PHẦN KẾT
Roy Wallis thu dọn những tấm vải băng đẫm máu của Sharon trên sàn nhà tắm trong phòng thí nghiệm, ném chúng cùng với mấy ống tiêm và lọ thuốc chứa Vecuronium qua khe rãnh thoát nước mưa trên đại lộ Shattuck. Tiếp theo, anh ta đi tới thi thể của Chad, dùng tay bao lấy nó, để máu của Chad dính vào quần áo của mình.
Rồi anh báo cảnh sát.
Chỉ ít phút sau, ba xe cảnh sát và một xe cứu thương, đèn nhấp nháy, kêu inh ỏi dừng lại ngay trước cửa tòa nhà Tolman. Vài cảnh sát đứng gác để đảm bảo hiện trường. Các nhân viên y tế đến chỗ nạn nhân và xác nhận không có người nào sống sót. Viên cảnh sát cấp cao tra hỏi Wallis về những chuyện đã xảy ra. Khi Wallis từ chối đưa lời khai khi chưa có mặt của luật sư, anh bị đưa đến trại tạm giam của Cục Cảnh sát Berkeley, tiếp tục bị tra hỏi bởi vài vị thám tử, và cuối cùng là bị nhốt lại.
Sau khi lấy vân tay và chụp ảnh, Wallis nói: “Tôi có quyền được gọi một cuộc điện thoại.”
Viên cảnh sát canh gác nhún vai. “Gọi nhanh lên.”
Wallis dùng điện thoại bàn để gọi cho luật sư riêng của mình.
“Don?” Anh nói, quay lưng lại với vị cảnh sát đó. “Roy Wallis đây.”
“Roy,” Don Finke nói, giọng đầy lo lắng. “Một cuộc gọi vào giờ này không thể là tin tốt.”
“Tôi đang bị bắt,” anh vào thẳng vấn đề. “Họ đang giữ tôi tại trại tạm giam của Cục Cảnh sát Berkeley, và tôi thực sự không muốn ở đây lâu hơn cần thiết.”
“Đừng lo lắng, Roy. Không cần phải lo lắng gì cả. Tôi sẽ đưa anh ra khỏi đó nhanh thôi.”
Bởi vì không còn tòa án địa phương ở thành phố Berkeley nữa, nên giữa buổi sáng hôm sau, Wallis bị đưa tới tòa án tối cao ở Oakland với lệnh triệu tập, và trong suốt quá trình, anh khăng khăng rằng mình vô tội. Ủy viên Công tố Quận [*] , Edward Prince–một người đàn ông cau có, dữ tợn – dùng hết mọi khả năng để chống lại yêu cầu được bảo lãnh của Wallis, trong khi Don Finke tranh luận rằng Wallis là một tiến sĩ đại học có tiếng, một công dân tốt của xã hội và không hề gây nguy hiểm. Cuối cùng, sau hai mươi phút tranh cãi qua lại, vị thẩm phán tuyên bố: “Yêu cầu bảo lãnh được chấp thuận với số tiền là năm trăm đô-la.”
[*] Luật sư làm việc cho nhà nước, đại diện cho nhà nước đóng vai trò khởi tố.
Ba ngày sau, Ủy viên Công tố Quận Edward Prince đệ đơn tố cáo Tiến sĩ Wallis với năm tội danh vô ý giết người, trong khi đó, thí nghiệm về giấc ngủ đang trở thành một hiện tượng đáng chú ý ở tầm quốc tế. Dựa trên mức độ phạm tội, thí nghiệm gây ra một cuộc tàn sát với năm người thiệt mạng. Do có những cái chết tự hủy hoại bản thân và bạo lực, nó được đặt ngang hàng với vụ án giết người của gia đình Tate vào năm 1969. Thêm vào đó, Wallis đã khai rằng hung thủ – Chad Carter — đã bị chiếm hữu bởi sự điên loạn, thứ nằm bên trong bản chất của nhân loại, sự điên loạn bị kìm hãm bởi sức mạnh kì diệu của giấc ngủ – vâng, bạn đang được chứng kiến một sự việc chưa từng diễn ra trong lịch sử cận đại.
Mặc dù phần lớn mọi người đều tin rằng Wallis đang lừa bịp công chúng, nhưng điều này cũng không ngăn cản được việc tên của anh ta xuất hiện hằng ngày trên mỗi buổi phỏng vấn trực tiếp và các cuộc tọa đàm ở nước Mỹ, hoặc cụm từ “Linh Hồn Quỷ” trở thành một trong những từ khóa được tìm kiếm nhiều nhất trên mạng xã hội thế giới.
Thực vậy, việc người dân nói phiên tòa xét xử sắp tới là “phiên toà xét xử thế kỷ” cũng không phải là nói quá, và cáo buộc giết người chống lại Tiến sĩ Roy Wallis sẽ được xử vào bốn tháng sau, vào ngày 14 tháng 10 năm 2018. Phiên toà sẽ diễn ra ở Tòa thị chính San Francisco. Tòa nhà ốp đá granit, là nơi đặt Cục Cảnh sát, Nhà tù Quận Tòa án thành phố, và cho tới bây giờ còn đóng vai trò là địa điểm của văn phòng Pháp y thành phố. Phòng xử án có những bức tường bằng gỗ sồi, trần nhà dạng ô lõm và sàn lót vải sơn. Treo trên một bức tường ở phía trước căn phòng, đằng sau những hàng ghế gỗ dài là biểu tượng của tòa án, được đóng dấu bởi chính quyền liên bang và tiểu bang. Phía trước mấy hàng ghế dài là bục đứng của nhân chứng hiện tại đang trống, và mấy chiếc bàn làm việc, cũng như ghế ngồi của thư ký tòa án và phóng viên toà án ở phía sau. Phía bức tường bên trái là khu vực bàn của bồi thẩm đoàn, bao gồm mười hai người, sáu nam, sáu nữ, tất cả đều là người da trắng.
Trong ba tuần qua, họ đã kiên nhẫn lắng nghe những cáo buộc và biện giải, cũng như lời khai của hơn hai chục chuyên gia, bao gồm trưởng ban pháp y của cơ quan điều tra; các điều tra viên của phòng ban Giết người Cướp của thuộc Sở Cảnh sát San Francisco, nhiều y bác sĩ, nhà độc chất học, chuyên gia về chất gây nghiện, một giám định viên pháp y trên máy tính và một bác sĩ chuyên về nội khoa. Vào hôm nay, ngày cuối cùng của phiên xét xử, họ sẽ được nghe những lập luận cuối cùng của bên công tố và bên luật sư biện hộ cho bị cáo.
Wallis ngồi ở bàn dành cho bị cáo, phong độ, bình tĩnh và ăn mặc chỉnh tề trong bộ vest đen được thiết kế riêng, cùng chiếc cà vạt bằng lụa phù hợp. Kể từ khi cái tên của anh được nhắc đến khắp nơi, người ta thường xuyên bàn tán trên các phương tiện truyền thông về ngoại hình, phong cách - và thậm chí là cả bộ râu của anh - nhiều như số lần họ tranh cãi về việc anh có tội hay không, hay về thuyết Linh Hồn Quỷ. Nhờ đó mà anh có vô số người hâm mộ là nữ từ những quốc gia xa xôi như New Zealand cho tới Nhật Bản, họ gửi hàng ngàn bức thư cho anh mỗi tuần, kèm theo cả những bức hình gợi cảm của bản thân và những lời cầu hôn kỳ lạ. Nhiều lúc trong phiên tòa, từ đám đông người tới dự, vài phụ nữ còn huýt gió, trêu đùa với anh, khiến ban bởi thẩm phải hai lần yêu cầu yên lặng và một lần đe dọa đóng phiên tòa với công chúng trong phần còn lại của quá trình tố tụng.
Tuy nhiên, không phải ai tới dự phiên tòa cũng ủng hộ Wallis. Vài người không thể hiện sự yêu quý hay đồng cảm, mà thay vào đó là thù địch và mong đợi một phán xét thích đáng chống lại anh. Họ khinh thường tài sản và vẻ ngoài của anh, cả địa vị xã hội lẫn sự chào đón mà anh nhận được, họ không muốn gì hơn ngoài việc thấy anh lụn bại.
Đúng 9 giờ, người đại diện mặc đồng phục mời thẩm phán bước vào phiên xét xử.
Tất cả mọi người đứng dậy khi nữ thẩm phán Amanda Callahan trong chiếc áo choàng đen tuyền tiến vào phòng và ngồi xuống vị trí của mình. Sau lời mời của bà, Ủy viên Công tố Quận của thành phố – Edward Prince – tiến lên bục giữa hai bên bồi thẩm và đối mặt với thẩm phán. Ông chứng tỏ mình là một công tố viên giỏi và đầy kinh nghiệm, và theo một cách khái quát nhất, ông đưa ra những tội danh chống lại Roy Wallis. Ông tranh luận rằng Tiến sĩ Wallis là một người đàn ông tham vọng, đầy nguy hiểm, người đã đặt sự thành công của thí nghiệm về giấc ngủ lên trên hết thảy. Khi hai đối tượng tham gia thí nghiệm bắt đầu có biểu hiện đi xuống nghiêm trọng cả về tình trạng thể xác lẫn tinh thần, từ lâu trước khi cuộc thí nghiệm kết thúc, hoặc có thể coi là sự tạm dừng có thời hạn của cuộc thí nghiệm, anh ta vẫn tiếp tục tiến hành, mặc cho kết quả sức khỏe của họ có như thế nào.
Edward Prince kết thúc cáo buộc của mình bằng một diễn thuyết: “Sự kiện thảm khốc diễn ra vào bốn tháng trước sẽ được kết thúc tại đây. Vào ngày 14 tháng 6, tội ác vô nhân đạo đã diễn ra. Hôm đó, một cô gái trẻ đã giật tim mình ra khỏi lồng ngực và một chàng trai trẻ đã sát hại ba người khác một cách dã man trước khi mạng sống của chính mình bị tước đi – năm mạng người đã ra đi vĩnh viễn. Những câu hỏi mà ai ai trên thế giới này cũng đang thắc mắc là: Làm sao những điều này lại có thể diễn ra? Và ai là người phải chịu trách nhiệm? Vâng, những câu hỏi này sẽ được giải đáp ở ngay tại đây, trong chính căn phòng này, và câu trả lời sẽ phụ thuộc vào quyết định của những thành viên trong bồi thẩm đoàn.
Dựa vào những chứng cứ được đưa ra trong ba tuần vừa qua, dựa vào những gì chúng ta được nghe và được chứng kiến, câu trả lời thật rõ ràng. Bi kịch này không nên được phép diễn ra, và bị cáo, Roy Wallis, phải chịu trách nhiệm cho sự thờ ơ và sơ suất nghiêm trọng của mình về tính mạng con người.
Tất cả mọi người trong phòng xử án này đồng ý rằng Tiến sĩ Roy Wallis, với tư cách là người giám sát chính của cuộc thí nghiệm tai tiếng về giấc ngủ, phải chịu trách nhiệm về cái chết của năm nạn nhân xấu số ấy. Đây là điều không thể bàn cãi. Bị cáo tin vào điều đó. Tiểu bang cũng tin điều đó. Tính mạng của Sharon Nash đã không phải kết thúc trên sàn phòng tắm với trái tim trên chính tay mình. Brook Foxley đã không phải chết một cách từ từ và đau đớn vì ngạt thở do gãy cổ. Viên cảnh sát Roger Henn, một người chồng và cha của hai đứa con nhỏ, đã không phải chết dưới tay của Chad Carter, với nội tạng rơi ra khỏi ổ bụng.
Vậy cho nên, bản án này không phải về việc liệu Roy Wallis có phải chịu trách nhiệm cho vụ thảm sát hay không. Mà là về cách anh ta tiến hành cuộc thí nghiệm, gây ra không chỉ là sự sai sót đơn thuần, mà còn là sự thờ ơ, vô cảm với tính mạng của người khác - đây là cáo buộc của bang, xin thưa quý quan tòa, và đây cũng là sự thật.
Ta đã nghe rất nhiều lời chỉ dẫn từ thẩm phán trong suốt quá trình xét xử. Chính quyền bang xin được nhắc lại một vài trong số chúng.
Thứ nhất là lời chỉ dẫn về tính cách cho biết có cần phải cân nhắc đến tính cách của bị cáo trong việc đánh giá anh ta có tội hay không. Luật sư biện hộ chắc chắn sẽ khiến ta tin rằng Roy Wallis là một công dân ngay thẳng, một tiến sĩ đại học, một nhà khoa học đáng kính và một người đàn ông tốt toàn diện. Tuy nhiên, đừng quên các lời khai của nhân chứng nói rằng anh ta là một kẻ nghiện rượu, một kẻ lăng nhăng, một tay chơi sống trong căn hộ áp mái xa hoa vài triệu đô-la, và cũng là một kẻ điên cuồng, ảo tưởng, có tham vọng vô đáy.
Một lời chỉ dẫn nữa mà chính quyền bang muốn nhắc lại liên quan đến sự coi thường tính mạng của con người một cách vô nhân đạo. Thẩm phán đã đặt cụm vô nhân đạo trong ngoặc kép, bởi điều quan trọng là ta phải phân biệt được liệu cái chết của những nạn nhân đó có phải là kết quả đến từ sự đơn thuần do sơ suất, hay sơ suất đến mức thô bạo, bừa bãi, ngay từ ban đầu, đủ để phô ra sự vô nhân đạo trong việc coi thường mạng sống con người. Chính quyền bang xin được gợi nhắc về định nghĩa của vô nhân đạo, là thể hiện hoặc có thái độ coi thường người khác một cách vô cảm và tàn nhẫn, và điều này hoàn toàn tương đồng với sự coi thường đầy tàn nhẫn trong trường hợp này. Chính xác là 14 ngày của sự coi thường đầy tàn nhẫn.
Trong các trường hợp ngộ sát không tự nguyện đã được xét xử thành công đối với những người lái xe ô tô trong tình trạng có sử dụng ma túy hoặc rượu — hầu hết những trường hợp này đã được biết đến bởi quan tòa – các vụ giết người đều diễn ra trong một khoảnh khắc.” Ông búng tay để nhấn mạnh. “Nó chỉ mang tính thời điểm. Mặt khác, trong trường hợp của Roy Wallis, cái chết của năm nạn nhân đều không diễn ra trong chốc lát, hay khoảnh khắc nhất thời. Bị cáo đã có 14 ngày để kết thúc cuộc thí nghiệm, MƯỜI BỐN NGÀY, đó là khoảng thời gian đủ để cho hai người trẻ tuổi hoàn toàn mất đi lý trí của mình, dưới sự quan sát của chính anh ta. Luật sư bào chữa cũng sẽ khiến các bạn tin rằng Roy Wallis không hề biết trước Chad Carter hay Sharon Nash sẽ trở thành mối đe dọa tới chính bản thân họ hay với người khác. Nhưng làm thế nào mà ta có thể tin vào lời bao biện này: Một ngày trước khi vụ tàn sát diễn ra, hai người họ đã dùng chính phân của mình phủ kín cửa sổ quan sát phòng thí nghiệm – che cửa sổ bằng phân. Tôi không phải là một tiến sĩ tâm lý – nhưng cũng chẳng cần thiết – để biết rằng hai người họ cần sự giúp đỡ. Chính là sự giúp đỡ mà Tiến sĩ Wallis đây đã từ chối họ trong vòng mười bốn ngày.”
Edward Prince đi về phía bồi thẩm đoàn.
“Tất cả mọi người đều có quyền mà ta luôn coi là sự thật hiển nhiên: sự sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc. Chad Carter, Sharon Nash, Guru Rampal, Brook Foxley và Roger Henn cũng vậy, họ có quyền được sống, được trải nghiệm niềm vui, tình yêu và cả sự thất vọng đến từ cuộc sống, được già đi và rồi chết một cách thanh thản… nhưng bởi chính sự nhẫn tâm coi thường mạng sống con người của Roy Wallis, bởi những tham vọng mù quáng và bất chấp của anh ta, cuộc sống, quyền tự do và những mưu cầu hạnh phúc của họ đã bị tước đoạt.
Đừng để bị đánh lừa bởi suy nghĩ cho rằng bị cáo nên được cho qua vì thí nghiệm khoa học của anh ta đặc biệt hay cao cả, hay bởi vì anh ta đưa ra được cái nhìn mới về loài người. Ngay cả khi thuyết về Linh Hồn Quỷ của anh ta được chấp thuận, anh ta cũng không nên được bỏ qua. Hãy phán quyết Roy Wallis vì những hành động vô nhân đạo của anh ta như cách mà ta phán quyết những người bình thường khác. Nó không quan trọng nếu ta nghĩ rằng anh ta có những chủ ý tốt trong việc tiến hành thí nghiệm. Nó chỉ nên được cân nhắc khi thành lập sự trừng phạt, chứ không phải được cân nhắc liệu anh ta có tội hay vô tội.”
Edward Prince dang rộng hai tay.
“Vậy nên, như tôi đã nói, Chad, Sharon, Guru, Brook và Roger không phải chết như cách họ đã chết. Họ không nên có cái chết như vậy. Roy Wallis lẽ ra phải kết thúc cuộc thí nghiệm của mình trước khi nó chạm tới cái kết đẫm máu như vậy. Thực tế cho thấy rằng, anh ta không chỉ tiến hành thí nghiệm một cách đầy thiếu sót, mà còn tiến hành một cách đầy thờ ơ và vô trách nhiệm với tính mạng con người.
Do đó, chính quyền bang buộc tội bị cáo tội danh ngộ sát không tự nguyện dựa trên những dẫn chứng đã được nêu ở đây. Kính thưa quý quan tòa, quyết định nằm trong tay các vị. Cảm ơn.”
Bạn thậm chí có thể nghe được tiếng kim rơi trong căn phòng xét xử vì sự im lặng tuyệt đối, khi Edward Prince gầy gò quay trở về chỗ ngồi của mình sau bàn truy tố. Wallis đảo mắt nhìn các vị bồi thẩm đoàn, những gương mặt mà anh đã biết rất rõ trong ba tuần vừa rồi, giờ đây hoàn toàn lạnh lẽo và không thân thiện.
Thẩm phán Amanda Callahan điều hành phiên xét xử: “Ngài Wilks, ngài sẽ đứng ra biện hộ phải không?”
“Đúng vậy, thưa quý thẩm phán.”
Stephen Wilks, cựu thẩm phán, là một người đàn ông thấp bé nhưng đậm người với đầu hói, bộ râu quai nón lạc hậu và cặp kính nặng nề khiến tròng mắt ông như to ra sau lăng kính dầy cộp. Mặc trên mình bộ vest vải tuýt cùng giày đế bằng, ông thong dong bước lên bục diễn thuyết. Ông lật mấy trang trong đống giấy tờ của mình, sau đó ngước lên, chớp mắt, như thể được đánh thức bởi đám đông xung quanh. Thoạt nhìn, ông trông trái ngược hoàn toàn với những luật sư bào chữa chạy theo thân chủ giàu có mang trọng tội; trên thực tế, ông là một trong những luật sư đáng kính trọng nhất cả nước. Trong suốt sự nghiệp của mình, ông giữ một thành tích ấn tượng về việc chưa bao giờ thua một vụ án lớn nào, đó là lý do tại sao Wallis chọn ông lãnh đạo nhóm biện hộ của mình.
“Năm người đã chết và ai đó phải trả giá,” Stephen Wilks bắt đầu, đẩy kính cao hơn lên sống mũi. “Như đã được nghe từ các nhân chứng, và từ hầu hết các cáo buộc từ ngài Prince. Quyền được sống. Quyền được già đi. Năm người chết; ai đó phải trả giá. Roy Wallis phải trả giá. Vâng, ở một mức độ, bị cáo sẽ phải trả giá. Anh ấy sẽ trả giá trong suốt quãng đời còn lại của mình, nhưng đây không phải điều mà bản án này hướng về. Đó là về việc liệu bồi thẩm đoàn có thể thấy được những nghi ngờ hợp lý cho việc năm cái chết này là ‘kết quả đến từ sự đơn thuần do sơ suất, hay sơ suất đến mức thô bạo, bừa bãi, ngay từ ban đầu, đủ để phô ra sự vô nhân đạo trong việc coi thường mạng sống con người.
Vì vậy, chúng ta hãy cùng xem lại những luận điểm mà chính quyền bang đã đưa ra để tranh luận rằng Wallis đã hành động nhẫn tâm, coi thường tính mạng của những nạn nhân, những gì họ nghĩ rằng họ đã chứng minh được vượt lên trên những nghi ngờ thích đáng. Luận điểm chính của họ là Wallis đã không dừng cuộc thí nghiệm đủ sớm. Tuy nhiên, quý tòa đã chỉ dẫn nhiều lần rằng, việc bị cáo không kết thúc cuộc thí nghiệm sớm hơn, về bản chất, không đủ để cấu thành tội ngộ sát không tự nguyện. Nó không cho thấy Tiến sĩ Wallis đã nhẫn tâm coi thường sức khỏe của các đối tượng tham gia thí nghiệm của mình. Nhờ vào những ghi chú tỉ mỉ được ghi chép lại từ bị cáo và hai trợ lý, chúng ta có thể thấy được diễn biến từng giờ của sức khỏe tâm lý của hai đối tượng. Và, vâng, mặc dù một vài triệu chứng của họ có thể khiến bạn lo ngại, đặc biệt là khi họ sắp đạt đến mốc kết thúc của cuộc thí nghiệm, nhưng không có một báo động đỏ nào chỉ ra rằng họ đang trở thành mối nguy hiểm với chính bản thân mình, hay với người khác. Wallis không thể nào biết được giới hạn của họ. Sau cùng, anh ấy không hề tra tấn họ. Anh ấy chỉ đơn giản là để họ không ngủ. Anh ấy không hề biết toàn bộ hậu quả sau cùng – và đây cũng là mục đích chính của cuộc thí nghiệm!”
Stephen Wilks gãi đầu, và trong một khoảnh khắc, ông như thể đã lạc mất dòng suy nghĩ của mình. Nhưng sau đó, ngay khi các thành viên bồi thẩm bắt đầu nhúc nhích không thoải mái trong yên lặng, ông ta nói tiếp. “Hành vi của việc không biết, thưa quý ông, quý bà, là một hành vi không hề có chủ đích. Chúng ta không thể cố ý không biết một thứ, bởi vì khi đó, nó đã không còn là thứ mà ta không biết tới nữa rồi. Nó sẽ là thứ mà ta ngó lơ. Việc ta ngó lơ điều gì đó hoàn toàn khác với việc ta không biết về nó. Wallis không ngó lơ những báo động đỏ của hai đối tượng thí nghiệm. Anh ấy chỉ đơn giản là không biết điều gì sẽ diễn ra. Và dù hành vi không biết là một hành vi không chủ đích, nó vẫn không đạt tới tiêu chuẩn để cấu thành tội danh ngộ sát không tự nguyện, bởi nó không phải là sự thờ ở vô nhân đạo.
Giờ đây, khi sự việc đã trở nên tồi tệ hơn, ta mới nhận ra rằng những đối tượng tham gia thí nghiệm này đã trở thành mối nguy hiểm cho chính họ và những người khác, nếu – nếu – Tiến sĩ Wallis đã không làm gì vào thời điểm này, vậy thì tôi sẽ không biện hộ cho anh ta trước mặt các vị, bởi vì lúc đó anh ta chắc chắn sẽ phạm tội sơ suất hình sự. Thế nhưng, điều đó đã không diễn ra. Ngay khi Guru Rampal thông báo với Wallis rằng anh ta lo lắng về Sharon Nash, Wallis đã cố gắng để giúp cô ấy. Nhưng thật không may, vào thời điểm đó, anh ấy không thể làm gì nữa. Vì vậy, anh ta đã ngay lập tức cho dừng cuộc thí nghiệm, tắt khí ga và kiểm tra đối tượng tham gia thí nghiệm còn lại, người mà đột nhiên, không thể lý giải được, tấn công Guru Rampal. Vào lúc này, Wallis đã chạy trốn ư? Không, anh ấy không hề làm thế. Theo như lời tường thuật của chính mình, Wallis đã dũng cảm kéo Chad ra khỏi Guru, sau đó bị đánh mạnh vào đầu và ngất đi. Khi tỉnh dậy sau đó, anh ấy nhìn thấy trợ lý của mình – Guru Rampal đã chết, bạn gái của anh ấy – Brook Foxley – cũng chết, và Chad Carter đã điên cuồng tấn công Roger Henn. Lại một lần nữa, anh ấy có chạy trốn không? Không, anh ấy cũng không hề làm như vậy, và mặc dù anh ấy không thể cứu được viên cảnh sát Henn, nhưng những hành động này của anh ấy không thể diễn tả gì khác ngoài rất dũng cảm.”
Stephen Wilks đi từ bục đến trước bàn bồi thẩm đoàn và mỉm cười rụt rè với những người đàn ông và phụ nữ đang ngồi trên đó. “Xin đừng bị lung lay trước cái chết đáng tiếc của năm nạn nhân,” ông nói. “Cái chết của họ đúng là một bi kịch, nhưng không phải bi kịch nào cũng là tội ác. Hãy cho tôi vài phút đọc một vài chỉ dẫn của thẩm phán tới các vị.” Ông lôi ra một tờ giấy từ túi áo của mình. “Nếu ta thấy rằng các tình tiết có thể lý giải theo hai cách khác nhau, mà một trong hai cách đó chứng minh sự vô tội của bị cáo, ta không thể tuỳ tiện chỉ nghe theo lý giải còn lại mà phán quyết bị cáo có tội. Thay vào đó, cách lý giải có lợi cho bị cáo nên được tiếp nhận trừ khi không thể giải quyết được, trong mọi trường hợp. Chứng cứ không những phải phù hợp với định tội mà còn phải phù hợp với mọi giả thuyết hợp lý về sự vô tội.
Stephen Wilks gấp lại tờ giấy.
“Vậy nên, các vị thấy đó, kính thưa bồi thẩm đoàn,” ông tiếp tục, “hành động giữ cho hai đối tượng thí nghiệm không ngủ bằng khí ga kích thích đơn giản là chưa đủ để cấu thành tội trạng. Đúng, đã có năm người chết. Đúng, Wallis, với tư cách là giám sát chính, phải chịu trách nhiệm với những cái chết này. Anh ấy chưa bao giờ phủ nhận điều đó. Nhưng câu hỏi đặt ra ở đây là: Có phải một tội nhân, một kẻ mang trọng tội, đang đứng trước mặt các vị hay không? Nếu các vị không chắc về phán quyết này, dù chỉ một chút, thì chính quyền bang vẫn chưa chứng minh được một cách hợp lý rằng Tiến sĩ Roy Wallis có tội trong việc nhẫm tâm coi thường mạng sống của con người, và các vị phải phán xét công bằng vì anh ấy. Vì anh ấy thực sự vô tội, thưa quý ông, quý bà, vô tội với tội danh mà chính quyền bang đã đưa ra: rằng anh ấy biết Chad Carter và Sharon Nash là một mối nguy hiểm với chính bản thân họ cũng như người khác, và tiếp tục cuộc nghiên cứu, thì đó sẽ là ngộ sát không tự nguyện. Vâng, nếu là tôi, thì tôi sẽ tranh luận trường hợp này là giết người có chủ đích. Nhưng, trái lại, chính quyền bang đã không đưa ra cáo buộc này, nên cho tôi được nói rằng, mặc cho các vị nghĩ gì về cuộc thí nghiệm giấc ngủ này, hay về bản thân Tiến sĩ Wallis, thì anh ấy cũng không phải là tội phạm, và đây là lời tuyên án duy nhất mà các vị có thể tìm được. Vô tội.”
Bồi thẩm đoàn đã rời phòng xử án trong bốn giờ. Roy Wallis quan sát khi họ đồng loạt quay trở lại. Mặc dù vẫn duy trì vẻ bình tĩnh, nhưng thực chất anh đang cảm thấy nhộn nhạo trong dạ dày, như thể những con rắn đang trườn bò bên khoang bụng mình. Một phán quyết có tội, mặc dù không phải tới cuối đời, nhưng cũng đủ để hủy hoại anh. Dù chỉ năm năm trong tù cũng không thể. Anh có quá nhiều thứ phải làm!
Thẩm phán Amanda Callahan điều hành: “Xin hỏi bồi thẩm đoàn có thể đưa ra phán quyết chưa?”
“Đã có, thưa thẩm phán,” đại diện bồi thẩm đoàn giơ lên một mảnh giấy kẹp giữa ngón tay mình.
“Mời người đại diện nhận lấy phán quyết.”
Người đại diện đi tới chỗ bồi thẩm viên, nhận lấy mảnh giấy và đưa nó cho thẩm phán. Bà mở nó ra, đọc nội dung bên trong rồi ngước lên. “Bồi thẩm đoàn tuyên bố bị cáo vô tội.”
Một sự hỗn loạn diễn ra trong đám đông người tới dự. Họ đứng dậy, tất cả đều nói cùng một lúc, nhiều tiếng vỗ tay và chúc mừng, xen lẫn tiếng gào thét hay những lời tục tĩu.
Bên ngoài tòa án, Wallis dừng lại trước một dàn những máy quay đang ghi hình trực tiếp để đưa tin tức nóng hổi lên ti vi. Khi đám đông các nhà báo và phóng viên lặng xuống, anh nói vào hàng chục chiếc mic đang hướng về phía mình: “Walt Whitman từng viết rằng nỗi sợ hãi địa ngục không là gì đối với tôi. Nhưng ông ấy là Walt Whitman, nên ông ấy thể viết những gì ông ấy thích.” Wallis vuốt râu, vui đùa trên từng câu chữ của mình. “Tôi đoán,” anh tiếp tục, “rất có thể Walt ngay từ đầu đã chẳng tin có địa ngục, nên ông ấy mới ung dung nói vậy.” Anh lắc ngón tay như thể khinh miệt vị cha đẻ của lối viết tự do này. “Nhưng tôi, những người bạn đáng yêu của tôi ơi, tôi của hiện tại đã biết địa ngục có tồn tại, và hãy để tôi nói cho bạn biết – địa ngục thực sự làm tôi kinh sợ.”
Xung quanh yên lặng, chỉ nghe thấy tiếng nháy liên tục của máy ảnh.
Sau đó, tất cả mọi người tranh nhau đặt câu hỏi cùng lúc.
“Ngài sẽ tiến hành một cuộc thí nghiệm nữa về giấc ngủ trong tương lai chứ, thưa tiến sĩ.”
“Ngài có dự định công bố toàn bộ cuộc thí nghiệm của mình cho công chúng không?”
“Ngài muốn nói điều gì với những người vẫn còn hoài nghi?”
“Ngài có định gửi lời xin lỗi tới người nhà của những người đã khuất không?”
“Ngài có biết Penny Park giờ đang ở đâu không?”
“Ngài có định bán khí ga gây kích thích cho các công ty dược phẩm không?”
Bỏ qua những câu hỏi và mớ hỗn loạn xung quanh, Wallis đi theo con đường mà đội vệ sĩ của anh mở ra giữa đám đông, hướng về chiếc SUV đen đang đợi sẵn. Anh trèo vào ghế sau, đóng cửa và cau mày nhìn người tài xế ở đằng trước.
“Anh là ai?” Wallis hỏi.
“Thưa ngài, hôm nay tôi là tài xế của ngài,” người đàn ông tóc hoa râm đáp lời.
“Raoul đâu?”
“Anh ta bị bệnh.”
“Bệnh?”
“Anh ta cáo bệnh ngày hôm nay, nên tôi được giao nhiệm vụ thay anh ta.”
“Anh có biết tòa nhà căn hộ của tôi ở đâu không?”
“Tòa nhà Tháp Đồng hồ, thưa ngài. Tôi sống cách do không xa.”
Những người biểu tình đang đập vào cửa sổ và nóc ô tô, nên Wallis thúc giục: “Bắt đầu di chuyển đi.”
Tài xế đánh chiếc SUV thoát khỏi sự cản trở của đám đông. Khi đã khuất bóng người, Wallis nhận thấy sự yên tĩnh bất thường trên mấy con phố, cho tới khi đi ngang qua một quán bar đông đúc một cách kỳ lạ – vào lúc mười một giờ bốn mươi lăm phút sáng – anh mới nhận ra sự yên tĩnh này xuất phát từ mình. Cả thành phố — có khi cả đất nước này, hoặc hơn cả thế — đã dừng làm việc, bởi tất cả mọi người đều tụ lại ở phòng khách, văn phòng, chỗ làm hay chỗ vui chơi, để đón nhận tin tức phát sóng trực tiếp trên truyền hình và điện thoại khi phán quyết của anh được tuyên bố.
Wallis tìm kiếm tên mình trên mạng bằng điện thoại và đọc tiêu đề trên hàng tá những trang báo:
Quan tòa đã phủ quyết tội danh ngộ sát không tự nguyện của Tiến sĩ Roy Wallis
Cả đất nước đang ngóng đợi phán quyết cho vị chuyên gia về giấc ngủ
Không công bằng!
Vô tội!
Tin tức nóng hổi từ tòa án: Wallis được “phóng thích”.
Vị Tiến sĩ Linh Hồn Quỷ được tự do!
Khi Wallis lướt qua tiêu đề của tờ New York Times, nụ cười của anh biến thành một cái cau mày. Nhà báo này rõ ràng là có thành kiến với anh, bởi bài báo của anh ta hoàn toàn mang tính lên án và châm chọc. Anh ta gọi anh là kẻ giết người thoát khỏi sự trừng phạt của công lý, miệt thị học thuyết Linh Hồn Quỷ là “một trò hề phi lý của một kẻ điên cuồng ảo tưởng”.
Nhíu chặt lông mày, Wallis nhét điện thoại vào túi. Anh không nên cảm thấy bất ngờ trước vài ý kiến trái chiều. Nhiều tờ báo cũng đã công khai chỉ trích anh trong suốt quãng thời gian xét xử, họ quá nông cạn và thiếu hiểu biết – để tin tưởng vào những bằng chứng mà anh đã công bố.
Để xem ai mới là người cười cuối cùng, lũ thiển cận, Wallis nghĩ thầm, sau đó bắt đầu suy tính về cuộc thí nghiệm giấc ngủ thứ hai, mà anh dự tính sẽ phát trực tiếp trước toàn bộ công chúng. Hãy để họ tận mắt chứng kiến loài người là gì và sẽ trở thành gì nếu giấc ngủ bị lấy đi và cảnh cổng địa ngục mở rộng ngay trước mắt.
Wallis quá chìm đắm trong suy nghĩ của mình đến mức anh không nhận ra rằng đã đến tòa nhà Tháp Đồng hồ, cho đến khi đám phóng viên và cánh nhà báo tụ lại xung quanh xe, máy quay phim và micro sẵn sàng.
“Lái gần về phía cổng chính nhất có thể đi,” anh gắn giọng.
“Vâng, thưa ngài,” người tài xế đáp.
Di chuyển thêm một chút qua đám đông kích động, chiếc SUV cuối cùng cũng dừng lại ngay trước cổng chính của tòa nhà. Ngay khi Wallis bước chân ra khỏi xe, những chiếc mic đã chĩa thẳng vào mặt anh, mọi người la hét, liên tục đưa ra những câu hỏi.
Mặc kệ đám người đó, anh nhanh chóng bước vào tòa nhà, đóng chặt cánh cửa kính sau lưng để không một tên khốn nào có thể theo anh vào bên trong.
Vuốt thẳng áo khoác và chiếc cà vạt, anh tự quan sát hình ảnh phản chiếu của mình trong cánh cửa thang máy bằng thép, thỏa mãn với ngoại hình hiện tại.
Khi cửa thang máy mở ra, anh đi thẳng lên đỉnh toà nhà và bước vào căn hộ xa hoa của mình. Việc đầu tiên anh làm là bật kênh CNN trên chiếc ti vi lớn trong phòng khách. Bản tin vẫn đang phát sóng những tin tức về Wallis và cuộc thí nghiệm giấc ngủ của anh, anh bước đến quầy bar và rót cho mình một ly rượu rum. Anh theo dõi bản tin, nhưng khi một tên tóc trắng ngu ngốc đang hạ thấp thành quả nghiên cứu của mình, anh quyết định đi đến ban công để hút thuốc.
Anh sững người khi nhận thấy phần kính trên cửa sổ ban công đã bị vỡ.
“Tao làm đấy,” một giọng nam cất lên từ phía sau.
Wallis quay lại khi một người đàn ông xuất hiện từ phía căn phòng nối với tòa tháp. Với mái tóc đen vuốt ngược và khuôn mặt hốc hác, hắn ta chẳng khác nào một tên nghiện. Hắn mặc quần jean xanh và khoác áo da màu đen bên ngoài chiếc sơ mi vải bò nhạt màu hơn chiếc quần. Hắn gầy gò, ốm nhom, khiến phần xương cổ sau gáy lồi hẳn lên như mấy nút thắt của sợi dây thừng.
“Anh là thằng quái quỷ nào vậy?” Wallis cáu kỉnh, giọng anh hùng hổ và không hề sợ hãi mặc dù nhịp tim tăng vọt, còn suy nghĩ thì trống rỗng. Không ai có thể bình tĩnh khi thấy một người lạ trong nhà – đặc biệt là khi người lạ đó còn mang theo vũ khí, trong tay phải hắn ta là một cây gậy bóng chày.
“Bill,” gã lạ mặt đáp lời anh. “Tao tên là Bill.”
“Anh đang làm gì trong nhà tôi, Bill?”
“Tao tới để giết mày, Roy.”
Cổ họng Wallis nghẹn lại. Anh nuốt xuống một cách khó nhọc. “Tại sao chứ?”
“À, để tao giới thiệu bản thân kỹ hơn nhé, Roy. Tao là Bill - Bill Foxley.”
Đôi mắt của Wallis mở to, cảm giác trống rỗng trong anh tăng lên hàng chục lần.
“Nghe này,” anh nói, giơ hai tay lên. “Tôi không giết Brook. Đó là Chad Carter.”
“Tao không quan tâm là mày đã vặn cổ chị gái tao, hay là tên bệnh nhân điên khùng kia. Thực tế là chị ấy đã chết, và chị ấy sẽ không chết nếu không vì mày và thí nghiệm vớ vẩn đó…”
Wallis ném thẳng ly rượu vào Bill và nhanh chân chạy ra cửa chính. Anh nghe thấy hắn đuổi phía sau, biết rằng không kịp mở cửa trước khi bị hắn ta đập cây gậy bóng chày vào đầu, nên anh dừng lại ngay giữa đường.
Chặn được cú đánh bằng cả hai tay, Wallis đấm mạnh vào quai hàm Bill, khiến hắn ta loạng choạng lùi về sau. Dù vậy, anh biết mình không thể thắng nếu như không có vũ khí. Anh hướng về căn phòng tới tòa tháp, định chạy xuống tầng một, nơi anh có thể lấy mấy cái gậy chỗ bàn bi-a – nhưng anh ngay lập tức đối mặt với kẻ tấn công thứ hai.
Anh ngay lập tức biết đó là anh trai của Bill Foxley — bởi các đường nét tương đồng trên gương mặt và mái tóc quăn – nhưng ngay khi vừa nhận ra điều đó, người đàn ông đã quật một gậy về phía anh
Cây gậy gỗ đập thẳng vào trán Wallis. Sự đau đớn bùng nổ phía sau con mắt trong một thứ ánh sáng hỗn loạn. Anh bất tỉnh trước khi ngã xuống sàn nhà.
Wallis tỉnh dậy trong cơn đau buốt xuyên thẳng vào não, Mặc cho làn sương trắng nhấn chìm suy nghĩ và tầm mắt, anh vẫn nhận thức được mình đang ngồi trên ghế, tay bị trói chặt bởi dây thừng phía sau lưng.
Chớp đôi mắt cay sè, anh thấy Bill đang đi lại trước mắt mình, ở trong bếp, với một ly whiskey trên tay.
Bill phát hiện anh đã tỉnh lại nên lên tiếng: “Đúng thời điểm đấy.”
“Tôi có tiền,” Wallis lầm bầm, suy nghĩ vẫn còn mơ hồ nhưng tràn ngập sợ hãi. “Nhìn này. Tôi có rất nhiều tiền. Anh cần bao nhiêu?”
“Tiền?” Bill cười điên dại. “Tao không cần tiền của mày, thằng khốn. Tao muốn chị tao trở lại. Nhưng bởi vì mày không thể làm điều đó, cho nên tao muốn báo thù.”
Wallis biết rằng Bill không thể bị mua chuộc; người đàn ông này sẽ giết anh.
“Làm ơn!” Anh nói, cố gắng giãy giụa, hòng thoát khỏi dây trói. “Cái chết của Brook không phải lỗi của tôi. Tôi vừa được minh oan…”
Một đôi tay vòng ra từ phía sau đầu anh.
Người anh trai còn lại.
Bill chậm rãi gật đầu, và trước khi Wallis kịp kháng cự, đầu anh đã bị bẻ ngoặt sang trái. Anh đổ người về phía trước trên ghế, sợi dây thừng quanh cổ tay giúp anh không bị ngã đổ xuống mặt sàn. Hơi thở anh bắt đầu nặng nề, khó khăn hơn. Anh biết cột sống cổ trên của mình đã bị gãy, và cái chết đang đến gần từ sự ngạt thở, như cách mà Brook đã chết. Ngay cả khi tình huống trớ trêu chết chóc này diễn ra, anh vẫn suy nghĩ với sự giận dữ phẫn nộ: Các người không thể làm thế với tôi! Tôi là Tiến sĩ Roy Wallis! Tôi bây giờ rất nổi tiếng !
Điều cuối cùng mà vị tiến sĩ nổi tiếng Roy Wallis nghe được trong cuộc đời mình là giọng nói giả dối của em trai của Brook: “Ngủ ngon nhé, tiến sĩ! Chúc ngài có một giấc mộng thật đẹp!”