 9 giờ sáng. Hiếm khi anh ngủ dậy trễ tới vậy.
Wallis ngồi xuống quầy bánh và gọi một chiếc bánh quế cùng kem tươi, trái cây theo mùa, đường mịn và xi rô phong. Sau đó, anh gọi thêm một ly cà phê mang đi và dạo qua công viên ngát hương thơm của bạch đàn và hồi hương dại. Khi đến gần xe mình, anh nhìn thấy một tờ giấy nhỏ kẹp bên dưới chiếc cần gạt nước. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, anh đã nghĩ đó là một lá thư ngọt ngào nữa đến từ Brook. Anh cầm tờ giấy lên – giấy phạt 83 đô-la vì đậu xe ở khu vực cấm.
Anh vo tròn tờ giấy, ném nó vào hộc cần điều khiển ( nơi Penny đã cố gắng trèo qua để ngồi vào lòng mình , anh nhớ lại với cảm giác ăn năn), rồi ngồi vào sau tay lái. Còn hơn năm tiếng nữa mới đến ca làm việc. Thay vì lái xe về thẳng nhà, anh ghé vào một tiệm trang sức chỉ cách căn hộ của mình vài dãy nhà, nơi anh đã mua rất nhiều nhẫn và khóa thắt lưng đặt làm. Không gian bên trong nhỏ và hiện đại, ánh đèn tập trung chiếu rọi những mặt dây chuyền bạc sáng lấp lánh, những chiếc nhẫn xếp chồng lên nhau một cách đẹp mắt, vòng tay, và vô số những tạo tác khác của thợ kim loại kim và nghệ nhân địa phương.
“Roy!” Beverley St. Clair, một nghệ nhân chào đón anh từ phía sau quầy kính. Mái tóc màu trắng được cắt ngắn và vuốt thẳng, nước da rám nắng, cô nàng đeo một cặp kính hai tròng của Ben Franklin hình mai rùa và khoảng chín cân bạc quanh cổ. Cô đã thiết kế chiếc nhẫn vàng có khắc ký hiệu cho riêng gia đình anh mà anh vẫn luôn đeo ở ngón giữa trên tay phải. “Thật vui khi lại thấy anh,” giọng nói Đông Âu của cô luôn khiến anh liên tưởng đến Bá tước Vlad,
“Chào buổi sáng, Bev,” anh nói, dừng chân bên quầy hàng.
“Chiếc nhẫn nào cho chuyến ghé thăm của anh ngày hôm nay? Anh biết là mình có rất nhiều nhẫn calavera rồi chứ, tôi luôn nghĩ một thiết kế hình vua sư tử là lựa chọn hoàn hảo. Loại lớn, 150 gram bạc nguyên chất. Kim cương hoặc hồng ngọc làm mắt. Hay có thể là lục ngọc cho mới lạ.”
“Thật ra, Bev, hôm nay tôi không đến để mua cho bản thân mình.”
“Ồ?” Cô nói, đôi lông mày nhướng lên tỏ vẻ tò mò,
“Một thứ gì đó cho bạn gái.” Anh giơ tay lên. “Không phải kim cương. Không nên quá hào nhoáng hay lấp lánh. Cái gì đó – không phô trương nhưng vẫn có cá tính. Cô có thể giúp tôi không?”
“Tất nhiên rồi, Roy. Tại sao không chứ? Đợi một chút, tôi đi lấy giấy phác thảo.”
“Cuối cùng thì thầy cũng tới!” Penny nói ngay khi Wallis bước vào phòng quan sát. “Mọi chuyện đang rối tung hết cả lên!”
Anh đặt đồ uống nóng mình vừa mua lên bàn, nhìn qua tấm kính một chiều – và thấy bản thân đang đối diện với Chad. Anh ta trông có vẻ đau khổ. Đôi mắt nhìn chằm chằm vào hình ảnh phản chiếu trên tấm kính một cách tuyệt vọng đầy ám ảnh, như thể đang nhìn một người xa lạ trong gương. Anh ta dùng cả hai tay ôm đầu, chậm rãi vò mái tóc màu vàng xoăn (không gội) của mình. Sharon đang đi vòng quanh căn phòng, mắt dán chặt vào nền nhà.
“Có chuyện gì xảy ra với anh ta thế?” Wallis lo lắng hỏi.
“Anh ta nói nấm đang mọc trên đầu mình.”
“Nấm?” Wallis gật đầu. “Anh ta đang gặp ảo giác. Điều này không nằm ngoài dự đoán.”
“Chuyện này có bình thường không ạ?”
“Ngày nay, giới học giả coi việc thiếu ngủ trên 48 tiếng là trái đạo đức, vì vậy không có một thông tin chính nào về tác hại của chứng mất ngủ quá độ. Nhưng những nghiên cứu mà thầy đã đọc về những người mắc chứng thiếu ngủ cực độ đều chỉ ra rằng có sự sai lệch thị giác, hoang tưởng, biến đổi xúc giác và có vài trường hợp bị ảo giác (có cảm giác ảo), mặc dù những người này không có tiền sử bệnh tâm thần.”
“Vậy những gì chúng ta đang làm là trái đạo đức ạ?” Penny hỏi, rõ ràng là ngạc nhiên trước câu nói của anh.
“Thôi nào, Penny!” Wallis chỉ trích. “Chúng ta chỉ đang giảm giấc ngủ của hai cá nhân trong 21 ngày. Chúng ta sẽ không giành được Giải thưởng Hòa bình cao quý đâu. Nhưng một khi em vượt qua ranh giới của nghiên cứu khoa học, vấn đề về đạo đức không phải lúc nào cũng có hai màu trắng và đen. Sẽ có rất nhiều màu xám nữa.” Nói đoạn anh nhấn nút Trò Chuyện trên bảng điều khiển. “Chad? Anh thế nào rồi?”
“Nấm đang mọc trên đầu tôi!”
“Sao anh lại nghĩ vậy?”
“Shaz đã nói với tôi như thế.”
Wallis nhìn sang Sharon. Cô đang đi ngang qua khu vực tập thể dục, mắt vẫn dán chặt xuống sàn nhà.
“Tôi không thấy cây nấm nào cả,” anh nói.
“Anh chắc chứ? Tôi có thể cảm nhận được chúng.”
“Không, tôi không thấy gì cả. Tôi nghĩ Sharon chỉ đang làm anh rối lên thôi.”
Ánh mắt anh ta lóe lên vẻ hy vọng. “Anh nghĩ vậy hả?”
Sharon dừng bước ngay phía sau Chad. Cô lẩm bẩm: “Tránh ra, đồ đầu nấm!”
“Anh thấy chưa!” Chad khóc lóc, một lần nữa điên cuồng vò mái tóc của mình.
“Không có nấm đâu, Chad!” Wallis trấn an. “Anh có tin tôi không?”
Lông mày anh ta nhíu chặt lại. “Tôi… tôi không biết.”
“Anh có tin Sharon không?”
“Không đời nào!”
“Vậy anh tin tôi hay tin Sharon hơn?”
“Hừm, anh.”
“Vậy hãy tin tôi rằng không có nấm nào mọc trên đầu anh hết. Anh hoàn toàn khỏe mạnh.”
Sharon lúc này đang đi ngang qua khu bếp, chế nhạo: “Đầu anh còn đang rữa ra đấy, nó còn mọc nấm nữa!”
Chad nghiến răng. “Im mồm đi!” Anh ta bùng nổ, hai bàn tay nắm chặt. “Tiến sĩ nói đầu tôi không có cây nấm nào cả, cô lừa tôi, vì vậy hãy câm miệng đi!”
“Chad!” Wallis gọi. “Anh có muốn dừng thí nghiệm ở đây không?”
Anh ta quay lại đối mặt với tấm kính, đôi mắt mở to. “Dừng lại?”
“Anh có thể rời đi ngay bây giờ. Chúng tôi sẽ tiếp tục chỉ với Sharon.”
“Rời đi? Ý anh là, sẽ không có khí ga nữa?” Khuôn mặt Chad trở nên trắng bệch. “Không! Tôi… tôi muốn ở lại. Mẹ kiếp, tôi xin lỗi, tiến sĩ.”
“Anh sẽ không nóng giận nữa chứ.”
“Đúng, không thành vấn đề, anh bạn, tôi hứa.”
“Tốt,” Wallis đáp. “Được rồi, Chad. Sao bây giờ anh không đi xem phim nhỉ, đeo tai nghe vào và thư giãn.”
“Được, tôi nghĩ mình sẽ làm vậy…”
Anh ta đi về phía sô pha, chọn đĩa phim Cảnh sát Beverly Hills, sau đó ngồi xuống và đeo tai nghe lên. Sharon tiếp tục đi lại quanh căn phòng, cô ta hoàn toàn ngó lơ Chad.
Wallis trở lại ghế ngồi, trầm tư.
Penny lên tiếng: “Mọi thứ đang trở nên dần kỳ lạ, thưa thầy.”
“Bảy ngày không ngủ đã là một bước tiến rồi, Penny. Chỉ còn vài ngày nữa là phá kỷ lục Guinness của Randy Gardner rồi.”
“Ý thầy là anh chàng đó, Randy Gardner… Không có ai vượt qua mười một ngày của anh ta ạ?”
“Trên thực tế, vài người đã làm được. Tuy nhiên, Guinness đã ngừng công nhận những cố gắng khác sau trường hợp của anh ta, bởi họ tin rằng mất ngủ quá lâu sẽ nguy hiểm đến tính mạng.”
Penny vẫn giữ yên lặng.
“Sự thận trọng của họ là vô nghĩa, Penny,” Wallis trấn an cô. “Không có bằng chứng khoa học nào chứng minh điều đó. Sau khi thí nghiệm của Randy Gardner kết thúc, anh ta được đưa tới bệnh viện, nơi mà anh ta ngủ thẳng cẳng mười bốn giờ liên tục một cách ngon lành. Mặc dù các nhà khoa học theo dõi sóng não của anh ta đã phát hiện ra tỷ lệ phần trăm giấc ngủ có chuyển động mắt nhanh của anh ta dài một cách bất thường, nhưng điều này lại trở lại bình thường chỉ sau vài ngày.”
Penny gật gù nhưng vẫn thắc mắc: “Tình trạng của Chad và Shaz mỗi ngày đều một tệ hơn.”
Wallis nhún vai. “Chad chỉ xuất hiện ảo giác nhẹ thôi, Penny. Đó vẫn chưa phải điều gì đáng lo ngại.”
“Còn Shaz vẫn chưa dừng chân chút nào trong suốt ca làm việc của em ngày hôm nay. Tám tiếng rồi. Cô ấy đi lòng vòng không ngừng nghỉ.”
Wallis nhíu mày, “Cô ấy không dừng lại một lần nào?”
“Đúng thế.”
“Họ có ăn uống gì hôm nay không?”
“Chỉ ăn cam thôi. Chắc chúng ta sẽ phải mua thêm.”
Wallis suy ngẫm.
Penny tiếp tục: “Em không biết liệu họ có chịu đựng nổi hai tuần nữa không, thầy ạ. Em thậm chí còn không dám nghĩ tới tuần tiếp theo sẽ như thế nào.”
“Rất có thể họ sẽ không tiếp tục được.”
“Nhưng làm sao chúng ta biết khi nào nên dừng thí nghiệm?”
“Chúng ta sẽ biết khi Chad hay Sharon thông báo rằng họ muốn dừng lại,” anh nói cộc lốc. “Em cũng nghe Chad nói rồi đó. Anh ta muốn tiếp tục.”
Roy Wallis mải mê quan sát khi Chad diễn lại hết cảnh này đến cảnh khác trong bộ phim Cảnh sát Beverly Hills năm 1984. Anh ta đọc lại từng lời thoại của nhân vật Alex Foley do diễn viên Eddie Murphy thủ vai.
Và anh ta đã làm thế được một tiếng rồi.
“Này, đừng cố làm vậy nữa….” Chad đang diễn lại một hoạt cảnh mà Alex Foley đối đầu với người chủ giàu có của phòng trưng bày nghệ thuật và một tên du côn của câu lạc bộ dành cho những người đàn ông giàu có trong bộ quần áo bảo hộ. “Tránh xa tôi ra,” anh ta nói với tên du côn tưởng tượng trước khi múa vài đường võ kỳ cục, tự thêm vào vài hiệu ứng âm thanh.
“Câm miệng” Sharon bất ngờ thét lên chói tai. Trong hầu hết ca làm việc của Wallis, cô vẫn luôn ngồi ở mép giường của mình, quay lưng về phía Chad, dùng hai tay bịt tai và đung đưa chân. “Anh ồn ào quá! Câm miệng! Im lặng giùm đi!”
Chad dường như không quan tâm. “Tôi đang tập luyện. Sắp có vai diễn lớn. Làm quen với nó đi.”
“Anh không phải ngôi sao điện ảnh!” Cô rên rỉ. “Anh chẳng là ai cả!”
“Sau khi tôi có được vai diễn này, Shaz, tất cả mọi người sẽ biết đến tôi!”
Cô đứng lên và đối mặt với anh ta. “Tên của anh là gì?”
“Tên tôi?” Anh ta nhún vai. “Eddie.”
Sharon cười chế nhạo. “Eddie, đúng rồi! Eddie Murphy ấy hả?”
“Đúng, thì sao?”
“Anh ta da đen!”
“Cho nên?”
“Anh là người da đen hả, đồ ngu? Nhìn lại mình đi!”
Chad giơ tay lên trước mặt mình.
“Trông có đen không?” Cô nói.
“Có! Vấn đề của cô là gì?”
“Tên của anh là Chad! Anh là một thằng khốn da trắng người Úc thất nghiệp – nếu anh không coi cuộc thí nghiệm này là một công việc – và không có tương lai trong việc diễn xuất! Không tin hả?” Cô chộp lấy chiếc ví của anh ta trên chiếc bàn ngăn giữa hai giường của họ. “Bằng lái xe, đúng rồi. Tôi không thấy có thằng khốn da đen nào đang nhìn mình cả. Tôi chỉ thấy anh. Và, ngạc nhiên chưa, tên anh không phải là Eddie Murphy. Mà là Chad Turner.”
Chad xông tới và giật chiếc ví từ tay cô. Anh mở tung nó ra, lấy bằng lái xe và nghiên cứu thông tin trên đó. Những cảm xúc khác thường xuất hiện trên gương mặt anh ta. Sau đó, anh ta nhét ví vào túi quần của mình và nói: “Eddie là nghệ danh của tôi, Shaz. Rất nhiều diễn viên có nghệ danh. Cô nghĩ Spacey là tên thật của Kevin Spacey hả, đồ đần?”
“Diễn viên có thể thay đổi tên của mình, nhưng họ không thể thay đổi chủng tộc.”
“Cô không biết mình đang luyên thuyên gì đâu.”
“Anh không phải người da den! Anh là người da trắng! Da trắng! Da trắng! Đồ đầu nấm ngu ngốc…”
Chad vung tay lên. Có ngồi thụp xuống, nhưng nắm đấm của anh ta đã đập vào trán cô,
Wallis nhanh chóng nhấn vào nút Trò Chuyện. “Chad! Để cô ấy yên!”
Chad lờ đi yêu cầu của anh, bổ nhào về phía Sharon khi cô lùi dần về khu bếp, đứng sau bàn bếp ngăn cách cô với anh ta, Cô vừa hét lên vừa cười điên dại. Chad giận dữ, xoay người trái phải đe dọa tấn công.
“Chad!” Wallis gầm lên, đứng bật dậy, đắn đo không biết mình có nên đi vào phòng thí nghiệm và can thiệp trực tiếp hay không. “Chad!” Một suy nghĩ loé lên trong đầu anh. “Eddie!” Anh gọi lớn, “Eddie Murphy!”
Chad quay đầu nhìn lại, biểu cảm tràn đầy sự giận dữ và hoang dại. “Ai đó?”
Tầm trí Wallis quay cuồng, “Quản lý của anh, Eddie. Tôi là quản lý của anh. Hãy để người phụ nữ đó yên.”
Chad lắc đầu. “Cô ta là một kẻ điên, ăn nói hàm hồ. Cô ta gọi tôi…”
“Anh muốn làm việc ở Hollywood phải không, Eddie?”
“Ý anh là sao?”
“Nếu anh chạm vào người cô ta, tất cả những hãng phim và đạo diễn sẽ đưa anh vào danh sách đen. Họ không chấp nhận một diễn viên có hành vi như vậy. Không một ai.”
Chad nhìn Sharon, người đang nhếch miệng cười nhạo anh, gần như là thách thức sự tấn công của anh. Anh khịt mũi, rồi khạc nhổ xuống sàn. “Cô không xứng, Shaz ạ. Cô không thể phá hủy sự nghiệp của tôi.” Anh quay đầu nhìn lại tấm kính và gãi cằm. “Lúc nãy tôi đang làm gì vậy?”
“Tập luyện,” Wallis đáp. “Cho vai diễn của mình trong bộ phim Cảnh sát Beverly Hills . Một cảnh trong Câu lạc bộ Harwood.”
“À, phải rồi.” Chad cười toe toét, sự hoang dại lúc nãy hoàn toàn biến mất. “Tôi diễn thế nào?”
“Anh rất tài năng, Eddie. Vai diễn hoàn toàn phù hợp với anh.”
“Vậy tôi nên tiếp tục luyện tập…”
“Sao anh không nghỉ ngơi một chút? Như là xem phim chẳng hạn?”
“Không, tôi không muốn.” Anh ta giơ cánh tay qua đầu và ngửi nách của mình. “Tôi nghĩ mình nên đi tắm. Hôi quá. Không thể tham gia buổi thử vai như vậy được.”
“Ý kiến hay đó,” Wallis nói. Lần tắm gần đây nhất của anh ta là ba ngày trước.
Chad huýt sáo, hoàn toàn phớt lờ Sharon, lấy một bộ đồ mới từ ngăn tủ quần áo, đi vào phòng tắm phía cuối phòng thí nghiệm ngủ và đóng cửa lại.
“Anh ta điên rồi!” Sharon nói, nhìn thẳng vào tấm kính quan sát, ánh nhìn mãnh liệt của cô làm Wallis có cảm giác ớn lạnh như thể cô có thể nhìn thấy anh xuyên qua hình ảnh phản chiếu của mình. “Anh nhốt tôi với một kẻ điên, tiến sĩ ạ!”
“Cô cảm thấy thế nào, Sharon?” Anh hỏi.
“Không nhớ được gì. Cảm thấy mình như một con cá cảnh nằm trong một cái bát nhỏ xíu chết tiệt.”
“Cô có thể nhắc lại những gì mình đã ăn vào trưa nay không?”
Có nghiêng đầu nhìn khu bếp. “Gì cơ?”
“Không có gì,” Wallis nói. “Cô vẫn chưa ăn gì cả ngày nay.”
“Không đói.”
“Cô cần phải ăn, Sharon.”
Cô lại nhìn tấm kính như muốn xuyên thủng nó. “Chúng tôi đang phát điên, phải không tiến sĩ?”
“Tất nhiên là không” anh đáp. “Hai người vẫn bình thường.”
“Tôi không cảm thấy vậy. Cảm giác như chúng tôi đang phát điên.”
“Ý của cô là gì?”
“Cảm giác như có ai đó khác đang ở trong đầu tôi. Ai đó muốn thay tôi nói chuyện và làm mọi thứ.”
Wallis nghiêng người về phía trước. “Người này có tên không?”
Sharon bước đến gần cửa sổ quan sát. Cô ta dừng lại khi chỉ cách đó một bước chân. Khoảng cách gần như vậy khiến anh có thể nhìn thấy con ngươi của cô ta đang đảo trái phải liên hồi. Mái tóc màu vàng xõa ra quanh gương mặt bóng nhờn. Cô liếc nhìn qua vai về phía phòng tắm, rồi quay trở lại đối mặt với cửa sổ. Cô thầm thì: “Tôi cần nói chuyện này với anh, tiến sĩ.”
“Tại sao cô phải nói thầm?” Anh hỏi.
“Tôi không muốn anh ta nghe thấy,” Sharon đáp.
“Chad ư?”
Cô gật đầu.
Wallis giảm âm lượng của chiếc loa trần để giọng nói của mình cũng chẳng to hơn tiếng thì thầm là bao. “Anh ta sẽ không thể nghe thấy bất cứ điều gì bây giờ.”
Con ngươi trong mắt Sharon đảo nhanh hơn bao giờ hết. “Anh ta đang giả bộ.”
“Gì cơ?”
“Tôi không tin anh ta. Anh ta đang do thám tôi.”
“Do thám? Như thế nào?”
“Giống như tôi bắt gặp anh ta quan sát tôi. Khi tôi nhìn lên từ cuốn sách, tôi đã thấy như vậy.”
“Rồi anh ta phản ứng thế nào?”
“Anh ta nhanh chóng nhìn đi chỗ khác.”
“Cô có bao giờ đề cập vấn đề này với anh ta chưa? Có lẽ nói chuyện với anh ta rằng việc đó khiến cô thấy không thoải mái, và cô muốn anh ta dừng lại…”
“Anh ta muốn cái gì đó.”
Wallis cau mày. Có một sự suy diễn kỳ quái cho câu khẳng định đó. “Cô nghĩ anh ta muốn gì, Sharon?”
Cô cười. “Anh nghĩ anh ta muốn gì, tiến sĩ?”
Tiếng nước trong nhà tắm ngừng chảy. Sharon đặt tay lên môi. Sau một lúc lâu im lặng, cô ta thì thầm: “Anh ta đang lắng nghe chúng ta đấy.”
Trong giây lát, Wallis đã bắt kịp với sự hoang tưởng của Sharon và tin rằng Chad đang không ở trong nhà tắm mặc quần áo mà đang ép tai lên cánh cửa, lén nghe họ nói chuyện.
Vớ vẩn.
Anh nhấn nút Trò Chuyện để trấn an cô về kết luận này, nhưng trước khi anh kịp nói, Sharon đã đi lại phía giường của mình, cầm sách lên và bắt đầu đọc. Ít phút sau đó, Chad xuất hiện. Tóc anh ta ẩm ướt, rối bù, quần áo sạch sẽ nhưng không đi tất. Anh ta ném quần áo bẩn của mình vào giỏ ở cửa nhà tắm, rồi đi về phía sô pha. Anh ta liếc nhìn Sharon khi đi ngang qua giường cô. Cô cố tình giữ sự tập trung vào cuốn sách. Chad dành chút thời gian để lựa chọn trong chồng đĩa DVD trước khi nhét đĩa The Thing của John Carpenter vào đầu máy. Anh ta đeo tai nghe lên và ngồi sụp xuống sô pha.
Sharon tiếp tục đọc sách.
Đêm đó, Roy Wallis lại ghé quán rượu The Hideaway trên đường về nhà. Anh tiếp tục chuyến du ngoạn của mình với hai ly rượu rum mới và thấy mình vừa khao khát vừa khiếp sợ một cuộc gặp gỡ khác với Liz váy xanh và giày cao gót ánh vàng. Khi anh không thấy cô ở quầy bar – hay chỉ đang đi vệ sinh và vẫn chưa quay lại — anh biết rằng hôm nay cô không tới và đây là một điều tốt.
Về đến nhà, anh pha thêm một ly rượu khác nhưng chỉ nhấp một ngụm rồi trèo lên giường, mặc nguyên quần áo và chìm vào giấc ngủ sâu, không mộng mị.