NGÀY THỨ MƯỜI
Thứ Tư, ngày 6 tháng 6 năm 2018
❖ ❖ ❖
Chad đang trở nên lo lắng.
Anh đã cố gắng hết sức để ghi nhớ lời thoại, thể hiện chính xác cảm xúc của nhân vật, thực sự hóa thân thành Alex Foley, cảnh sát thông minh của thành phố Detroit đang cố gắng giải quyết vụ án giết bạn mình… và bây giờ, tất cả sẽ tan thành mây khói nếu mấy cây nấm chết tiệt thực sự mọc trên đầu anh.
Martin Brest sẽ không đời nào mời anh đóng phim với cái đầu đầy nấm ấy, và vai diễn để đời này, vai diễn sẽ đưa anh lên đỉnh cao danh vọng, sẽ thuộc về người khác.
Chad vò đầu bứt tai cả trăm lần, sờ thấy cục mụn mà anh ta đã để ý từ trước.
Nó ở đó, ngay trên mắt trái của anh, sát dưới lằn tóc và lông mày.
Anh ấn vào nó. Cục mụn vỡ ra một chút, hoặc ít nhất là anh nghĩ như thế.
Nhưng nó có thực sự là mụn không?
Đúng, có chứ. Nó vẫn chưa to lắm, nhưng có thể chín bất kỳ lúc nào, như mấy cây nấm mọc lên sau một cơn mưa nặng hạt.
Chad có suy nghĩ muốn kiểm tra bản thân trong cửa kính, nhưng anh không muốn Tiến sĩ Wallis hay hai trợ lý của ông hỏi anh đang làm gì. Họ có thể sẽ gọi cho Martin Brest và nói rằng anh không đủ sức khỏe để tham gia diễn xuất.
Anh xoa xoa cục mụn một lần nữa và nhận thấy Shaz đang quan sát mình.
“Cô nhìn cái quái gì?” Anh nói với cô ta.
Cô nhanh chóng quay trở lại cuốn sách của mình.
Chad nhìn chằm chằm cô ta thêm vài giây, rồi quay lưng lại với cô và cả cửa sổ quan sát.
Anh tiếp tục xoa chỗ lồi lên trên trán.
Sharon cố gắng tập trung vào cuốn tiểu thuyết của Dean Koontz đang đặt mở trên đùi, nhưng cô không thể hiểu được những từ ngữ được viết trong đó. Đã được một khoảng thời gian dài rồi, nhưng cô vẫn cứ tiếp tục nhìn chăm chăm vào chúng, lật vài trang để ai đó đang thám thính nghĩ rằng cô vẫn ổn.
Nhưng có hoàn toàn không ổn chút nào.
Gần đây, cô không chỉ bị nóng trong người mà còn bị viêm họng, khiến việc nuốt nước bọt trở nên khó chịu. Dạ dày cô cũng không ổn cho lắm. Cô có cảm giác căng chướng và đầy bụng mặc dù cô không nhớ lần cuối mình ăn là khi nào.
Hồi nhỏ, khi cô bị ốm, mẹ sẽ ở nhà chăm sóc cô, nấu cho cô món xúp mì gà và cho cô uống một chai bia gừng lạnh từ Canada của bố. Vào ban đêm, bà sẽ đắp chăn cho cô, thoa dầu bôi ấm ngực và đọc sách cho đến khi cô ngủ thiếp đi.
Sharon rất nhớ cha mẹ và em trai, nhưng có biết rằng mình sẽ không được gặp họ cho tới khi cuộc thí nghiệm kết thúc. Cô đơn thuần chỉ phải đối phó với cơn sốt, đau họng và chướng bụng cho đến khi Wallis nói rằng cô có thể rời đi.
Cô không phải tù nhân, Shaz. Chỉ cần nói với ông ta rằng cô muốn đi. Ông ta sẽ để cô đi.
Đúng thế. Ngay khi bước ra khỏi căn phòng này, tôi sẽ ngủ. Ai mà biết ông ta sẽ làm gì cơ chứ. Tôi có thể tỉnh dậy và thấy mình bị trói trên một chiếc bàn với cái bụng bị rạch mỡ.
Tại sao ông ta lại muốn rạch bụng cô?
Để nhìn thấy thứ bên trong.
Thứ gì bên trong?
“Im di!” Sharon đột ngột hét lớn, ném quyển sách ra xa. Cô đứng dậy khỏi giường và bắt đầu đi vòng quanh,
Ai đó đang nói chuyện với cô. Gã Ấn Độ. Đang hỏi cô có chuyện gì.
“Để tôi yên!” Cô gằn giọng, chộp lấy trái bơ trong chiếc giỏ trên bàn bếp và ném nó xuống sàn. Trái bơ vẫn còn nguyên hình dạng. Cô nghiền nát nó bằng gót giày. Lớp vỏ xanh rách ra và phần thịt quả màu xanh nhạt phun ra từ cả hai phía, nhầy nhụa vón cục. Hạt bơ to lăn tròn trên đất, dừng lại ở chân bếp.
Sự tàn phá khiến Sharon cười lớn, và khi đó, cô ngừng nghĩ đến nỗi nhớ nhà và những gì đang lớn dần lên bên trong cô, cùng tất cả những điều nguy hiểm khác mà cô không muốn nghĩ đến.
Vài phút sau, cô ngồi thụp xuống sàn bếp với khuôn mặt vô cảm, cơn sốt và các triệu chứng khác trở về, cảm giác bị theo dõi quay trở lại, những suy nghĩ đen tối cũng xuất hiện.
Còn tệ hơn lúc trước.
Cô khóc.
Guru kiểm tra chiếc đồng hồ đeo tay Casio mạ vàng mà mẹ đã tặng cho anh khi anh được nhận vào Đại học California. Bây giờ đã là 5 giờ 45 phút sáng. Còn mười lăm phút nữa là đến giờ tan ca. Anh ngáp dài. Mỗi ngày một khó khăn hơn để giữ mình tỉnh táo xuyên đêm. Cả Chad và Sharon đều không nói chuyện với anh nữa. Trên thực tế, gần đây họ không làm gì nhiều. Chad chỉ ngồi trên ghế tập hoặc sô pha, nhìn chăm chú vào khoảng không trước mặt, còn Sharon thì ngồi trên giường, nhìn chằm chằm vào quyển sách nào đó đang mở trên đùi, thỉnh thoảng còn không lật trang trong một thời gian dài. Phải lâu lắm cả hai mới làm gì đó đáng gây chú ý. Chad sẽ nhảy dựng lên và bắt đầu diễn tập mấy cảnh trong phim Cảnh sát Beverly Hills . Sharon thì sẽ bất thình lình cười to hoặc khóc lóc, giống như những gì cô đã làm vào sáng nay. Nhưng phần lớn thời gian họ chỉ ngồi và không làm gì cả, điều đó đồng nghĩa với việc Guru cũng chỉ ngồi và nhìn họ không làm gì.
Trong suốt tám tiếng.
Tuy nhiên, trong khi Guru và Penny làm công việc chẳng khác trông trẻ là mấy này thì Tiến sĩ Wallis vẫn tiến hành những bài kiểm tra nhận thức quan trọng cho hai đối tượng người Úc, củng cố nghiên cứu của thầy ấy về ảnh hưởng của khí kích thích lên các đối tượng là con người, và Guru vẫn tự hào khi được là một phần của công trình này.
Anh nghe thấy tiếng bước chân đang đến gần. Chỉ vài phút sau, cánh cửa phòng quan sát bật mở và Penny xuất hiện trong bộ trang phục được phối một cách kỳ quặc khiến Guru liên tưởng đến một đứa trẻ sáu tuổi cố gắng mặc đồ để trông giống búp bê Barbie. Cô đang mỉm cười và có vẻ tâm trạng khá tốt.
“Chào buổi sáng, Guru!” Cô xoa cái đầu nhẵn nhụi của anh. “Con ước có một chiếc Lamborghini.”
“Còn tớ thì sẽ ước cậu ngừng làm thế này với tớ vào mỗi sáng. “”
Cô ngước nhìn về phía cửa sổ quan sát. “Mấy chú chuột của chúng ta thế nào rồi?”
“Thật không may, Sharon lại khóc nức nở một lần nữa.”
“Tớ nói thật đấy,” cô tiếp tục, phớt lờ Guru. “Họ giống mấy con chuột, phải không? Nhốt người trong một căn phòng trong một khoảng thời gian dài không có việc gì để làm, và họ đang mất đi những thứ khiến họ là một con người. Họ chỉ ngồi yên như mấy con chuột ngu ngốc. Tại sao chúng ta lại nghĩ chúng ta khác biệt nhỉ?”
“Cậu nói như thể cậu đang gặp phải một khủng hoảng về sự tồn tại vậy.”
Cô quay sang anh ta. “Sao cậu lại nói như thế?”
Anh nhíu mày. “Như thế nào?”
“Kiểu lúc nào cũng trang trọng và nói rất nhanh. Tốc độ nói của cậu – quá nhanh. Mau mau lẹ lẹ, vội vội vàng vàng. Cậu cần phải nói chậm lại.”
“Cậu đang đưa lời khuyên cho tớ về cách ăn nói đó hả? Đến tên mình cậu còn chẳng phát âm đúng nữa là.”
“Gulu?”
“Là Guru! Gu-ru!”
“Thì tớ nói vậy mà. Mà tên Guru có nghĩa là gì thế? Không phải đó là một danh từ chung hả?”
“Guru trong tiếng Phạn có nghĩa là thầy giáo, chuyên gia trong một lĩnh vực nào đó.”
“Vậy cậu là một kiểu giáo viên?”
“Tớ không phải là giáo viên, Penny. Guru chỉ là đơn giản tên thôi, giống như Violet (hoa tử linh lan) hay Rose (hoa hồng) là tên của phụ nữ mà không ám chỉ tới loài hoa đó.”
“Vậy tớ đoán là cậu là chuyên gia về tình dục.”
Guru đứng dậy: “Tớ nghĩ là mình nên về rồi.”
“Nhưng chúng ta còn chưa bàn giao công việc mà!”
“Thôi được, nếu cậu nghiêm túc…”
Penny ngồi xuống chiếc ghế trống. “Thực ra, tớ không quan tâm đến việc giao ban lắm,” cô nói, gác đôi chân vẫn còn đi giày của mình lên bàn làm việc. “Tớ cần hỏi cậu một câu.”
“Nói đi!” Anh nói, bất bình nhìn đôi chân đang đặt trên bàn của cô.
“Cậu có biết tiến sĩ sống ở đâu không?”
Guru chớp mắt. “Tiến sĩ Wallis á?”
“Thì còn vị tiến sĩ nào khác nữa?”
“Sao cậu lại muốn biết chỗ ở của thầy?”
“Tớ chỉ tò mò thôi.”
“Rất tiếc, tớ không biết.”
“Nhưng cậu có thể tìm thấy nó trên mạng mà, phải không?”
“Sao cậu lại nghĩ thế.”
“Bởi vì cậu là người Ấn Độ, và người Ấn rất giỏi mấy thứ này nọ về máy tính.”
Guru đảo mắt ngán ngẩm. “Cậu nói chuyện nghe như mẹ tớ ấy. Và người Ấn Độ không giỏi máy tính hơn người nước khác đâu. Chỉ có một số người…”
“Tớ đùa thôi!” Cô cắt ngang. “Nhưng cậu giỏi về máy tính, đúng không?”
“Tớ không phải ‘Guru’ máy tính.”
“Ôi Chúa ơi, thôi nào. Cậu không hài hước chút nào đâu, cố quá thành quá cố đấy.”
Nụ cười của Guru biến mất. Anh đã nghĩ đó là một câu nói hài hước.
“Thôi nào,” Penny nài nỉ. “Cậu có thể giúp tớ chứ?”
“Tớ nghĩ chúng ta nên tôn trọng quyền riêng tư của thầy.”
“Tớ biết là cậu sẽ bảo thủ như thế mà.” Cô thu chân về và xoay ghế để quay lưng lại về phía anh. “Gặp lại cậu vào ngày mai, đồ mọt sách bảo thủ.”
Guru hoàn toàn bất ngờ vì giọng điệu không thiện chỉ này của cô. Anh suy nghĩ về lời trách móc này trong phút chốc rồi nói: “Cậu đã thử tìm kiếm Tiến sĩ Wallis trên mạng xã hội chưa?”
Penny quay phắt lại. “Tất nhiên là rồi. Thầy ấy có tài khoản Linkedin, nhưng tớ không tìm thấy bất cứ thông tin cá nhân nào bởi tài khoản để chế độ riêng tư.”
Guru nhún vai. “Với số điện thoại mà chúng ta có được của thầy, chúng ta có thể tìm kiếm chút ít,” anh nói. “Nếu Google từng ghi lại số điện thoại của thầy trên một trang web công khai nào đó, chúng ta có thể kiểm tra thử, có thể có thông tin liên quan nào đó, chẳng hạn như địa chỉ..”
Penny nở nụ cười không thể nào tươi hơn. “Vậy thì làm thôi!”
Roy Wallis đã không gặp lại Brook kể từ đêm anh ngủ lại trên căn nhà nổi của cô, và anh đang rất mong đợi buổi hẹn hò của họ vào tối nay. Sau khi tắm rửa, anh mặc một bộ quần áo đơn sắc giản dị cùng một đôi giày lười đế màu kem. Anh xức thêm chút nước hoa, vuốt keo tạo kiểu tóc và thoa một chút dầu dưỡng tuyết tùng lên râu. Trong phòng khách, âm nhạc vang lên du dương, ánh đèn mờ ảo làm tăng phần lãng mạn, anh pha cho mình một ly rượu rồi bước ra ban công hút một điếu thuốc. Đang định châm lửa thì chuông cửa vang lên. Anh nhét lại điếu thuốc vào bao, mang ly rượu trở vào bên trong và mở cửa.
Brook đứng đó trong dáng vẻ của những cô gái năm 1920, với vòng cổ ngọc trai và một chiếc váy dài đính cườm cổ ren mang nghệ thuật chiết trung, trông cô đẹp mê hồn.
“Mời vào, em yêu,” Wallis nói, hôn nhẹ lên má cô.
“Chào anh, mùi nước hoa tuyệt quá,” cô khen. “Hương gỗ.”
“Giống ở nhà của em chứ?”
“Căn nhà nổi của em có nhiều mùi gỗ đến thế à?”
“Không phải, mà nó thực sự là mùi gỗ. Em uống gì? Anh có một chai California Syrah mà anh luôn muốn để dành cho một dịp như thế này.”
“Nghe thật đáng yêu.”
Wallis vào bếp rót cho cô một ly, rồi nói: “Lại đây, anh muốn cho em thấy thứ này.” Anh dẫn cô tới một căn phòng thông ra tháp đồng hồ, sau đó nhìn xuống đôi giày cao gót của cô. “Em định leo ba tầng lầu bằng đôi giày đó hả?”
“Ba tầng?” Cổ nhăn mặt nhìn về phía bậc thang. “Đừng nói với em là nơi này có hơn ba tầng nhé?”
“Không, chỉ có tòa tháp này thôi.”
“Toà tháp…”
Anh nắm tay cô và dẫn cô đi lên những bậc thang bằng thép sơn tĩnh điện. Cô ngạc nhiên thích thú trước tầng đầu tiên rộng thênh thang, đặt một bàn bi-a, một bàn pinball và khung cảnh thành phố qua bốn ô cửa sổ lớn. Cô mắt chữ ( mồm chữ A trước thư viện, văn phòng và cả khu vườn bằng kính ở tầng hai. Nhưng chính tầng ba – nơi mà ánh trăng đêm xuyên qua bốn mặt kính đồng hồ chiếu sáng cả căn phòng trong một thứ ánh sáng mờ đầy ma mị – mới làm cô đứng hình.
“Ôi, Roy, em yêu chỗ này mất rồi!” Cô cảm thán, ngó nghiêng qua khung cửa kính của mặt đồng hồ phía đông. “Em cảm thấy mình như một nàng công chúa trong lâu đài cổ tích của riêng mình vậy!”
“Anh rất vui vì em thích nó,” anh nói, nâng ly rượu của mình từ chiếc bàn gần đó lên. “Nơi đây chính là lý do khiến anh mua căn nhà này hai mươi năm trước.”
“Nếu anh không ngại thì cho em hỏi, Roy… làm sao anh có thể mua được căn nhà này? Ý em là, em biết lương của tiến sĩ rất khá, nhưng căn nhà này chắc hẳn phải tốn hàng triệu đô…”
“Anh được thừa kế một khoản khá lớn khi bố mẹ anh qua đời. Anh phải chi một số tiền lớn cho một cái gì đó. Bất động sản dường như luôn là chỗ đầu tư an toàn.”
“Ồ, Roy,” cô nói, mang vài phần lúng túng. “Em xin lỗi… Em biết mình không nên hỏi.”
Wallis kéo cô lại gần và hôn lên môi cô. Nụ hôn kéo dài cho đến khi anh phải lùi lại để cho ham muốn của mình một khoảng không gian. Anh muốn tận hưởng một buổi tối yên bình bên Brook, chứ không phải chỉ lao vào những cuộc làm tình.
Họ quay trở lại căn phòng chính và chuẩn bị bữa tối. Wallis đã ghé qua siêu thị địa phương vào sáng nay để mua nguyên liệu cho món salad Caprese, bánh mỳ nướng kiểu Ý Bruchetta và mì Ý Carbonara. Tuy nhiên, niềm vui thích nấu nướng của anh không bao gồm món tráng miệng, nên anh đã mua một chiếc Tiramisu thay vì cố gắng làm.
Họ đang kết thúc bữa ăn ở chiếc bàn ngoài ban công thì chuông cửa nhà anh vang lên.
Wallis thoáng giật mình và sợ hãi liên tưởng tới cái đêm mà Brandy tới vào hai tuần trước, khi Brook xuất hiện một cách bất ngờ.
Liệu đó có phải là Brandy ở trước cửa như một trò đùa nghiệt ngã của số phận?
“Xin lỗi,” anh nói, dùng khăn ăn chấm lên môi và đứng dậy. Không thể đưa ra một lời giải thích nào với Brook, anh nhanh chóng quay vào trong và đi đến cửa trước, cảm giác lo lắng dâng tràn trong lồng ngực theo từng bước chân.
Anh nắm chặt tay nắm cửa, dừng lại một nhịp, sau đó mở cửa, hy vọng điều tốt nhất trong tình huống này là đó có thể là bất cứ ai, ngoại trừ Brandy.
Đứng trước cửa là Penny Park, ăn mặc theo phong cách K-pop với chiếc áo len ngoại cỡ, khăn quàng cổ và váy xòe ngắn.
Wallis chớp mắt. “Penny?” Anh ngạc nhiên, cố gắng để giọng mình không lớn quá. Anh nhìn qua vai cô, không có ai cả. “Em đang làm gì ở đây?”
“Em muốn đi chơi. Cô cười. “Thầy có rảnh không, tiến sĩ?”
“Làm thế nào mà em biết địa chỉ nhà tôi.” Anh thắc mắc.
“Không quá khó nếu ta biết làm vải thứ trên mạng.”
Wallis kìm nén cơn giận dữ đang trào dâng vì sự ngang nhiên xâm phạm vào nơi riêng tư của minh.
“Bây giờ không phải lúc, Penny,” anh đáp đơn giản.
“Thôi nào, tiến sĩ,” cô tinh nghịch mời gọi. “Ý em là, tối nay em không say. Em sẽ cư xử đúng mực.”
“Bây giờ không phải lúc, Penny,” anh nhấn mạnh lặp lại.
Như chợt hiểu ra gì đó, cô liếc nhìn vào trong, nhìn thấy mối liên hệ giữa chai rượu đã được mở để trên bàn bếp, ánh đèn mở và cả nhạc nền du dương.
Khuôn mặt cô tối sầm lại.
“Về nhà đi,” anh nhẹ nhàng nói thêm. “Chúng ta sẽ nói chuyện vào ngày mai.”
Trong khoảnh khắc đó, Wallis đã nghĩ Penny có thể bật khóc, hoặc tệ hơn là tức giận rồi làm ầm ĩ lên. Nhưng cảm ơn Chúa, cô chỉ nhanh chóng bước về phía cầu thang.
Anh quay trở lại ban công với sự rung động nặng nề vẫn còn sót lại. Brook đã dừng ăn và đang đứng tựa vào lan can, nhìn xa xăm vào màn đêm trước mặt.
“Là trợ lý của anh ở trường” anh giải thích. “Trò ấy muốn cập nhật cho anh về cuộc thử nghiệm.”
Brook quay đầu lại. “Vào giữa đêm như thế này?”
Wallis gãi đầu. “Nghe thật vớ vẩn. Anh thực sự không biết phải giải thích làm sao.”
“Cô ấy biết nơi anh sống?”
“Anh cũng ngạc nhiên mà, Brook. Anh thề, cô ấy chưa từng tới đây, và không có chuyện gì giữa anh và cô ấy cả.” Anh không thể tin được rằng mình đang nói những lời này – những lời biện hộ sáo rỗng – nhưng anh vẫn tiếp tục: “Cô ấy là trợ lý của anh, vì Chúa! Cô ta mới 21 thôi!”
“Em nghĩ là mình nên rời đi,” Brook quyết định.
“Brook, không – đợi đã! Nghe này, cô ấy thích anh. Anh biết điều đó. Cô ta cũng đã nói rõ ràng. Nhưng không có gì giữa anh với cô ấy cả! Anh thề với em, không có gì!”
Brook dừng mắt nơi anh một lúc lâu, sau đó nói một cách dịu dàng: “Được rồi, Roy, em tin anh. Em không biết chuyện gì đang diễn ra, và em không nghĩ rằng anh sẽ nói với em tất cả, nhưng em tin rằng anh không có mối quan hệ tình cảm nào với cô trợ lý này. Nhưng em vẫn không thể ở lại tối nay. Em xin lỗi.”
Cô bước qua anh và đi vào bên trong. Wallis nhíu chặt lông mày, bối rối không biết phải nói gì hay làm gì trong hoàn cảnh này.
“Brook…” Anh dè dặt gọi tên cô khi cô mở cửa để rời đi.
Cô không đáp lại. Cánh cửa đóng sập lại sau lưng.
Sau một lúc im lặng trầm ngâm, Wallis quay trở lại ban công và hoàn thành bữa tối của mình – ăn hết đĩa mì rồi tới ly rượu rum.