← Quay lại trang sách

NGÀY THỨ SÁU

Thứ Bảy, ngày 2 tháng 6 năm 2018

❖ ❖ ❖

Sharon Nash thực sự bắt đầu cảm thấy mình giống như một con chuột lang thí nghiệm. Những ngày đầu tiên của cuộc thí nghiệm trôi qua rất khó khăn, với cả đống thời gian trong tay và có quá ít việc để giết thời gian. Cô đã dành vô số giờ đồng hồ nằm trên giường nhắm mắt mơ mộng. Thỉnh thoảng cô cố ngủ nhưng không được. Trí não cô không thể thả lỏng, và khi mở mắt ra, cô ngay lập tức tỉnh táo.

Sharon đã tự thuyết phục bản thân rằng cô không cần và không muốn ngủ, tất nhiên là cũng sẽ không ngủ được trong nhiều ngày tiếp theo, nên cô để bản thân chìm vào những trang sách. Từ nhỏ đến lớn, cô luôn thích đọc sách. Cô nhớ lại những mùa hè mình đã trải qua ở ngôi nhà nghỉ dưỡng của gia đình gần sông Avon bên ngoài Toodyay, đọc những cuốn của Roald Dahl, R.L.Stine, toàn bộ tuyển tập của Nancy Drew và thậm chí vài cuốn Hardy Boys nếu không còn gì hấp dẫn hơn trên giá sách, Cô tiếp tục đọc điên cuồng trong suốt thời trung học của mình - chủ yếu là sách của Danielle Steele và J.D. Robb, thêm vài cuốn giả tưởng khác nhưng tất cả điều này đã thay đổi trong năm đầu tiên ở Đại học Curtin. Những khóa học yêu cầu đọc rất nhiều sách chuyên ngành, nên ngốn của có kha khá thời gian, Thêm vào đó là những buổi tiệc tùng và hẹn hò, khiến cô có lẽ chỉ đọc trung bình một quyển sách một năm hối đại học. Và cô đã nghĩ mình sẽ lấy lại được thói quen cũ khi đi du lịch khắp châu Âu, nhưng có đã nhầm, bởi phần lớn thời gian rảnh đều được dành để giao lưu những người bạn du lịch mới quen, tham quan những danh lam thắng cảnh nổi tiếng, chơi trò chơi uống rượu và vui vẻ trong các quán bar. Thời gian yên tĩnh thật sự mà cô có là vào những buổi sáng nôn nao sau cơn say xỉn, và tất nhiên đọc sách không phải là hoạt động nên làm khi ấy.

Sharon không muốn tham gia thí nghiệm ngủ. Cô hoàn toàn hài lòng với công việc của mình ở nhà hàng Ý. Mặc dù cô chỉ được trả khoảng một phần ba số tiến mà cô kiếm được trong một giờ làm việc ở Úc, nhưng số tiền boa có thể bù vào rất nhiều.

Tuy nhiên, Chad cần tiền, và anh ta đã kéo cô đi đến buổi phỏng vấn với mình.

Phải thừa nhận rằng, sau khi nghe Tiến sĩ Wallis nói về cuộc thí nghiệm, cái nhìn tiêu cực và cố chấp của Sharon hầu như tan biến. Thí nghiệm đã được chấp thuận bởi Ủy ban Bảo vệ Đối tượng con người của trường Berkeley, và không có bất cứ biến chứng lâu dài nào sau này. Hơn nữa, khoản tiền được trả phải thừa nhận là khá hậu hĩnh, và nếu cô biết cách thu vén, số tiền đó có thể giúp cô sống thoải mái cho tới khi bay về nước vào tháng Chín.

Suy nghĩ cuối cùng này khiến cô vừa vui mừng vừa buồn bã. Cô đã xa nhà gần một năm nay, và cô thương nhớ cha mẹ da diết. Cô cũng nhớ nhà nữa. Cô thậm chí không phiền nếu gặp lại thằng em láo toét đang học năm hai ở Curtin của mình.

Tuy nhiên, đồng thời, chuyến đi này cũng cho Sharon rất nhiều trải nghiệm thú vị. Cô có cơ hội làm quen với rất nhiều bạn bè tốt mà đến giờ cô vẫn giữ liên lạc trên mạng xã hội, cô có những trải nghiệm điên rồ và táo bạo mà cô tin chắc mình sẽ không bao giờ quên được, và từ sâu thẳm trái tim, cô biết ngày chuyến bay đáp trở lại Perth sẽ là một ngày buồn và nhiều nuối tiếc.

Cô nói với Chad rằng cô có một người bạn trai đang đợi ở quê nhà, đó không phải là sự thật. Nhưng anh quá cuồng nhiệt theo đuổi vào những ngày họ mới gặp nhau ở Pamplona, cô cần nói gì đó khiến anh bình tĩnh lại. Không phải bởi anh không đẹp hay không dễ thương, anh có cả hai điều đó. Anh chỉ là có quá nhiều hoóc-môn nam tính và không đủ điềm đạm trầm lặng, điều mà sẽ hấp dẫn một người mọt sách như cô. Dù sao thì lời nói dối ấy cũng đã có tác dụng… ít nhất là trong một thời gian. Bởi khi cô đã chán ngấy Bồ Đào Nha và quyết định tới Pháp, anh đã khăng khăng đòi đi cùng… và cô đã nhượng bộ, rồi họ quen nhau kể từ đó.

Chà, ít nhất là cho tới khi thí nghiệm ngủ bắt đầu. Cô hiểu lý do tại sao Tiến sĩ Wallis không muốn các đối tượng tham gia thí nghiệm của mình dính líu đến chuyện tình cảm, bởi những mối quan hệ đó có thể thực sự gây ảnh hưởng đến tâm trí.

Dù vậy, Sharon cũng không quá lo lắng, vì cô không còn cảm xúc gì với Chad nữa. Những gì cô thấy hấp dẫn từ anh trong năm qua đã bay hơi hết trong thời gian họ mắc kẹt với nhau ở phòng thí nghiệm này. Trên thực tế, anh đang khiến cô tức điên. Tất cả những thứ về anh đều khiến cô khó chịu. Như cách anh gầm gừ như mấy con vượn trong lúc nâng tạ, hoặc lầm bầm một mình như một người vô gia cư trong khi đi đi lại lại trong phòng không ngừng, hay lúc anh khoe khoang về tài nấu nướng của mình, trong khi tất cả chỉ là bắt chước mấy công thức trong sách. Lần cuối cùng anh nói bóng gió muốn được khen (“Món enchiladas này ngon chứ, Shaz? Anh đã chế biến từng nguyên liệu đấy!”), cô chỉ muốn ném đĩa thức ăn đó vào mặt anh. Cô thậm chí còn không được dùng ti vi bởi anh xem suốt. Anh đúng là một kẻ lười biếng chết tiệt! Liệu anh có bao giờ đọc sách trong đời không nhỉ? Cô chưa từng thấy anh chạm dù chỉ là một ngón tay vào trang sách.

Tuy vậy, Sharon vẫn nhận thức được rằng tất cả những cảm xúc bực bội cô dành cho Chad đều bắt nguồn từ thí nghiệm ngủ. Bởi mỗi ngày trôi qua (hoặc nhận thức được một ngày trôi qua, dù chẳng có cái đồng hồ hay quyển lịch chết tiệt nào ở đây), cô càng ngày càng cảm thấy khó khăn hơn khi đối mặt với nỗi buồn chán này; bị quan sát cả ngày và thiếu không gian riêng tư; những câu hỏi và bài kiểm tra thể chất cũng như trí não không ngừng từ Tiến sĩ Wallis và hai trợ lý. Máy điện não đồ EEG kia là cái quái gì cơ chứ? Nghiêm túc mà nói, mớ điện cực dính chặt vào đầu khiến cô cảm thấy mình chẳng khác nào một bệnh nhân trong nhà thương điên.

Đúng, cô bắt đầu thực sự cảm thấy mình giống như một con chuột thí nghiệm rồi.

Đừng quan tâm nữa, Shaz, cô tự an ủi chính mình. Không lâu nữa đâu, cho tới khi mày thoát khỏi đây. Thêm một tuần nữa, có lẽ là vậy. Sau đó mày sẽ được tự do. Mày có thể bỏ Chad và đến Canada. Khu trượt tuyết trên núi, không khí thoáng đãng, thiên nhiên cây cỏ. Sau đó trở về nhà. Bầu trời xanh trong, bãi biển, món lasagna của mẹ và bít tết của cha trên lò nướng. Chỉ một chút nữa thôi…

Ai đó đang nói chuyện với cô. Không phải Tiến sĩ Wallis, không phải anh chàng người Ấn Độ, Là cô gái người Hàn Quốc. Tên cô ta là gì ấy nhỉ Lạy Chúa, sao cô không nhớ tên cô ta?

Cô nàng người Hàn Quốc – Penny, đúng rồi, chính là nó! – vẫn đang nói chuyện bằng thứ tiếng lơ lớ của mình, tỏ ra thân quen để đánh giá trí não của cô…

Im đi và để tôi yên! Sharon thầm nghĩ, không chịu ngẩng lên khỏi cuốn sách đang nắm chặt trong tay. Im đi! Im đi! Im đi!

“Chào buổi sáng, Penny.” Tiến sĩ Roy Wallis đặt khay giấy đựng một ly latte vani và một ly trà xanh lên bàn.

Penny, hôm nay mặc toàn đồ màu trắng, với tay ra đón lấy ly trà xanh và nói: “Cám ơn thấy nhiều. Thầy lúc nào cũng tốt bụng mang cho em một ly. Thầy là thầy giáo ga lăng nhất mà em biết đấy.”

“Không có gì, Penny,” anh đáp. “Và tôi phải khen ngợi em vì những đóng góp mà em đã làm cho công việc mới đúng. Tôi biết không hay lắm khi phải dậy sớm để đến đây mỗi ngày.”

“5 giờ sáng, vì em luôn tắm vào buổi sáng.”

Mặc dù nghe như một câu nói vô thưởng vô phạt, nhưng cách cô cong môi nhấn mạnh chữ “luôn” khiến câu nói nghe có vẻ dâm đãng, như thể cô đang muốn gợi lên hình ảnh trần truồng của mình trong đầu anh.

Quả thật là trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, anh đã làm thế.

Wallis hướng sự chú ý của mình trở lại ly cà phê, nhấc nó ra khỏi khay và nói: “Tôi đã đọc những ghi chú của em, chúng được viết rất cẩn thận.”

“Cảm ơn thầy,” cô đáp. “Em đã cố gắng hết sức…”

Có thứ gì đó đập mạnh vào cửa sổ quan sát.

Penny hét toáng lên. Wallis giật mình, giơ tay lên trước mặt theo bản năng tự vệ. Cửa kính không hề hấn gì. Ở chính căn phòng thí nghiệm ngủ, Sharon đang run rẩy chỉ tay vào mặt Chad, khuôn mặt cô đỏ bừng vì căm giận.

Wallis vươn tay về phía Penny tỏ ý bảo cô bình tĩnh lại, sau đó ấn nút NGHE trên bảng điều khiển.

“…thật kinh tởm!” Sharon giận dữ. “Chúng ta sẽ phải ở chung với nhau dài dài, vậy nên hãy biết nghĩ đến người khác chút đi!”

“Thả lỏng nào, Shaz,” Chad nói. “Nó chỉ là nước tiểu thôi mà.”

“Anh không thể nâng cái bệ ngồi chết tiệt đó lên được hả?”

“Anh chưa bao giờ phải nâng bệ ngồi trong nhà cả.”

“Cho nên tôi đã phải ngồi lên đống nước tiểu của anh vào giữa đêm! Chỉ bởi vì tôi chưa bao giờ lên tiếng không có nghĩa là việc đó bình thường.”

“Thì em hãy lau nó đi nếu cảm thấy phiền.”

“Việc tiểu đúng chỗ bộ khó lắm hả? Hay nó quá nhỏ với anh?”

Chad tiến về phía cô đầy đe dọa. “Tôi thề, Shaz…”

Khi cuộc cãi vã đang tiếp diễn, Wallis Penny đổi chỗ ngồi cho nhau. Bây giờ, Wallis ấn vào nút Trò Chuyện và nói: “Sao hai người không cho nhau chút không gian riêng nhỉ?”

Hai người Úc đồng thời nhìn về phía cửa sổ quan sát đầy giận dữ khó chịu. Chad giơ hay tay đầu hàng, lui về phía sô pha. Anh bật ti vi lên và đeo tai nghe vào.

Sharon tiến gần đến cửa kính. “Anh ta thật ghê tởm, tiến sĩ! Ý tôi là, làm ơn! Anh có thể nói chuyện hay làm gì đó với anh ta không?”

Wallis tiếp tục nhấn vào nút Trò Chuyện. “Tôi nghĩ là cô đã nêu rõ quan điểm của mình, Sharon,” anh trả lời. “Hãy đợi xem sau này anh ta sẽ thay đổi thế nào.”

“Tôi thề,” cô nói, hai bàn tay đang nắm chặt ở hai bên được thả lỏng ra, “nếu anh ta không nâng nổi bệ ngồi, hoặc ít nhất là đi vệ sinh đúng chỗ, tôi cũng sẽ làm thế khắp nơi!” Cô giận dữ quay gót đi về phía giường của mình và nhặt quyển sách lên. Cô ổn định vị trí quen thuộc thường ngày của mình, dựa lưng vào đầu giường, đối diện với cửa sổ quan sát. Chỉ ít phút sau, cô lại đứng dậy và đẩy giường mình xoay ngược chiều kim đồng hồ. Cô đẩy đầu giường vào hướng bảy giờ, sau đó kéo chân giường, cho tới khi chiếc giường bị xoay ngược 180 độ. Cô trở lại chỗ dựa lưng trên đầu giường của mình – chỉ là bây giờ Wallis và Penny không nhìn thấy mặt cô nữa.

“Ồ…” Penny nói. “Cô ấy có vẻ không vui. Sao cô ấy lại làm thế với chúng ta? Cô ấy đã ném gì nhỉ?”

“Thầy cũng không rõ,” Wallis đáp. “Nhưng chắc không phải do chúng ta đâu, có thể là do Chad. Họ còn cãi cọ về vấn đề gì khác trong ca của em không?”

“Không, họ không nói năng gì cả. À, Shaz đã nói chuyện với em. Cô ấy hỏi họ còn phải ở trong phòng này bao lâu nữa. Nhưng thầy đừng lo. Em không nói với cô ấy.”

“Cô ấy có giận không?”

“Không hẳn, không có cảm xúc gì thì đúng hơn. Đó chỉ là một cuộc trao đổi ngắn thôi.”

“Dù vậy, thầy tự hỏi liệu việc ta che giấu thông tin về thời gian có góp phần vào sự bùng nổ cảm xúc của cô ấy không? Rõ ràng là càng ngày cô ấy càng bị hạn chế hoạt động có thể làm trong ngày, và việc bị hạn chế cả về thông tin có thể tạo ra sự chán chường và tuyệt vọng.”

“Liệu ta có nên nói với với cô ấy là họ mới ở trong đó một tuần thôi không ạ?”

“Không được. Thầy chỉ nói vậy thôi, Penny.”

Penny gật đầu. “Cô ấy bắt đầu bị líu lưỡi. Thầy có nhận thấy điều đó khi nghe cô ấy nói chuyện không? Nó không quá rõ ràng, nhưng… có nằm trong dự đoán không ạ?”

“Đó là một trong những triệu chứng của chứng mất điều hòa tiểu não, cũng là nguyên nhân dẫn đến sự suy giảm khả năng điều khiển cơ thể và giữ thăng bằng của cô ấy mà chúng ta đã chứng kiến, cũng như sự bất thường trong chuyển động của con ngươi.”

Penny có vẻ đã hiểu. “Cậu thiếu niên mà thầy từng nhắc đến trong buổi học cuối cùng của học kỳ vừa rồi,” cô nói, “người mà đã thức trong 11 ngày…”

“Randy Gardner,” Wallis gợi nhắc.

“Vâng, là anh ta – thầy đã nói rằng anh ta không bị ảnh hưởng từ việc mất ngủ. Nhưng Shaz và Chad, họ đang sắp sụp đổ, không ăn uống được gì, con ngươi trong mắt họ như long ra, giờ thì họ còn không nói được rõ ràng…”

“Thầy biết em đang ám chỉ điều gì, Penny,” Wallis trả lời, “và em có đủ lý do để lo lắng, nên hãy để thầy giải thích. Thầy chưa bao giờ khẳng định Randy Gardner không bị ảnh hưởng từ việc mất ngủ. Thầy chỉ nhấn mạnh vào các kỹ năng vận động của cơ thể và sự rõ ràng trong tư duy của anh ta sau khi kết thúc thí nghiệm. Thầy thừa nhận đó là một dạng lừa phỉnh. Nhưng hầu hết ảnh hưởng mà Randy Gardner gặp phải chỉ là mệt mỏi. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là tất cả những triệu chứng đó điều biến mất sau một đêm ngon giấc, và anh ta không gặp bất kỳ di chứng nào về sau, cả về thể xác lẫn tinh thần.”

“Anh ta có hay cáu kỉnh như hai người kia không? Đánh nhau hay hét lên với mọi người.”

“Không,” Wallis đáp. “Không như Chad và Sharon, Randy Gardner không bị nhốt vào một căn phòng. Anh ta được đi khắp nơi mình muốn. Anh ta đi chơi bowling và ăn uống ở nhà hàng, có giao thiệp với người khác. Việc đó có thể đã làm tăng sức khỏe tinh thần của anh ta.” Nói đoạn anh nhìn xuống đồng hồ đeo tay của mình. “Mà Penny này, đã 10 giờ hơn rồi đấy. Nếu em nghĩ mình sẽ được trả thêm tiền tăng ca thì hãy suy nghĩ lại đi.”

“Được rồi, thưa thầy,” cô nói rồi đứng dậy. “Em biết khi nào em không nên ở lại. Gặp lại thầy vào ngày mai nhé!”

Sau khi Penny Park rời đi, Wallis thấy mình đang nghĩ về cô. Lúc nãy, khi cánh tay anh vô tình lướt qua ngực cô, cô đã không lùi lại. Trên thực tế, anh khá chắc rằng cô cố tình dựa vào tay anh trước khi anh nói muốn đổi chỗ. Cô gái này đang chơi trò gì nhỉ? Anh tự hỏi mình. Cô chỉ đang tán tỉnh chơi đùa anh, hay có ý định quyến rũ anh ngủ với mình?

Anh khẽ mỉm cười với chính mình, không thể chối bỏ cảm giác tự hào khi thấy mình vẫn còn hấp dẫn với mấy cô gái trẻ. Wallis châm một điếu thuốc và quay trở lại với công việc. Trong suốt hai giờ tiếp theo, sự việc không có gì đáng chú ý. Chad vẫn đang cày mấy bộ phim dài tập trên Netflix, còn Sharon thì đọc sách, đi lại trong phòng và tắm rửa. Có vài lúc, Wallis duỗi chân lên mặt bàn để cảm thấy thoải mái hơn. Chẳng bao lâu sau, hai mí mắt anh trở nên nặng hơn và anh cố gắng đấu tranh với cơn buồn ngủ đang kéo đến.

Anh giật mình tỉnh dậy, ngạc nhiên khi đã cho phép bản thân ngủ gục. Anh kiểm tra đồng hồ và nhận ra đã bảy giờ tối. Anh quan sát thấy Sharon đang xem phim, trong khi Chad – không thấy Chad đâu cả.

Hồi chuông cảnh giác rung lên, Wallis ngồi thẳng dậy.

Anh ta đã chuồn ra ngoài lúc mình ngủ ư?

Chết tiệt thật!

Anh nhấn mạnh nút Trò Chuyện. “Chad? Anh đang ở đâu? Sharon, Chad đâu rồi?”

“Sao vậy, ông bạn?” Một giọng nói cáu kỉnh đáp lại. Đầu của Chad ló ra từ phía sau bàn bếp.

Wallis thở phào nhẹ nhõm. “Anh đang làm gì vậy?”

“Nằm xuống,” Chad càu nhàu.

“Trên nền đất?”

“Thì làm sao?”

Đầu anh ta biến mất bên dưới bàn bếp.

Wallis ghi lại sự việc vào máy tính xách tay, theo dõi nhịp tim của Chad trong mười lăm phút tiếp theo để chắc chắn rằng anh ta không phải đang ngủ, sau đó anh đứng dậy và vươn vai, đấm đấm lưng mình vài cái. Anh đi tới nhà vệ sinh, nhưng sau đó, thay vì quay trở lại phòng quan sát, anh quyết định ghé qua phòng làm việc trước đây của mình.

Khi lên đến tầng bốn của tòa nhà xi măng cũ kỹ, anh rẽ trái, băng qua những khoảng không gian trống trải đã từng phục vụ rất nhiều sinh viên đại học và cao học, đến văn phòng trước đây của mình ở cuối hành lang. Bước vào không gian tối tăm bên trong, một cảm giác nhớ nhung, tràn đầy hồi tưởng trỗi dậy trong tim. Không còn gì ở đó nữa, nhưng mọi thứ ùa về trong ký ức anh như chưa từng rời đi. Anh nhớ đến một vài sinh viên mình đã từng tư vấn, những vị đồng nghiệp mà anh tranh luận và giao thiệp. Những đêm ở lại làm việc tới khuya, soạn bài giảng, chấm điểm các bài luận và bài kiểm tra. Căn phòng nhỏ bé này từng là cuộc sống của anh – và giờ đây chỉ còn là những bức tường trống vô hồn đang chờ bị phá hủy.

Tiến sĩ Wallis đi đến một ô cửa sổ quay mặt về hướng Bắc, ngón tay chạm vào khung cửa, để lại một dấu vết trên lớp bụi dày. Anh nhìn ra đại lộ Hearst sau cơn mưa. Ánh đèn đường chiếu sáng vệt nước. Các vũng nước đọng lại trên mặt đường như đóng khung cho ánh trăng chìm vào.

“Tại sao con người lại già đi nhỉ?” Anh trầm ngâm thành tiếng. “Tại sao mọi thứ phải thay đổi? Sao chúng ta không mãi như vậy?”

Ai đó đang rảo bước trên vỉa hè.

Wallis nghiêng người về phía trước cho đến khi đầu chạm vào cửa sổ, nhưng người đó đã đi về phía tòa nhà Tolman và khuất khỏi tầm mắt của anh.

Anh đi ngược trở lại hành lang và xuống cầu thang dẫn đến cửa chính. Nhìn xuyên qua tấm cửa kính ra phía ngoài đường lớn, không có ai ở đó cả.

Rốt cuộc là ai nhỉ? Anh thầm nhủ.

Mặc dù khuôn viên trường đại học có thể giống như một thị trấn ma, nhưng cũng không phải là không có ai. Bất cứ ai cũng có thể tự do đến và đi khi họ muốn.

Wallis quay trở lại tầng hầm và tiếp tục quan sát các đối tượng của mình.

Penny và người bạn Jimmy Su của mình ngồi dưới bóng mát của một cây thông lớn, tán cây hình nón ngược che chắn họ khỏi cơn mưa.

“Thêm một con nữa!” Penny nói, dùng một cành cây nhỏ chọc con bọ hung đang cố gắng di chuyển trong đám cỏ ướt. “Cây này chắc bị tụi này tàn phá cả rồi.”

“Đây là cây thông” Jimmy nói, “và mấy con này là bọ vỏ cây thông, cho nên kết luận của ngài đúng trọng điểm đấy, thưa quý ngài Sherlock.”

Jimmy là người gốc Đài Loan, nhưng anh sống ở California từ bé, và có những đặc điểm giống như người California, với cơ thể săn chắc, mái tóc đen lấm tấm lọn vàng, đính khuyên ở mũi, lưỡi và vành tai.

Anh và Penny trở thành bạn của nhau từ tuần đầu tiên nhập học, và vì anh chưa từng một lần buông lời tán tỉnh cô nên cô nghĩ anh là người đồng tính, mặc dù anh chưa bao giờ thừa nhận điều này và cô cũng chưa bao giờ hỏi. Điều đó không quan trọng đối với cô. Cô chỉ đơn thuần hài lòng kết bạn với một người con trai mà mình có thể thỉnh thoảng đi chơi cùng.

Tuy nhiên, kể từ khi nhận công việc bán thời gian vào mùa hè với tư cách là phụ tá cho một người trồng cây, anh bắt đầu hành động hơi quái dị. Chẳng hạn, anh sẽ dừng lại trước vài cái cây bất kỳ, đặt tay lên thân chúng và nhắm mắt lại, cứ như đang trò chuyện qua tâm thức với chúng. Anh cũng có thể nhồi nhét vào đầu cô cả đống kiến thức ngu ngốc về cây cỏ. Chỉ mới năm phút trước, anh còn nói với cô rằng cây thông mà họ đang ngồi bên dưới là một trong hơn một trăm giống cây thuộc chi Thông, được phân biệt dựa trên các đặc điểm của lá, hình dạng nón và hạt, hơn nữa nó còn là món ăn yêu thích của loài khủng long mỏ vịt.

Chẳng cần phải nói cô mong đợi Jimmy ngày xưa quay trở lại vào cuối mùa hè như thế nào.

Penny tiếp tục chọc con bọ hung: “Làm thế nào mà cậu biết con này là bọ vỏ thông? Nó nhìn chẳng khác mấy con bọ hung bình thường là mấy.”

“Nó chắc chắn là một con bọ hung vỏ thông” Jimmy chắc nịch.

Cô giẫm bẹp nó bằng gót giày của mình.

“Này! Sao cậu lại làm vậy?”

“Mình ghét lũ bọ hung. Vả lại, chúng đang giết chết cái cây này.”

“Chúng ta đâu có biết chắc. Hầu hết bọ thông đều sống trên vật chủ đã chết hoặc sắp chết, có nghĩa là có thể cái cây này đang sắp chết rồi.”

Penny ngước lên nhìn ngọn thông cao chót vót. “Nó trông vẫn có sức sống đó chứ.”

“Cậu không thể biết nó có đang bị bệnh hay không khi chỉ nhìn bằng mắt thường. Mình cá là nếu chúng ta bóc một chút lớp vỏ thân cây ra thì tầng phát sinh gỗ sẽ có màu nâu và khô…”

“Chúa ơi,” cô thốt lên, đập tay vào trán. “Đây có phải là dấu hiệu tương lai của cuộc đời mình không?”

Jimmy cau mày. “Có gì sai khi hiểu biết về cây cối chứ? Cậu có nhận ra rằng nếu không có chúng thì tất cả những sinh vật trên Trái Đất này đều sẽ biến mất.”

“Đúng, đúng,” cô đáp. “Và mình cũng nhận ra rằng đã đến lúc phải kết thêm bạn mới.”

“Tuyệt! Mình hy vọng cậu sẽ có thêm nhiều bạn bè. Như vậy thì sẽ có người khác ngồi đây chịu rét chịu ướt với cậu chứ không phải là mình. Mà rốt cuộc thì chúng ta đang làm cái quái gì ở đây vậy?”

“Mình nói với cậu rồi mà. Đợi Tiến sĩ Wallis.”

“À ừ nhỉ, cậu muốn ngủ với thầy ấy. Nhưng cậu có thực sự nghĩ việc bám đuôi như thế này sẽ là cách tốt nhất để đạt được mục đích của mình?”

“Mình không phải là một kẻ bám đuôi!” Cô phẫn nộ đính chính.

“Cậu đang ngồi dưới một lùm cây vào giữa đêm khuya, say xỉn, lén lút đợi thầy ấy về nhà. Đối với mình thì đó là bám đuôi rồi. Tại sao cậu không đi hẳn vào tòa nhà để gặp thầy? Dù gì thì hai người cũng làm việc chung với nhau mà.”

“Bởi vì Guru sẽ đến để thay ca trong vài phút nữa.”

“Cho nên?”

“Cho nên, mình không muốn cậu ta nhìn thấy mình lại…”

Cô chợt ngừng lại. Suýt chút nữa cô định thốt ra rằng mình lại tán tỉnh thầy, nhưng cô vẫn chưa nói với Jimmy về việc Tiến sĩ Wallis đã từ chối cô sáng nay. Thật sự đáng xấu hổ. Lời từ chối khiến cô đau đớn, và nó trở thành nỗi nhức nhối trong cô cả ngày nay.

Mặc dù vậy, càng nghĩ về những chuyện đã xảy ra, cô càng chắc chắn rằng lý do duy nhất mà tiến sĩ từ chối mình chỉ là anh là thầy giáo của cô mà thôi. Anh đang cố gắng giữ khoảng cách đúng mực. Nhưng tất nhiên là anh vẫn thầm thích cô. Giờ anh đã ngoài 40, còn cô vẫn trẻ trung và quyến rũ. Anh không thể nào chối từ thêm lần nữa, nếu cô bỏ qua phần trò chuyện mà đi thẳng sang tiết mục phô bày thân thể xinh đẹp đã sẵn sàng của mình.

Đó là lý do tại sao cô mời Jimmy tới căn hộ của mình (cậu ta sống ở tầng hai trong cùng một tòa nhà) để uống vài chén. Kế hoạch là làm trông như cô vừa tiệc tùng cả đêm với lũ bạn và chỉ tình cờ đi ngang qua tòa nhà Tolman trên đường về.

Penny uống thêm một ngụm vodka pha nước cam từ chai rượu nhỏ màu bạc của Jimmy, và cô suýt chút nữa đã uống cạn.

“Này!” Jimmy phản ứng. “Cậu không sao đấy chứ?”

Mắt cô ngấn nước, gật đầu.

“Hít sâu nào…”

Cô nuốt vị chua bỏng rát xuống cổ họng và hít thở sâu. “Phù.” Cô phát ra âm thanh theo từng nhịp thở.

“Có lẽ đây không phải là ý hay,” anh nói. “Chúng ta vẫn còn rất nhiều để phải uống hết. Hay ngày mai quay lại…”

“Suỵt!” Penny nói, phát hiện Guru đang băng qua đường tiến về hướng cửa chính của tòa nhà. “Anh chàng đầu trọc tới rồi kìa! Sẽ không phải đợi lâu nữa.”

Wallis kiểm tra đồng hồ đeo tay của mình Guru bước vào phòng. 9 giờ 45 phút tối. Đầu Guru vẫn trọc lóc, nhưng cậu ăn mặc lịch sự hơn trong bộ cánh mới: chiếc áo sơ mi màu hồng cùng quần jean xanh đậm và một đôi giày lười bằng da màu rượu vang do Burgundy.

“Em mang phong thái của thầy rồi đó, anh bạn trẻ!” Wallis tán thưởng. “Mặc giống hệt tôi vào ngày nghỉ.”

“Thầy khen em quá rồi, ” Guru đáp lại chân thành. “Em nợ thầy một ân tình rồi đó ạ.”

“Ân tình? Chẳng lẽ em đã kiếm được một người vợ thích hợp rồi hả?”

“Không, vẫn chưa ạ, nhưng em chắc rằng sẽ sớm thôi.” Cậu giơ cao cặp sách của mình lên. “Thầy ngửi thấy gì không?”

Wallis cười khẩy. “Thầy ngửi thấy mùi gì đó, nhưng không phải đồ ăn nhanh của McDonalds.”

“Không phải hôm nay! Thầy nhìn này!” Cậu đặt chiếc cặp lên bàn và lấy từ trong ra một chiếc túi giấy có logo của Chipotle trên đó. “Xin hân hạnh giới thiệu với thầy – Chipotle!” Cậu phát âm tên của chuỗi nhà hàng là Chơ-pô-til.

“Nó đọc là Chơ-pốt-lây, Guru ạ.”

“Thầy biết cửa hàng này hả?”

Wallis nhướng mày. “Em sao đấy hả? Đây là một trong những chuỗi cửa hàng ăn nhanh lớn nhất đất nước đó. Em chưa từng nghe tới nó cho đến hôm nay hả?”

“Chưa ạ, chưa bao giờ. Em chưa bao giờ để ý kỹ tên mấy hàng ăn. Nhưng khi đi dạo sáng nay, và nhìn thấy Chơ-pốt-lây, em chợt nghĩ thầy nói đúng. Em cần thay đổi chế độ ăn của mình. Vì vậy em bước vào bên trong và gọi một bát Burrito, và thật kì diệu, em được phép tự chọn nguyên liệu cho riêng mình!”

“Đó là cách nó hoạt động đó, Guru. Như một dạng bánh mỳ Subway của Mexico ấy.”

“Bánh mỳ Subway? Nó là cái gì? À! Em hiểu ý thầy rồi, tất nhiên là em biết bánh mỳ Subway là gì. Nhưng bánh mỳ kẹp kiểu Mỹ chưa bao giờ hấp dẫn đối với em.”

“Nhưng burger Mỹ thì có?”

“Không ạ, em chỉ đặt gà viên chiên ở McDonald’s thôi.”

“Mỗi ngày?”

“Đúng thế, mỗi ngày. Nhưng bây giờ em biết tới Chơ-pốt-lây rồi, em sẽ không bao giờ quay trở lại McDonald’s nữa.”

“Được rồi, giờ thầy về đây. Guru, em làm thầy ngạc nhiên đấy.” Wallis đứng dậy và thu dọn tài liệu của mình cho vào túi xách. “Chad và Sharon đã im lặng trong hầu hết cả ngày nay. Họ có tranh cãi một chút. Em có thể đọc những ghi chép của thầy. Bây giờ có thể họ đang nhường nhịn nhau, nhưng nếu có chuyện gì xảy ra, thì em biết số điện thoại của thầy rồi đó.”

“Thầy đừng lo. Em có thể xử lý được.”

Trời đã tạnh mưa, nhưng không khí ban đêm vẫn thật ẩm ướt và lạnh lẽo, mùi đất bốc lên sau cơn mưa thật dễ chịu. Wallis đang đi về phía đông dọc theo đường Bayard Rustin thì nghe thấy tiếng gót giày lạch cạch trên con đường phía sau mình.

“Thầy Roy!”

Anh quay lại và thấy Penny Park đang chạy về phía mình, trên đôi giày cao gót màu đỏ và mặc áo khoác da ngắn.

“Penny?” Anh ngạc nhiên. “Em đang làm gì ở đây? Ca làm của em là vào sáng sớm cơ mà.”

“Tất nhiên ạ, em biết mà,” cô đáp, bước đến bên cạnh anh. “Em đến tìm thầy!”

Wallis không ngửi thấy mùi rượu trong hơi thở của cô, nhưng anh có thể nhìn thấy nó trong ánh mắt cô và cách cô nói chuyện.

“Đồ em mặc là để đi chơi đêm,” anh nhận xét.

“Em đi chơi về rồi. Với bạn em, Jimmy và vài người khác. Nhưng em cảm thấy chán.”

“Nên em đến tìm tôi?”

“Vâng.” Cô chớp đôi lông mi giả và tóm lấy cánh tay anh. “Điều đó tệ lắm ạ?”

Wallis nhìn qua vai cô nhưng không thấy ai ở gần. Anh quay lại nhìn Penny. Cô đang mỉm cười đầy mong đợi. “Penny, tôi không thể đi với em được.”

Cô giận dỗi. “Sao lại không ạ?”

“Tôi là thầy của em.”

“Thì sao ạ? Các tiến sĩ được phép đi chơi với sinh viên của mình mà. Với lại, em cũng 21 tuổi rồi.”

“Điều này không thích hợp cho lắm.”

“Ai thèm quan tâm chứ!” Cô khăng khăng. “Không ai thấy chúng ta đâu! Không có ai ở trường bây giờ hết.”

Wallis thấy mình thực sự đang cân nhắc lời mời gọi của cô gái. Nhưng: Không – không thể được!

Penny có lẽ đã cảm nhận được sự do dự từ anh, liền năn nỉ: “Thôi nào, thầy Roy. Chúng ta đến một nơi nào đó nhỏ bé và yên tĩnh nhé?”

“Xin lỗi, Penny,” anh đáp. “Không phải tối nay.”

“Em cá là sẽ rất vui cho mà xem,” cô nhẹ nhàng, tựa hẳn ngực về phía anh.

“Không, Penny,” anh kiên quyết. “Thầy sẽ gọi xe cho em.”

“Aaa…” Cô nấc lên.

“Em đã uống bao nhiêu vậy?” Anh hỏi.

“Không nhiều lắm,” cô đáp. “Và thầy không được gọi Uber cho em.”

Anh cau mày. “Tại sao lại không?”

“Em không tin họ. Thầy có biết có bao nhiêu cô gái mất tích trên Uber không?”

“Chúng cũng an toàn như tắc-xi mà.”

“Em cũng không tin tắc-xi.”

“Vậy em đến đây bằng cách nào?” Anh không nghĩ là xe buýt, nhìn vào cách cô ăn mặc là biết.

“Jimmy đưa em tới.”

Wallis nhíu chặt đôi lông mày của mình. “Thế em tính về nhà bằng cách nào?”

Cô lại nấc cụt. “Thôi nào, thầy. Đi chơi với em đi!”

“Tôi sẽ lái xe đưa em về nhà.”

“Nhưng em muốn đi chơi!”

“Penny, hoặc là tôi đưa em về, hoặc là đêm nay em ở lại với Guru. Tùy em.”

“Chúa ơi! Được rồi, xe thầy để ở đâu vậy ạ?”

Wallis dẫn cô đi về phía xe anh ở gần bãi đậu xe Crescent.

“Một chiếc Audi!” Penny thích thú. “Em không biết thầy kếch xù như thế đấy ạ.”

“Thầy không có con để tiêu hết tiền của mình.” Anh ngay lập tức cảm thấy hối hận vì câu trả lời này.

Penny sững người một lúc. “Vậy là thầy chưa kết hôn phải không ạ?”

“Chưa,” anh đáp gọn.

“Bạn gái thì sao?”

“Vào xe đi, Penny.”

Anh ấn nút Mở trên chìa khóa từ rồi ngồi vào phía sau tay lái và đóng cửa lại. Penny cũng leo lên ghế phụ, cánh cửa tự động đóng lại ngay sau đó.

“Tuyệt thật!” Cô tán thưởng.

“Nhà em ở đâu?”

“Thầy không cần tìm trên GPS đâu. Em sẽ chỉ đường cho thầy. Bây giờ rẽ trái vào đường Oxford.”

Wallis đi theo chỉ dẫn, xe anh là chiếc duy nhất xuyên màn đêm trên con đường rộng lớn.

“À,” anh lên tiếng, nghĩ đến một chủ đề an toàn nào đó để phá vỡ sự yên lặng.

“À?” Cô lặp lại một cách tinh nghịch.

Cô gái này thật hết nói nổi! Anh thầm nghĩ.

“Tôi nghĩ là mình chưa bao giờ hỏi em,” anh nói. “Kế hoạch của em sau khi tốt nghiệp vào năm tới là gì? Em định làm công việc gì?” Anh nhanh chóng nói thêm vế sau, để cô không nghĩ anh muốn nói đến chuyện kết hôn hay mấy thứ vớ vẩn tương tự.

“Em muốn trở thành một ngôi sao K-pop.” Cô thở dài. “Nhưng em hát không hay nên không nghĩ việc đó sẽ trở thành sự thật. Thực ra thì em muốn làm một công việc nào đó có thể đi đây đi đó. Em muốn tới Paris, London, Đài Loan và Lào. Em muốn đi vòng quanh thế giới.”

“Vậy em học sai ngành rồi,” anh nhận xét.

“Ý của thầy là ngành Tâm lý học?” Cô bật cười. “Ôi trời, tiến sĩ ơi. Đó không phải là ngành học chính của em. Em học Thương mại Quốc tế cơ.”

Wallis liếc nhìn cô. “Nhưng em tham dự tất cả các khóa học của tôi học kỳ trước. Điều đó chắc hẳn phải ngốn phần lớn thời gian của em cho các môn học chuyên ngành chứ?”

“Đúng là em đã tham dự tất cả các lớp học của thầy. Thầy có muốn biết một bí mật không ạ?”

Anh không chắc mình muốn biết hay không nhưng vẫn kiên nhẫn lắng nghe.

“Em cũng đã tham dự lớp Tâm thần học của thầy vào năm nhất,” cô tiếp tục. “Thầy chắc không nhớ đâu, bởi lớp đó rất đông, phải đến năm trăm người ấy ạ.”

Đúng là anh không nhớ thật.

“Em thực sự thích,” cô nói. “Ý em là, em học lớp đó bởi nó là một trong những môn học bắt buộc của năm nhất. Nhưng sau đó, em có say nắng thầy chút xíu.”

Wallis nắm tay lái chặt hơn. “Tôi nên rẽ hướng nào đây?” Họ đang gần đến đường Bancroft.

“Con phố tiếp theo, rẽ phải.”

“Đường Durrant?”

“Vâng, rồi đi thẳng thêm hai khúc nữa. Dù sao thì, đó cũng là bí mật của em.”

“Được rồi, vậy cám ơn em đã nói với tôi, Penny. Tôi rất, hừm, vui, chắc là vậy.”

“Giờ thì tới lượt thầy,” cô nói. “Nói em nghe một bí mật đi ạ.”

“Tôi không nghĩ thế.”

“Tại sao lại không?”

“Vì tôi không có bí mật.”

Cổ bật cười. “Ai mà chẳng có bí mật của riêng mình chứ. Đến rồi, dừng xe. Chúng ta đến nơi rồi ạ.”

Wallis nhấn chân phanh. “Ở đây?”

Cô chỉ tay qua cửa sổ xe về phía một tòa nhà sinh viên sáu tầng được sơn màu đỏ, nâu và bạc. Phía trên cửa ra vào là cái tên: VARSITY.

“Em biết điều đó mà, thưa thầy.”

“Ý tôi là, em đã có thể tự đi bộ về.”

“Trên đôi giày cao gót này ư? Cám ơn, nhưng không đâu ạ! À,” cô nói, quay mặt sang anh, “em thích ở trong xe của thầy.”

“Em nên về nghỉ ngơi đi, Penny.”

“Thầy có muốn vào trong không?”

“Không.”

“Chỉ một lát thôi.” Cô chạm vào tay anh.

“Không.”

“Sao lại không chứ” Có đưa người lại gần, cổ áo khoác để lộ khe ngực ẩn hiện trong chiếc váy khoét sâu.

“Em đi quá giới hạn của mình rồi đấy,” anh nói.

“Em thích đạt được thứ mình muốn.” Cô càng lúc càng dựa người về phía anh gần hơn.

“Penny, em nên về đi,” anh khuyên nhủ.

Nhưng môi cô đã chạm vào môi anh mất rồi. Nụ hôn của cô mạnh bạo, và anh thấy mình đang hôn đáp trả lại cô. Cô đặt một tay lên ngực anh, sau đó cố gắng di chuyển cơ thể của mình để có thể ngồi vào lòng anh. Điều này có vẻ khá khó khăn trong không gian chật hẹp, và cô quyết định chỉ di chuyển tay về phía quần của anh…

“Penny,” anh nói, giọng khàn khàn. Anh nắm chặt cổ tay cô. Đôi mắt cô chỉ cách anh vài phân, long lanh, hoang dại và nồng nhiệt. “Em nên về nghỉ ngơi đi.”

Anh chắc mẩm rằng cô sẽ phản đối, và anh đã sẵn sàng tự thuyết phục bản thân mình đến cùng, nhưng cô chỉ đơn thuần là ngồi lại vào ghế của mình. Nở một nụ cười yếu ớt, cô nói: “Gặp lại thầy vào ngày mai,” sau đó bước ra khỏi xe và đóng cửa lại.

Wallis dõi theo cô cho đến khi cô bước vào bên trong tòa nhà, và chỉ khi đó anh mới tự hỏi người mà anh nhìn thấy ở bên ngoài từ cửa sổ phòng làm việc cũ của minh liệu có phải là Penny.

“Lạy Chúa,” anh thốt lên trong sự bối rối cực độ, sau đó phóng chiếc Audi về nhà.

Anh không về nhà.

Anh chắc chắn mình sẽ không tài nào ngủ được. Thay vào đó, anh ghé qua The Hideaway, một quán rượu mang hơi hướng cướp biển ở quận Fillmore của San Francisco. Nơi này được mô phỏng theo phong cách cướp biển vùng Caribbe, mở cửa muộn, luôn ồn ào và tự hào về bộ sưu tập rượu rum lớn nhất cả nước.

Wallis đã chiếm ngay được một vị trí quầy bar, và anh nhanh chóng được chào đón bởi Julio, chủ quán kiêm trưởng quầy pha chế, người mà có lẽ là duy nhất ở thành phố này đam mê rượu rum hơn anh.

“Ô hô hô, Roy,” Julio lớn tiếng chào đón. “Tối nay anh muốn uống gì? Như cũ hay muốn tham gia một chuyến du ngoạn đây?”

Chuyến du ngoạn mà anh ta muốn nói đến ở đây là cho Wallis uống hết hơn trăm loại đồ uống có trong thực đơn. Anh đã đi được nửa quãng đường rối, từ những ly thời quán rượu kiểu thuộc địa cho đến những thức uống sáng tạo hơn của Havana, hay cả những loại cocktail phức tạp được tạo nên từ mười nguyên liệu.

“Đồ uống tiếp theo trong chuyến đi sẽ là gì nhỉ?” Anh hỏi.

“Tôi không nghĩ là anh đã thử qua một ly Rum Flip đâu. Trứng, rượu Demerara, nhục đậu khấu tươi xay và tất nhiên là cả rượu rum hảo hạng được chọn lựa kĩ càng.”

“Ăn tối và thưởng thức một ly. Nghe thú vị đấy, người anh em.”

Julio quay sang pha chế đồ uống, còn Wallis rút điện thoại ra khỏi túi. Anh mở ứng dụng tin nhắn. Tin nhắn cuối cùng là từ Brook, cảm ơn anh về bữa tối đêm hôm trước. Anh trả lời bằng một biểu tượng cảm xúc nắm tay với ngón cái chĩa lên trên. Vào thời điểm đó, nó có vẻ phù hợp, nhưng nghĩ sâu xa hơn thì nó có vẻ quá xuề xòa, không thể hiện đủ cảm xúc và thậm chí có phần kênh kiệu, khi mà anh đã dành cả đêm trong căn nhà nổi của cô.

Suy nghĩ này khiến anh cảm thấy tội lỗi hơn, đặc biệt là sau cuộc gặp gỡ lúc trước với Penny, và anh tiếp tục gõ:

Anh cũng đã có một buổi tối rất vui vẻ. Em thật tuyệt vời! Khi nào thì chúng ta gặp lại?

Anh đặt điện thoại của mình xuống. Người phụ nữ ngồi trên chiếc ghế bên tay trái anh nói gì đó.

“Xin lỗi?”Anh hồ nghi. Cô khoảng 30 tuổi, mái tóc vàng đậm có chút sắc nâu.

“Một kẻ khốn, vô lại, xấu xa hay bất lương. Anh thuộc loại nào?”

“Chúng đều có một nghĩa mà,” anh đáp.

Cô nâng ly cocktail của mình lên tỏ vẻ cảm kích.

Julio quay trở lại với một ly pha chế màu vàng trong như thứ bạn sẽ uống vào buổi sáng Giáng sinh.

Wallis nhấp một ngụm. “Ngon như mong đợi, anh bạn,” anh khen.

Julio nói ra tên loại rượu rum mà mình đã dùng rồi quay trở lại phục vụ những vị khách khác.

“Khách hàng quen?” Cô nàng tóc vàng hỏi anh.

“Tôi chưa từng thấy cô trước đây.”

“Một người bạn của tôi đã giới thiệu địa điểm này vì không khí nơi đây.” Cô nhếch môi cười. “Cô ấy lẽ ra nên gợi ý nó cho một người đàn ông mới phải.”

Wallis nghiên cứu kỹ hơn người phụ nữ: Chiếc váy màu xanh lá bó sát, dài đến đầu gối, đôi giầy cao gót ánh vàng khiến cô vừa giống “gái làng chơi” vừa nhìn có chút thanh lịch. Tuy nhiên, đồ trang sức của cổ trông có vẻ thật, cách trang điểm cũng không quá lố… nên anh vẫn chưa thể xác định liệu cô có hứng thú thật với mình hay chỉ đang mời khách.

“Vậy bạn của cô có tới đây với cô không?” Anh hỏi.

“Tôi tới một mình.”

Anh đang không biết nói gì tiếp thì điện thoại rung lên.

“Xin lỗi,” anh nói, mở ứng dụng nhắn tin. Đó là một tin nhắn từ Brook:

Chào Roy. Em không phải làm việc tối nay. Em vừa làm xong mỳ Ý và salad. Nếu anh muốn ghé qua thì vẫn còn dư rất nhiều đấy. Nhưng em hiểu nếu anh tan ca trễ và cảm thấy mệt mỏi… Cứ nhắn lại cho em biết nhé.

Wallis nhoẻn miệng cười. Đúng là Brook: chân tình, rụt rè và lịch sự.

Anh cảm thấy tội lỗi hơn vì những gì đã diễn ra với Penny… và cả suy nghĩ thoáng qua rằng anh nên mời người phụ nữ bên cạnh một ly rượu.

Anh đứng dậy. “Thật không may, một cuộc gọi công việc.”

“Công việc… hay nhân tình?” Người phụ nữ hỏi.

Wallis do dự, “Rất vui vì được nói chuyện với cô.”

Cô ấy đưa bàn tay gầy gò về phía trước. “Tôi là Liz.”

“Roy!” Anh đáp, run rẩy bắt lấy tay cô.

“Chúng ta sẽ gặp lại nhau ở đây chứ, Roy?”

“Cô ấy là một trong những người bạn tâm giao của tôi.”

“Thật là một cô gái may mắn,” có nói, đôi mắt thoáng nhìn vào điện thoại trên tay anh.

“Không, tôi mới là người may mắn,” anh đáp, sau đó rời đi và nghỉ thầm: May mắn hơn những gì tôi xứng đáng nhận được.