← Quay lại trang sách

NGÀY THỨ MƯỜI BỐN

Chủ nhật, ngày 10 tháng 6 năm 2018

❖ ❖ ❖

Roy Wallis rời toà Tolman lúc 7 giờ sáng để đi mua một cặp nệm hơi, gối, túi ngủ và một số vật dụng cần thiết mà anh và Guru cần trong những ngày tới. Anh hài lòng với quyết định kéo chàng trai trẻ Ấn Độ vào cuộc của mình. Guru không chỉ trút bỏ gánh nặng vô hình luôn đè nén trên vai anh, mà còn được giải tỏa khi anh cuối cùng cũng được thực sự chia sẻ mục đích chính của cuộc thi nghiệm ngủ, và cả giả thuyết mà anh đã dồn toàn lực nghiên cứu trong suốt bao năm qua.

Trên đường đi bộ đến xe của mình, Wallis tràn đầy sức sống. Mọi thứ ngày hôm nay thật tươi mới và rực rỡ: bầu trời bình minh đỏ sậm như san hô; những tia nắng ấm áp nhảy nhót khắp nơi khi mặt trời tỉnh giấc; mùi hương của cây cỏ, và bên dưới rải rác những khóm đinh hương và hạt nhục đậu khấu, chúng chắc chắn là loại thuốc diệt cỏ hữu cơ mà trường học trồng để ngăn cỏ dại mọc lấn lối đi.

Mình đã đến rất, rất gần rồi, anh phấn khởi. Một ngày nữa thôi, hoặc hai ngày nữa, giả thuyết của mình sẽ được chứng minh.

Và nếu nó đúng… chà, những suy luận từ đó hẳn sẽ không tầm thường. Qua một đêm, Roy Wallis sẽ trở thành cái tên nhà nhà biết tới, được nhắc đến ngang hàng với Newton, Einstein, Tesla, Galileo, Aristole.

Ngay lúc này nghe có chút viển vông, nhưng anh sẽ làm được.

Anh sẽ tỏa sáng, sẽ lên tới đỉnh cao vì anh được sinh ra để trở thành như vậy.

Thanh âm của Tiến sĩ Wallis vẫn vang vọng trong tâm trí Guru:

Tất cả chúng ta đều hỗn loạn theo một cách có trật tự.

Guru rùng mình.

Anh có tin giả thuyết dị thường này không? Có thực sự hoàn toàn tin tưởng không?

Nếu ai đó khác không phải Tiến sĩ Wallis nói với anh điều này, anh sẽ không ngần ngại trả lời rằng “Không”. Nhưng tiến sĩ là một trong những chuyên gia hàng đầu về khoa học giấc ngủ. Ông ấy biết mình đang nói gì.

Hơn nữa, Guru đã tận mắt chứng kiến những biến đổi của Chad và Sharon. Họ đều trở nên điên loạn ngay trước mắt anh.

Tất cả chúng ta đều hỗn loạn theo một cách có trật tự.

Guru không phải là người theo thuyết tâm linh. Khi băn khoăn về sự kỳ ảo, vô tận của vũ trụ, sự huyền diệu của tạo hóa và những bí ẩn của tâm thức, anh không tìm tới những lý giải từ sức mạnh siêu nhiên. Anh chỉ tin vào thế giới vật chất, có thể hiểu được thông qua lý luận logic của khoa học.

Vậy nên, ngay cả khi tin vào giả thuyết khác thường này của Tiến sĩ Wallis – và anh cho rằng mình thực sự tin – thì anh cũng không nhất thiết phải đồng tình với tiến sĩ về miêu tả của sự hỗn loạn như một thể dạng của “ác quỷ“. Tuy nhiên, dù nó là gì đi chăng nữa thì những sự hỗn loạn này rõ ràng không phải là một điều tốt.

Nó tối tăm, vặn vẹo và đầy nguy hiểm.

Chỉ cần nhìn vào những gì nó đã làm với hai người Úc kia.

Cảm giác tội lỗi và hổ thẹn xâm chiếm Guru khi nghĩ đến việc Chad và Sharon đánh mất lý trí của mình. Khi cuộc thí nghiệm này kết thúc, họ sẽ được đưa đến bệnh viện tâm thần, nơi họ sẽ dành những năm tháng còn lại của đời mình trong những chiếc áo trói tay [*] . Hình ảnh này còn khủng khiếp hơn khi Guru đối chiếu nó với hình ảnh hai vị khách du lịch người Úc luôn tươi cười, khỏe mạnh và thân thiện mà anh gặp hai tuần trước đó. Đặc biệt là Sharon, cô rất cởi mở với anh, tràn ngập trí tò mò, luôn luôn mỉm cười và đặt cho anh những câu hỏi.

Còn bây giờ hãy nhìn cô ấy đi… Những vết rạch, sự điên dại như mang đầy thù hận.

Tuy nhiên, không thể cứu vãn được nữa. Tâm trí của cô đã bị hủy hoại mất rồi. Và không có nút tua lại thời gian.

Nếu Wallis và Guru bỏ cuộc ở đây, thì sự hy sinh của Chad và Sharon sẽ trở thành vô nghĩa.

Vì vậy, tiến sĩ nói đúng. Chỉ có một cách duy nhất mà họ có thể làm.

Họ phải ở lại và kết thúc những gì chính họ đã bắt đầu.

[*] Loại áo dành cho người tâm thần, ống tay dài vượt quá đầu ngón tay có thể buộc lại để hạn chế bệnh nhân gây hại cho bản thân hoặc người khác.

Sau khi cho toàn bộ những đồ mua được từ siêu thị Target ở phía Tây Oakland vào chiếc cốp nhỏ nhắn của xe Audi, Wallis trượt vào sau tay lái, cắm chìa khóa vào ổ điện… nhưng không khởi động xe. Ham muốn tình dục trong anh bỗng nhiên trào lên, thiêu đốt tâm trí khiến anh không thể nghĩ đến điều gì khác. Đã hơn một tuần kể từ khi anh làm tình với Brook, và sau đó là toàn cảnh Sharon trần trụi trước mắt anh, những ham muốn giãy giụa thoát ra và anh biết nó sẽ nhanh chóng ảnh hưởng đến chất lượng công việc và khả năng tập trung của mình.

Wallis không thích thuật ngữ “người nghiện tình dục”. Nó nghe thật dơ bẩn và không phù hợp với một người có địa vị xã hội như anh. Ngay cả tên khoa học “rối loạn ham muốn tình dục quá độ” cũng không khá hơn là mấy. Song, Wallis không thể phủ nhận rằng mình bị ám ảnh bởi tình dục. Anh không có ham muốn nặng như một số người, nhưng anh nghĩ về nó – và tham gia vào nó – nhiều hơn người bình thường.

Cơn nghiện bắt đầu khi anh là một chàng thanh niên 22 tuổi, ít lâu sau khi cha mẹ anh bị sát hại ở Bahamas. Anh khám phá ra rằng tình dục giúp anh xoa dịu nỗi đau mất mát người thân của mình. Lúc đầu, anh chỉ trả tiền cho những cuộc vui của mình một hoặc hai lần một tuần, nhưng không lâu sau đó anh đã chi những khoản tiền lớn vào mỗi đêm ở mấy câu lạc bộ thoát y. Bước tiếp theo trong những ảo tưởng truy tìm khoái lạc là những đêm ở câu lạc bộ mại dâm địa phương. Rồi khi Brandy bước vào cuộc đời anh những năm sau đó, anh vẫn dành hầu hết các đêm của mình không phải với cô thì cũng là với những người đàn bà khác. Những khoái cảm của mọi thứ trước khi làm tình – sự ve vãn, những cuộc nói chuyện, uống rượu, nhảy nhót và cả những suy nghĩ như chúng ta sẽ làm hay không làm? — đều kích thích anh và trở thành một phần quan trọng trong những cuộc vui. Làm tình tập thể, những bữa tiệc bạo dâm, múa cột, thoát y, anh đã tham dự hết – và vẫn luôn luôn tìm kiếm nhiều cách chơi đùa kích động hơn trong nhục dục. Brandy tất nhiên không biết về cuộc sống hai mặt này của anh. Anh cho rằng thật không công bằng khi buộc cô mắc kẹt trong một mối quan hệ không có tương lai. Cũng bởi, không quan trọng rằng anh thích con người cô bao nhiêu, anh vẫn sẽ luôn tách biệt những giá trị cảm xúc của mình với các mối quan hệ ngoài luồng. Cô mang lại cho anh cảm giác được thuộc về một ai đó, được nuôi dưỡng về mặt tinh thần, điều mà anh vô cùng khao khát; cô khiến anh cảm thấy được cần tới, được mong chờ, điều mà anh luôn mong mỏi, nhưng bất chấp tất cả những điều này… nó chỉ rặt một sự thân mật giả tạo. Anh có một lỗ hỗng trong tim, và nó cần phải được lấp kín, nhưng chỉ một người phụ nữ thì không đủ để làm điều đó.

Bi kịch này không may lặp lại với Brook. Anh thực sự thích những khoảnh khắc ở bên cô, anh thích cách cô quan tâm mình, sự yên bình mà cô mang đến, nhưng một phần trong anh vẫn luôn sẵn sàng để bước tiếp khi phải gạt cô ra khỏi cuộc đời mình.

Loại bỏ những suy nghĩ này sang một bên, Wallis lái xe tới khu nhà thổ mở 24/7 ở Khu Tài chính của Oakland. Nơi này không phải là loại nhà thổ nghèo nàn, tàn tạ như mấy căn phòng mát-xa tình dục mà bạn có thể tìm thấy ở khắp mọi nơi. Trái lại, nơi đây là một cơ sở yêu cầu thư mời đặc biệt, chỉ dành cho những vị khách VIP nằm trong danh sách.

Nằm giữa ngân hàng và tiệm làm móng, nhà thổ này được thiết kế tương tự như một khách sạn cổ của châu Âu, và vì mục đích thuế, trên thực tế nó còn rộng gấp đôi như một khách sạn thời thượng lưu trú ngắn ngày. Wallis bước qua cửa chính vào sảnh chờ có ánh đèn mờ ảo, tràn ngập cây cỏ, một nhân viên lễ tân mỉm cười chào đón anh.

“Chào buổi sáng,” cô nói. “Quý khách đang muốn đặt phòng cho một đêm phải không ạ?”

“Không, không phải,” anh đáp.

“Ngài đã từng tới đây chưa?”

“Rồi.”

“Vậy tôi có thể biết tên của ngài được không?”

Anh trả lời, sau đó thấy nhân viên lễ tân nhập tên mình vào hệ thống máy tính, rồi nói: “Rất vui được gặp lại ngài, ngài Wallis. Xin mời đi theo tôi.”

Cô dẫn anh đến một phòng chờ riêng biệt, được thiết kế như một quán bar thanh lịch dành cho đàn ông dưới thời nữ hoàng Victoria. Ở đây có nhiều cây hơn, trên tường treo đầy những bức chân dung trừu tượng hình phụ nữ khỏa thân với tông màu trầm. Vài phút sau, người chủ của nhà thổ, người mà Wallis nhận ra, xuất hiện cùng với ba người phụ nữ khác trong những bộ trang phục thiếu vải nhưng vẫn tao nhã.

“Xin chào, Roy,” bà ta lên tiếng, bắt tay với anh. Không giống như gái mại dâm, bà ta mặc một bộ quần ảo bình thường và đi đôi giày thể thao dễ thương. “Anh thế nào rồi, anh bạn?”

“Tôi vẫn ổn, Janet.”

“Ai trong số những cô gái đáng yêu này anh muốn chọn để bầu bạn với mình vào sáng nay? Nếu anh muốn dành thêm chút thời gian riêng tư để trò chuyện với họ…”

“Không phải hôm nay,” anh xen ngang.

“Được rồi. Các cô gái?”

Họ vâng lời rời đi một cách ngoan ngoãn.

“Vậy sẽ là ai, Roy?” Janet hỏi.

Trước đây Wallis đã từng mua vui với một cô người châu Phi, còn cô người châu Á thì có vẻ hơi mập mạp so với sở thích của mình, nên anh chọn phụ nữ Bắc Âu.

“Rất tốt,” Janet đáp. “Cô ấy chỉ mới tới được hơn một tháng, nhưng ai cũng thích cô ấy. Cô ấy đã trở thành thành viên chính thức của gia đình chúng tôi. Tiền mặt hay thẻ.”

Wallis dùng thẻ tín dụng để thanh toán cho dịch vụ trong ba mươi phút. Người chủ đặt phần tiền trả cho cô gái trẻ vào một sổ kẹp như loại mà các nhà hàng hay dùng để kẹp hóa đơn, đưa nó cho Wallis, sau đó nhấc điện thoại lên. “Vivian, cưng? Ba mươi phút với quý ngài Roy.” Bà ta cúp máy và quay sang với anh: “Chúc ngài có một khoảng thời gian vui vẻ, và làm ơn hãy quay lại đúng giờ.”

Bà ta rời khỏi phòng chờ, và cô gái người Bắc Âu xuất hiện rất nhanh sau đó.

“Xin chào!” Cô tươi cười nói. “Tôi tin rằng ngài có gì đó cho tôi.”

Wallis đưa cho cô nàng sổ kẹp, và cô dẫn anh đi sâu hơn vào trong căn nhà, kiến trúc bên trong nhanh chóng chuyển đổi uyển chuyển từ phong cách thời Victoria sang Hy Lạp cổ. Phòng của cô có bốn cây cột ở bốn góc, một bể tắm nước nóng và một bức tượng nữ thần tình yêu Venus.

“Phòng tắm ở ngay đây,” cô nói, chỉ tay về cánh cửa dẫn tới phòng tắm lát đá cẩm thạch. “Em sẽ quay trở lại ngay.”

Wallis tắm nước nóng và trở lại phòng ngủ với độc một chiếc khăn tắm màu trắng quấn quanh eo.

Vivian cầm một chiếc hộp trên tay và đang sắp xếp gọn gàng các loại bao cao su, đồ chơi tình dục và dầu bôi trơn trên một chiếc bàn nhỏ.

“Anh đã tới đây bao giờ chưa?” Cô hỏi, mỉm cười với Roy.

“Rồi,” anh đáp, bắt đầu cuộc trò chuyện. “Janet nói em mới tới.”

Cô gật đầu. “Đây là tháng đầu tiên của em… trong ngành.”

Wallis đoán tuổi cô trong khoảng đầu ba mươi, có nghĩa là khá trễ trong ngành phục vụ thể xác này.

“Em từng làm trong ngành y học thể thao,” cô chia sẻ.

“Điều gì khiến em thay đổi ngành nghề của mình?”

“Tiền.”

Anh gật gù.

“Còn anh làm nghề gì, Roy?”

“Anh nghiên cứu tâm lý học.”

“Là vậy sao? Anh có biết Lisa không?”

“Anh không nghĩ vậy.”

“Cô ấy đã làm việc ở đây khoảng một năm nay. Cô ấy từng là một nhà tâm lý trị liệu được cấp phép. Có lần cô ấy nói với em rằng cô ấy cảm thấy ở đây mình còn giúp được nhiều hơn khi còn là một bác sĩ tâm lý.

“Anh có thể hiểu được,” anh đáp, liếc nhìn chiếc đồng hồ đeo tay của mình. “Để tiết kiệm thời gian, anh nghĩ chúng ta nên bỏ qua những câu hỏi rườm rà, bởi vì anh có công việc quan trọng phải đi.”

Wallis quay trở lại phòng quan sát dưới tầng hầm lúc 9 giờ 15 sáng.

“Họ có tốt hơn không?” Anh hỏi Guru, đi thẳng tới khoảng trống nhỏ trên cửa sổ quan sát và nhìn toàn cảnh căn phòng thí nghiệm. Chad vẫn ngồi đúng góc tường mà anh ta đã ngồi trước đó, chỉ là bây giờ anh ta đang ngồi đối mặt với nó, lưng quay về phía cửa sổ. Sharon đang nằm nghiêng trên giường, trong tư thế cuộn tròn như bào thai.

Guru gật đầu. “Họ hầu như không di chuyển gì từ lúc thầy đi.”

“Tốt,” Wallis nói, thầm biết ơn vì đã không bỏ lỡ điều gì. “Bây giờ em hãy ra ngoài với thầy một chút.” Trên hành lang đặt hai túi đồ lớn, anh nói với chàng trai người Ấn Độ: “Hãy lấy một túi cho mình, sau đó chọn một căn phòng để dọn đồ vào.”

Guru cầm lấy một cái túi và hỏi: “Thầy muốn dùng phòng nào, tiến sĩ?”

“Không quan trọng với thầy.” Anh nhướng mày về phía căn phòng liền kề với phòng thí nghiệm. “Căn này là được rồi.”

“Vậy em sẽ chọn phòng hướng này.” Guru đi dọc hành lang, thò đầu vào bên trong quét qua một lượt từng căn phòng rồi dừng lại ở căn phòng thứ tư. “Em thích căn này.”

Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng Wallis. Guru chọn đúng căn phòng mà anh từng đặt thi thể Penny.

“Vậy hãy xếp đồ ra,” anh nói với một nụ cười gượng gạo. “Tấm nệm hơi có bơm đi kèm, nhưng cứ gọi thầy nếu em cần giúp đỡ.”

Wallis cũng sắp xếp đồ đạc và bơm nệm hơi của mình, đặt túi ngủ lên trên – và nhìn chằm chằm vào chiếc giường một cách khao khát. Anh đã không ngủ cả đêm, và hai người Úc kia bây giờ cũng không làm gì nhiều. Liệu anh có nên chợp mắt một lúc…

Brook không có nhiều dự định cho ngày nghỉ. Cô bắt đầu ngày mới bằng một bữa sáng tự làm, sau đó đi bộ bốn mươi lăm phút dọc theo bờ vịnh. Vào cuối chuyến đi, cô thường ghé vào thư viện gần đó để mượn vài cuốn sách mà người thủ thư giới thiệu. Về tới nhà sẽ làm một bữa trưa đơn giản, sau đó làm việc nhà (giặt giũ, dọn dẹp, hút bể phốt nếu đầy), rồi… chuẩn bị bữa tối, chỉ với chừng ấy công việc cũng ngốn nguyên ngày của cô.

Hôm nay Brook đã dành cả buổi sáng để đi bộ quanh bến du thuyền, ăn uống và tưới cây, còn bây giờ thì cô đang ở trong bếp, làm món trứng nhồi… và nghĩ về Roy.

Trên thực tế, cô không thể ngừng nghĩ về người đàn ông này và thí nghiệm giấc ngủ của anh kể từ khi cô quay trở lại từ trường đại học vào đêm hôm trước. Việc hai đối tượng trẻ tuổi tham gia thí nghiệm đã trét phân lên mặt kính không chỉ kinh tởm mà còn rất đáng lo ngại. Họ rõ ràng đang ở trong trạng thái không tỉnh táo.

Roy rõ ràng đã rất sửng sốt trước những gì họ làm, nhưng anh mau chóng gạt nó sang một bên như thể điều đó không đáng quan tâm.

Tại sao nhỉ?

Có phải anh đã hạ thấp sự nguy hại đến từ hành vi của hai người họ để không khiến cô lo lắng, hay là anh đang mong đợi như vậy từ họ? Phát điên có phải là một hệ lụy từ việc thức trắng trong một khoảng thời gian dài? Và nếu vậy, thí nghiệm ngủ này của Roy có thực sự được cấp phép không? Bởi vì thật khó để tin rằng bất kỳ hội đồng xét duyệt nào lại phê chuẩn cho một thí nghiệm mà những đối tượng tham gia thử nghiệm phát điên.

Tất nhiên, đây chắc chắn không phải là thí nghiệm đầu tiên liên qua đến các đối tượng thử nghiệm là con người vượt qua ranh giới cho phép về mặt đạo đức. Brook, một người ham mê đọc sách, có thể rành mạch kể ra một vài ví dụ tương tự. Bác sĩ sáng chế ra vắc-xin chữa bệnh đậu mùa đã dùng trẻ em để phát triển nghiên cứu của mình. Dự án MKULtra, một nghiên cứu do CIA tài trợ, đã tiêm cho công dân Mỹ và Canada thuốc gây ảo giác LSD và những loại thuốc kích thích trí não khác trong nỗ lực phát triển các chất hóa học có thể sử dụng trong các hoạt động bí mật. Những bác sĩ ở Đại học California đã sử dụng các kỹ thuật vô nhân đạo để nghiên cứu huyết áp và dòng chảy của máu ở trẻ sơ sinh khi mới một ngày tuổi. Quân đội hoàng gia Nhật Bản đã tiến hành thí nghiệm bí mật về sinh hóa học cho chiến tranh, trong đó những nhà khoa học loại bỏ nội tạng và cắt cụt tứ chi của các tù binh Trung Quốc và Nga để nghiên cứu mức độ mất máu. Một đội quân Nam Phi và một nhà tâm lý học đã tin rằng phương pháp sốc điện có thể chữa khỏi bệnh đồng tính. Một bác sĩ phẫu thuật chính ở Nhà tù bang San Quentin đã tiến hành một cuộc cấy ghép tinh hoàn cho các tù nhân đang sống bằng cách sử dụng bộ phận sinh dục của những tù nhân đã bị hành quyết, và có một vài trường hợp còn là của dê và heo rừng. Quân đội Hoa Kỳ đã từng thả hàng triệu con muỗi gây bệnh vào Georgia và Florida để quan sát xem loài côn trùng này có thể lây lan bệnh sốt vàng da và sốt xuất huyết hay không. Và tất nhiên, mọi thứ được phơi bày trong các phiên tòa ở Nuremberg liên quan đến các thí nghiệm của Đức Quốc xã trên người Do Thái, tù binh, người Romani và các nhóm người bị đàn áp khác.

Brook lắc đầu rũ bỏ những suy nghĩ của mình khi cắt đôi những quả trứng. Thật nực cười khi so sánh cuộc thí nghiệm của Roy với Quân đội hoàng gia Nhật Bản hay Đức Quốc xã. Anh sẽ không nhúng tay vào những tội ác vô nhân đạo như vậy; anh chỉ đơn thuần là giữ hai đối tượng tham gia thí nghiệm không ngủ trong một khoảng thời gian với khí ga bí ẩn đó của mình.

Hơn nữa, cô là ai cơ chứ, một nữ bồi bàn, sao có thể nghi vấn trưởng khoa Tâm lý học của Đại học Berkeley? Roy nắm rõ những luật và quy định về công việc của mình hơn ai hết. Anh sẽ không phá vỡ chúng. Cô đơn giản là phải tin vào anh.

Brook tập trung sự chú ý của mình trở lại việc nấu nướng. Cô lấy lòng đỏ từ những quả trứng đã được luộc chín ra bát và trộn chúng với xốt Mayonnaise, mù tạt, giấm táo, muối và tiêu. Cô đánh hỗn hợp này cho đến khi thành dạng kem sệt sau đó múc từng thìa, đổ vào lòng trắng đã được cắt đôi lúc nãy. Sau cùng, cô cất những phần trứng đã hoàn thành này vào tủ lạnh, pha cho mình một tách trà, rồi bước ra hiên ở phía trước căn nhà nổi, ngồi xuống, nhìn ngắm những đám mây đen đang hằm hè mang mưa và lắng nghe những tiếng lộp độp khi mưa bắt đầu rơi xuống mái, nhưng tâm trí cô ở một nơi khác xa xôi.

Cô lại nghĩ về Roy.

Anh nói với cô rằng mình đã đuổi việc cô trợ lý đó. Có thật như vậy không? Có phải cô ấy bị anh đuổi đi hay thực tế là đã bỏ việc? Có thể do cô ấy phản đối con đường mà thí nghiệm đang hướng tới?

Ai quan tâm chứ, Brook? Chuyện gì xảy ra với mày vậy?

Cô không biết. Cô chỉ đơn thuần là cảm thấy có thứ gì đó cứ… sai sai.

Dù gì thì Roy cũng đang làm gấp đôi số giờ làm việc. Có nghĩa là anh sẽ dành mười sáu tiếng mỗi ngày dưới căn hầm đó.

Có lẽ sẽ rất buồn chán.

Và vô cùng cô đơn.

Brook nhấp một ngụm trà. Một đám mây lớn trôi qua, khỏa lấp ánh mặt trời, giấu đi những tia sáng le lói.

Mình nên chuẩn bị bữa tối cho anh ấy, cô thầm nghĩ. Sau đó mang tới vào chiều nay.

Anh chắc hẳn sẽ rất cảm kích vì món ăn và sự bầu bạn của cô.

Và cô sẽ có thể nhìn kỹ hơn thí nghiệm này của anh ấy.

Roy Wallis choàng tỉnh. Không gian xung quanh tối tăm và yên tĩnh. Nhịp tim anh đập liên hồi trong nỗi sợ hãi còn vương lại sau cơn mơ mà chính anh cũng không nhớ nổi. Đang định bước chân xuống giường để đi tới phòng quan sát thì anh bỗng cảm thấy ngứa ngứa ở sau đầu. Anh cau mày, đưa tay về phía sau để gãi – và phát hiện ra một cục nhỏ lồi lên ở ngay phần trũng giữa xương chẩm và cột sống cổ. Anh dùng các ngón tay sờ nắn. Phần lồi lên khá cứng và đặc. Anh lo lắng tiếp tục tác động lực lên phần dị thường này, cho đến khi cảm giác có máu chảy ra từ đầu ngón tay. Anh biết mình không nên làm như vậy, nhưng anh không thể dừng lại.

Khi phần da chỗ đó lật lên, anh nhận ra thứ lồi lên từ dưới da ấy được làm bằng sắt.

Một khóa kéo, Wallis suy đoán.

Anh nắm chặt khóa bằng ngón trỏ và ngón cái rồi kéo ngược lên trên. Nó di chuyển từ từ dọc theo đường răng song song, tạo ra một rãnh hình chữ Y.

Khóa kéo kết thúc ở đỉnh đầu, nhưng anh vẫn không thể ngăn mình lại, anh luồn những ngón tay đẫm máu của mình xuống bên dưới lớp da lủng lẳng và lột chúng sang hai bên, ra khỏi phần xương sọ. Lớp da dễ dàng lột ra như vỏ của một quả trứng đã được luộc chín.

Kinh ngạc, giật mình và sợ hãi, anh nhìn chằm chằm vào mớ tóc và mảng da đang ôm lấy tay mình…

“Tiến sĩ?”

Wallis choàng tỉnh. Trong một khoảng khắc khủng khiếp, anh nghĩ mình đang ở trong phòng giam. Sau đó anh thấy Guru đang cúi xuống nhìn mình, phía sau là ánh sáng hắt vào từ hành lang.

Anh nhanh chóng ngồi dậy. “Có chuyện gì sao?”

“Không… không hẳn là vậy. Nhưng có thể là đang có vấn đề ạ.”

“Em đang nói cái gì vậy, Guru?”

Trước khi Guru kịp trả lời, Wallis đã đứng dậy và bước nhanh về phía phòng quan sát. Anh nhìn xuyên qua phần kính nhỏ hẹp trên cửa quan sát.

Chad vẫn ngồi trong góc như lúc trước, quay lưng lại với Wallis. Sharon không ở trên giường của mình.

“Sharon đâu rồi?” Anh hỏi, mắt hướng về cánh cửa đóng chặt ở cuối phòng.

“Cô ấy đi vào nhà tắm gần hai tiếng trước,” Guru đáp. “Và vẫn chưa quay trở lại.”

“Hai tiếng trước.” Anh liếc nhìn đồng hồ đeo tay của mình. Bây giờ là 10 giờ 30 phút tối. “Thầy đã ngủ cả một ngày!”

“Em không muốn đánh thức thầy.”

Wallis hít sâu. Sau đó anh nhìn thấy túi đựng đồ ăn màu nâu có nhãn hiệu Chipotle đang nằm trên bàn làm việc. “Em đã bỏ việc quan sát họ để ra ngoài mua đồ ăn?”

“Em không bao giờ làm thế, thưa thầy. Em đặt giao hàng. Có burrito bít tết trong đó cho thầy.”

Đói rã, Wallis ngay lập tức cầm chiếc burrito lên, xé bỏ lớp giấy bọc thực phẩm bên ngoài và cắn một miếng to.

Guru cười. “Ngon không ạ?”

“Rất ngon,” anh đáp với cái miệng phồng to. “Em nói là Sharon đã ở trong nhà tắm hai tiếng phải không?”

“Vâng, áng chừng là thế ạ.”

“Em có thử nói chuyện với cô ta chưa?”

“Cô ấy không trả lời.”

Wallis nuốt xuống, liếm phần nước xốt dính trên ngón tay, và ấn vào nút Trò Chuyện trên bảng điều khiển.

“Sharon? Cô khỏe chứ?”

Không một tiếng trả lời.

“Sharon?”

Yên lặng.

Wallis quay sang Guru, với sự lo lắng hiện rõ trên khuôn mặt. “Sao không gọi thầy dậy sớm hơn?”

“Em không nghĩ điều này có gì đáng lo ngại, thưa tiến sĩ. Nếu cô ấy lại tự cắt thân mình, em đã có thể… nghe thấy.”

Wallis gật đầu nhưng không đề cập đến khả năng: Sharon có thể tự treo cổ mình ở trong đó.

Anh đột nhiên không cảm thấy đói nữa, liền đặt chiếc bánh xuống bàn, lau miệng và râu bằng khăn giấy rồi nói: “Thầy sẽ vào trong đó xem cô ấy thế nào.”

Căn phòng thí nghiệm vẫn nồng nặc mùi hôi khó chịu của phân và cơ thể, nay còn lẫn thêm mùi tanh của máu.

Khi bước ngang qua phòng, Wallis nhận thấy Chad xoay lưng theo hướng đi của anh như đang tránh mặt.

Anh dừng lại. “Chad?”

Người đàn ông Úc phát ra âm thanh phập phồng, đứt quãng.

Đè nén tiếng cười?

Wallis tiếp tục: “Anh có thể quay mặt về phía tôi không, anh bạn?”

Anh ta không phản ứng lại.

“Chad, anh bạn?”

Khi vẫn bị anh chàng người Úc từ chối đáp lời, Wallis quyết định sẽ giải quyết anh ta sau, rồi tiếp tục đi về phía nhà tắm, tay anh đặt trên nắm cửa.

“Sharon?” Anh lên tiếng. “Là tôi, Wallis đây.”

Những tiếng cười khúc khích vang lên nhưng nghe không giống của Sharon, nó nghe như tiếng cười ma mãnh của trẻ con.

“Cô đang làm gì trong đó vậy?”

Thêm nhiều tiếng cười như vậy vọng ra.

“Tôi vào nhé?”

“Không!” Sharon bất thình lình gào lên.

Wallis vẫn đẩy cửa vào. Nó di chuyển được vài phân trước khi đóng sầm trở lại. Sharon đã dùng lưng hoặc chân để giữ nó.

“Sao cô không muốn tôi vào?” Anh hỏi.

“Tôi không muốn ra khỏi đây!” Thanh âm của cô khàn đặc, vừa hoảng sợ vừa phấn khích, như tiếng thở hổn hển khi bị bóp cổ trong quá trình bạo dâm.

“Cô không muốn ra khỏi phòng tắm, hay phòng thí nghiệm này?”

“Phòng thí nghiệm!”

“Vậy cô không cần lo lắng về điều đó, Sharon. Tôi không có ý định ép cô ra khỏi phòng thí nghiệm đâu. Sao tôi lại làm chứ?”

“Tôi đã không ngoan.”

“Cô đã làm gì?”

Cười khúc khích.

“Sharon?”

Cô ấy lầm bầm, như thể đang nói chuyện với ai đó.

“Tôi không quan tâm cô đã làm gì, Sharon,” anh nói. “Nhưng tôi vẫn sẽ vào bất kể cô muốn hay không. Tôi khuyên cô nên tránh xa khỏi cửa đi.”

Anh không nghe thấy tiếng di chuyển bên trong.

Anh dồn lực vào vai đẩy cửa.

Nó thậm chí không hề nhúc nhích.

“Sharon?”

Tiếng cười lúc này, the thé và cuồng dại.

“Thôi được,” Wallis nói. “Cô không cho tôi lựa chọn. Tôi sẽ phải tắt khí ga đi.”

“Không!” Sharon gào lên.

“Vậy hãy để tôi vào.”

Âm thanh nức nở – hay đó là một tiếng cười khác?

Đi kèm với tiếng di chuyển chậm chạp và khó nhọc.

Anh kiên nhẫn đợi cho đến khi không còn nghe thấy gì nữa, sau đó thử mở cửa.

Cánh cửa đẩy vào bên trong một cách dễ dàng.

Wallis đã nghĩ tới một cảnh tượng rùng rợn phía sau, nhưng thực tế còn khủng khiếp hơn những gì anh dự đoán.

Máu tràn ngập sàn nhà tắm, dồn lại ở nắp cống thoát nước một lớp dày tới cả phân, bị chặn lại bởi… cục thịt. Sharon ngồi dựa vào bồn cầu, khuỷu tay co quắp vào bệ ngồi, giữ cho cô không trượt xuống. Hình ảnh cô trộn lẫn giữa một người phụ nữ đã uống quá nhiều Tequila và một người sống sót – thoi thóp – sau một cuộc tấn công dữ dội từ dã thú.

“Ôi Chúa ơi, Sharon,” Wallis hít sâu, cố gắng không để thức ăn trào ra khỏi dạ dày.

Những miếng vải băng quanh đầu và bụng cô giờ đang nằm trên mặt đất, ướt đẫm máu. Vết rạch trên bụng lớn hơn nhiều so với lúc trước, để lộ những khoảng xương sườn trắng lấp ló dưới da thịt. Bộ phận tiêu hóa thì rơi ra (hoặc bị móc ra) trên đùi, như đống mỳ Ý lộn xộn. Đặc biệt là phần ruột non của cô, Wallis nhận ra trong nỗi kinh hoàng, nó vẫn đang tiêu hóa thức ăn ngay trước mắt anh, cơ ruột đang co thắt còn dịch dạ dày được tiết ra đang trôi nổi dưới thành ruột mỏng. Ngay cả trong khoảnh khắc kinh hãi này, anh vẫn tự hỏi làm sao điều này có thể xảy ra khi cô đã không ăn gì trong nhiều ngày – cho đến khi anh nhận ra thứ đang được tiêu hóa trong ruột chính là thịt của cô.

“Chào, tiến sĩ,” Sharon lên tiếng, hai con mắt sáng rực chòng chọc đâm thẳng vào anh, khóe miệng nhếch lên nụ cười kinh dị.

“Cô đang làm gì với chính mình vậy?”

“Tôi để nó ra.”

“Để cái gì ra?”

Sharon lại bắt đầu điệu cười khúc khích đó của mình – nhưng bây giờ nó trở nên day dứt hơn trước, bởi không còn sự ngọt ngào trong giọng cười tươi trẻ kia nữa, mà chỉ còn lại sự thô ráp, tắc nghẹt phát ra từ đáy cổ họng. Đôi mắt có vẫn không rời khỏi anh, nó sáng rõ và cảnh giác một cách bất thường. Sau đó cô họ, vài tia nước đỏ phun ra ngoài không khí trước mặt. Tiếng ho tiếp tục, liên hồi, theo sau đó là những vệt máu đặc chảy dài, trào ra từ môi dưới, chảy xuống cắm và cổ.

Nhưng sức khỏe của cô không còn là điều mà Wallis quan tâm. Sự khát khao của một nhà khoa học, hoàn toàn tách rời khỏi cảm xúc, không ngừng tìm kiếm câu trả lời đã chiến thắng. “Nó là cái gì, Sharon?” Anh gặng hỏi. “Cái gì ở bên trong cô?”

Sharon lại cười. “Tôi nghĩ anh biết, tiến sĩ.”

Anh cũng nghĩ là mình biết, và anh tự thầm rủa bản thân vì đã không mang theo máy đo điện não. Anh cần phải nhìn thấy thứ đang diễn ra trong đầu cô. Anh cần chứng cứ cho cái thứ bên trong đầu cô.

“Guru!” Anh hét lớn qua vai. “Mang máy điện não đồ vào đây! Ngay lập tức!”

“Muốn tôi cho anh xem không, tiến sĩ?” Sharon hỏi.

“Cái gì?” Wallis gắt gỏng, quay lại nhìn cô.

“Muốn tôi cho anh thấy thứ bên trong tôi không?”

“Không! Đừng! Đợi chút… chờ đã, chết tiệt!”

Wallis nghe thấy tiếng cửa phòng thí nghiệm mở và sau đó tiếng lạch cách của bánh xe chở thiết bị đo điện não đồ.

“Nhìn này, tiến sĩ, nhìn đi.”

“Guru! Nhanh lên!”

Sharon đưa tay vào trong khoảng trống ở ổ bụng, nơi mà bộ phận tiêu hóa của cô đã từng ở trong đó. Cô là hét — mặc dù âm thanh nghe như một sự khoái cảm trong cơn đau – đưa tay sâu lên trên, ngay chỗ khung lồng ngực.

“Sharon, không!” Wallis hét lên, loạng choạng đổ người về phía trước để ngăn cản. Chân anh trượt trên vũng máu, anh ngã xuống sàn nhà, đầu đập thẳng xuống nền gạch. Bóng tối che phủ tầm mắt, mặc dù anh cố gắng chiến đấu để duy trì tỉnh táo.

Tuy vậy, anh vẫn không thể làm gì hơn ngoài việc nhìn theo những chuyển động chậm của Sharon trong tuyệt vọng, khi cả cánh tay của cô luồn vào sâu hơn bên trong cơ thể của chính mình, phát ra những tiếng nhớp nháp như hai chiếc lưỡi quyện vào nhau.

Rồi bỗng dưng cơ thể cô cứng lại, co giật. Cô giật mạnh tay mình ra khỏi ổ bụng một cách đắc thắng.

Wallis cố gắng chống đỡ mình lên bằng một khuỷu tay, mặc dù anh biết mình có thể sẽ sớm ngất đi.

Điều cuối cùng mà anh nhìn thấy trước khi bất tỉnh là trái tim của Sharon đang trên tay cô.

Điện thoại của Wallis rung lên trên bàn làm việc. Guru phớt lờ nó. Anh đang cứng đờ trong kinh hãi, khi nghe thấy những gì đang diễn ra ở phía cuối phòng thí nghiệm ngủ. Anh chỉ có thể nhìn thấy phần lưng của tiến sĩ khi ông đứng bên trong cửa phòng tắm nhưng anh có thể nghe thấy mọi thứ rất rõ ràng.

Cô đã làm gì với chính mình vậy?

Tôi để nó ra.

Để cái gì ra?

Toàn thân anh lạnh toát khi nghe những lời Sharon nói, bởi anh biết thứ mà cô muốn để thoát ra là gì, ngay cả khi anh vẫn chưa hoàn toàn chấp nhận khả năng tồn tại của sự thật này.

Điều này không thể xảy ra, anh thầm nghĩ. Ác quỷ không tồn tại…

“Guru!” Giọng của Tiến sĩ Wallis dội qua từ hệ thống liên lạc nội bộ. “Mang máy đo điện não lại đây! Ngay lập tức!”

Guru chạy tới góc tường, dùng một tay đẩy chiếc xe kim loại trong khi tay kia mở cửa căn phòng thí nghiệm ngủ. Anh xoay lưng lùi lại tiến vào trong, sau đó kéo xe vào.

“Guru!” Wallis hét lên. “Nhanh lên!”

Guru xoay chiếc xe một vòng để nó ở ngay trước mặt mình, sau đó đẩy về phía nhà tắm nhanh nhất có thể.

Khi anh vừa đến, Tiến sĩ Wallis đã ngã ra trên sàn nhà đầy máu và ngất đi.

“Tiến sĩ!” Guru hoảng hốt, bỏ chiếc xe lại và chạy đến. Vậy mà khi anh nhìn thấy Sharon ngồi sụp bên cạnh bồn cầu, khoang bụng mở rộng còn bàn tay thì đang cầm trái tim của mình, anh như đụng phải một bức tường vô hình. Anh nhìn cô lên cơn co giật lần cuối, trái tim trượt ra khỏi bàn tay đầy máu và rơi xuống sàn nhà ẩm ướt, âm thanh nặng trịch.

Run rẩy hít một ngụm khí lạnh và khô khốc, Guru rời mắt khỏi thi thể khủng khiếp và quỳ xuống bên cạnh Wallis. Ngón tay anh run bần bật chạm vào động mạch cổ của ông và như trút được một phần sợ hãi khi thấy nó vẫn đập nhanh và mạnh mẽ.

Suy nghĩ đầu tiên gợi lên trong đầu anh: Gọi cứu thương.

Suy nghĩ thứ hai: Gọi cảnh sát.

Anh lao về phòng quan sát, giật lấy chiếc điện thoại nằm trong túi xách và tính gọi 911 – nhưng rồi khựng lại.

Đây không phải trường hợp khẩn cấp.

Sharon đã chết. Không một nhân viên y tế nào có thể mang cô trở lại. Tiến sĩ Wallis bị chấn thương ở đầu nhưng vẫn thở được. Ông sẽ nhanh chóng tỉnh lại – và sẽ rất giận dữ nếu anh hoảng loạn và kêu gọi sự giúp đỡ.

Anh cần phải bình tĩnh lại và suy nghĩ.

Cất điện thoại trở lại túi, Guru đi về phía căn phòng của tiến sĩ và mang tấm nệm hơi của ông vào căn phòng quan sát. Sau đó anh trở lại phòng thí nghiệm ngủ. Chad đang ngồi quay lưng lại trên sàn cạnh ti vi. Làm thế nào mà anh ta có thể không có động thái gì sau tất cả những chuyện vừa diễn ra nhỉ? Guru không thể suy luận nổi nữa, nhưng nó không phải là vấn đề ngay bây giờ.

Anh trở lại nhà tắm, cố không nhìn vào thi thể của Sharon, cẩn thận không giẫm phải những cục máu đã đông trên sàn, anh nắm lấy cổ tay tiến sĩ và kéo ông trở lại phòng quan sát, một vệt máu đỏ dài đánh dấu quãng đường của họ.

Thở nặng nhọc – Wallis nặng hơn những gì anh tưởng – anh móc hai tay mình xuống bên dưới và nâng cơ thể ông lên tấm nệm hơi.

Guru loạng choạng nắm lấy lưng ghế và ngã mình lên nó. Sau vài phút, cuối cùng mọi thứ cũng trở nên yên lặng.

Sharon đã tự giết chính mình và anh đã phá hủy hiện trường vụ tự sát.

Đây có phải là một tội ác?

Anh vẫn chưa gọi 911.

Đó có phải là thêm một tội không?

Guru nghe thấy tiếng bước chân đang lại gần từ phía hành lang. Cảnh sát! Anh bật dậy, sẵn sàng đi trốn nhưng không có nơi nào cả. Bị chặn! Anh lao nhanh ra cửa, đóng chặt nó lại, chuẩn bị cho sự tấn công đến từ đội SWAT tinh nhuệ…

“Xin chào?” Giọng một người phụ nữ vang lên kèm theo tiếng gõ cửa.

Một lát sau, cánh cửa mở ra, một người phụ nữ da hơi xanh xao với mái tóc cùng đôi mắt đen ló đầu vào.

Guru nuốt nước bọt. “Ai – ai vậy?” Anh dò hỏi.

“Tôi là Brook. Bạn của Roy. Anh chắc là…” Mắt cô mở to khi nhìn thấy Wallis, toàn thân đẫm máu, đang nằm sõng soài trên tấm nệm hơi. “Roy!”

Roy Wallis tỉnh lại trên một chiếc nệm hơi trong phòng quan sát. Anh ngồi dậy, rên rỉ khi cảm thấy như có hàng ngàn mũi kim đang châm vào đầu.

“Tiến sĩ!” Guru kêu lên, xuất hiện ngay bên cạnh anh. “Ông ấy tỉnh rồi! Thưa cô, ông ấy tỉnh rồi!”

Thưa cô?

Wallis nghe thấy tiếng bước chân đang tiến lại gần từ nửa còn lại của căn phòng, và không lâu sau, Brook đang cúi xuống nhìn anh từ bên cạnh tấm nệm, khuôn mặt cô tràn đầy căng thẳng, đôi mắt thì sưng đỏ, ướt át như thể vừa khóc.

“Roy,” cô lên tiếng, dịu dàng nắm lấy bàn tay anh. “Đừng cử động nhiều quá. Anh có một vết cắt sâu trên đầu.”

Anh rút tay mình ra khỏi tay cô và chạm vào bên trái đầu mình, nhận thấy một lớp vải băng dày đang quấn quanh thái dương. Anh nhăn nhó khi cảm thấy những chiếc kim đang đâm vào sâu hơn.

“Chuyện gì…” Anh đang định hỏi có chuyện gì đã xảy ra, thì hình ảnh đẫm máu của Sharon và những vết rạch kinh khủng tràn về sống động. “Chuyện gì mang em tới đây vậy, Brook?” Thay vào đó, anh hỏi.

“Em đã cố gọi cho anh,” cô đáp, “trên đường tới đây, nhưng anh không nghe máy. Em, ừm, em nghĩ anh có thể bị đói, nên em chỉ muốn mang cho anh ít đồ ăn!” Một tiếng nức nở phát ra, cô quay mặt sang một bên để giấu đi giọt nước mắt.

“Ổn rồi,” anh an ủi. “Hít thở sâu.”

“Không hề!” Cô cắt ngang. “Trợ lý của anh đã nói với em, cô ấy chết rồi! Cô gái mà anh thuê! Máu của cô ấy vẫn còn dính trên người anh! Cô ấy ở trong căn phòng kia, cô ấy chết rồi!”

Wallis trừng mắt nhìn Guru, tự hỏi tại sao cậu ta không thể ngậm mồm mình lại được. Tuy vậy, anh nghĩ rằng cậu thanh niên người Ấn Độ này cũng không biết phải giải thích làm sao khi trông anh bây giờ cứ như đã tiệc tùng thâu đêm với kẻ giết người khét tiếng Jeffrey Dahmer.

Anh cần câu thêm chút thời gian để nghĩ ra một lý do hợp lý cho cái chết của Sharon (nói với Brook rằng cô gái ấy tự móc lấy tim mình ra khỏi ngực đơn giản là vì không còn lựa chọn nào khác), nên nói: “Tên cậu ấy là Guru, và…”

“Tại sao cô ấy lại chết, Roy? Cô ấy đã chết như thế nào? Có chuyện quái quỷ gì đang diễn ra ở đây vậy?”

“Cô ấy tự vẫn,” anh đáp.

“Nhưng máu?”

“Cô ấy tự rạch cổ tay mình.” Đây là lời giải thích tốt nhất mà anh có thể nghĩ ra. “Anh trượt chân lên vũng máu khi cố ngăn cản cô ấy.”

“Tại sao cô ấy…

Wallis cắt ngang. “Anh muốn thay đồ. Anh sẽ giải thích mọi chuyện sau.”

Brook dụi mắt. “Em sẽ đi lấy vài bộ quần áo sạch từ nhà anh…”

“Không cần đâu,” anh đáp. Anh không muốn để cô rời khỏi tầm mắt của mình trong khoảng thời gian này, cô có thể làm chuyện ngu ngốc như gọi cảnh sát. “Chắc quần áo của Chad vừa với anh thôi.”

Mặc cho những lời kháng nghị đến từ Guru và Brook, Wallis vẫn nặng nề đứng lên. Cơn choáng váng ập đến gần như khiến anh ngã ngửa ra sau, nhưng nó cũng nhanh chóng biến mất. Anh bước vào căn phòng thí nghiệm, cảm giác vững chãi hơn sau từng bước chân. Anh ngay lập tức nhìn thấy Chad vẫn đang ngồi đối mặt với góc tường như lúc trước. Anh ta kéo mũ áo của chiếc hoodie trùm kín đầu, còn đôi vai thì rũ xuống, như thể một kẻ ăn mày trên góc phố, không dám đối mặt với thế giới.

Anh ta không phải là một mối đe dọa. Ít nhất là bây giờ.

Wallis lấy trong tủ quần áo ra một chiếc quần lót, quần dài và áo len. Anh lột bỏ bộ quần áo dính máu của mình và liếc nhìn về phía nhà tắm. Anh thực sự muốn tắm nhưng không muốn gây thêm phiền phức khi phải di chuyển thi thể của Sharon ra ngoài trong khi Brook vẫn còn đang ở phòng bên cạnh. Mặc vào bộ quần áo sạch và quay trở lại tiền phòng, anh thấy lòng mình nhẹ đi đôi chút.

Guru đang đi đi lại lại đầy lo lắng. Brook đứng ở cửa, tay bắt chéo trước ngực, nhìn chằm chằm xuống sàn.

“Em không nên tới đây,” anh nói với cô.

Cô ngước lên. “Có chuyện gì đã xảy ra với cô gái đó, Roy? Tại sao cô ấy lại tự giết mình?”

“Cô ấy gặp ảo giác, cô ấy…”

“Là do khí ga phải không? Trợ lý của anh đã nói với em..

“Tên của cậu ta là Guru.”

“Guru nói với em rằng khí ga đó khiến họ phát điên. Tại sao vậy, Roy? Tại sao anh không dừng cuộc thí nghiệm này lại nếu anh biết chuyện gì đang xảy ra với họ, nếu anh biết.”

“Anh đã không biết,” Wallis quát lên. Anh nhắm chặt mắt lại một lúc vì cơn đau nhói lên trong đầu. “Anh không biết rằng cô ấy sẽ tự vẫn,” anh bao biện một cách hợp lý, mặc dù tuyên bố đó là một lời nói dối trắng trợn. “Cô ấy bị ảo giác, đúng, nhưng nó đã được dự tính trước vì sự mất ngủ kéo dài. Nó đã được chứng minh cụ thể.”

“Và rồi việc này?” Brook nói, chỉ tay về phía cửa sổ quan sát dính đầy phân. “Nó có được dự tính trước không? Nó thật… bệnh hoạn. Còn người thanh niên trong kia, anh ta có bị ảo giác không? Anh ta có tự vẫn như cô gái kia không? Anh ta cứ luôn ngồi quay mặt vào tường. Chuyện đó không bình thường chút nào, Roy!”

“Tất nhiên, hành động đó không bình thường. Anh ta đã 14 ngày không ngủ, Brook. 14 ngày. Chúng ta đang ở giai đoạn không biết trước được gì. Cho nên, từ bây giờ, anh sẽ quan sát anh ta thật kỹ, từng giây từng phút để chắc chắn anh ta… không làm những việc nguy hiểm.”

“Anh vẫn tiếp tục cuộc thí nghiệm ư?” Cô bàng hoàng.

“Nó sắp kết thúc rồi. Chỉ vài ngày nữa thôi…”

Cô lắc đầu nguầy nguậy. “Em không thể tin nổi những gì mình đang nghe thấy!”

“Nghe thấy gì cơ, Brook?” Wallis điềm tĩnh hỏi, mặc dù anh đang rất phẫn nộ vì phản ứng thái quá của cô.

“Cô gái kia đã chết, Roy! Thí nghiệm của anh đã giết chết cô ấy! Chúng ta phải báo cảnh sát.”

Wallis nghiến chặt răng hàm. “Chúng ta sẽ gọi cảnh sát, Brook,” anh nói. “Sau khi cuộc thí nghiệm này kết thúc. Một ngày nữa…”

“Có cái gì ở thí nghiệm này mà lại quan trọng đến vậy hả Roy?” Cô khăng khăng. “Có chuyện gì quan trọng đến nỗi che khuất lý trí và giá trị con người anh?”

Wallis cân nhắc đến việc giải thích mọi thứ cho cô như anh đã làm với Guru. Nhưng anh không thèm bận tâm đến nữa. Mà Brook cũng không đủ học thức như Guru. Cô sẽ không đánh giá cao giá trị cao cả của những phát kiến đó. Cô sẽ không tài nào hiểu được sự quyết tâm của anh, rằng không một thành tựu quý giá nào là không có sự hy sinh. Mạng sống của một, hai hoặc vài chục cá nhân chẳng là gì so với mục đích vĩ đại, so với việc hàng ngàn, hàng triệu sinh mạng trên thế giới đang chết đi mỗi giờ vì già cỗi, bệnh tật, tai nạn và vài lý do ngu xuẩn khác. Vậy nên ai thèm quan tâm tới một hay hai người chết thêm chứ? Mà một hoặc hai người này không hề chết trong vô ích, họ chết vì tri thức – tri thức sẽ thay đổi thế giới mãi mãi? Họ nên cảm thấy vinh dự khi được phục vụ loài người như vậy, và nếu ai đó không hiểu điều này, mà theo Wallis, thì những người đó không có giá trị tồn tại.

Anh gượng cười. “Một ngày nữa thôi, Brook,” anh nói. “Đó là tất cả những gì anh cần. Một ngày…”

Cô vung tay đánh vào không khí. “Anh điên rồi, Roy! Thí nghiệm này khiến anh điên rồi! Họ không phải những con chuột thí nghiệm! Họ là con người đấy!”

“Em có hai sự lựa chọn, Brook,” Wallis nói bằng giọng đều đều, tương phản với sự dữ dội của cô. “Em có thể ở lại đây và bình tĩnh lại khi anh đi kiểm tra Chad để chắc chắn rằng anh ta ổn; hoặc em có thể rời đi, báo cảnh sát và làm xáo trộn mọi thứ lên.”

Brook nhìn chằm chằm vào anh trong một lúc lâu, ánh mắt cô đăm đăm như đang cháy một ngọn lửa ngầm, rồi cô bừng tỉnh khi ra quyết định. Cô mở cửa, chuẩn bị rời đi.

“Aaa, chết tiệt, Brook,” Wallis gằn giọng, lầm bầm trong cổ họng, chân thành hy vọng rằng cô sẽ không phản bội mình. Khi cô bước ra ngoài hành lang, anh túm chặt lấy vai cô và kéo cô trở lại căn tiền phòng.

Cô giật mình quay đi. “Vậy để em đi…”

Wallis đấm mạnh vào hàm cô.

“Tiến sĩ!” Guru gào khóc.

Wallis nhìn cậu ta. “Thầy không thể để cô ấy đi báo cảnh sát,” anh đáp. “Em biết tại sao mà.”

Guru dùng hai tay ôm lấy cái đầu trọc của mình như hình ảnh nhân vật trong bức tranh Tiếng Thét. “Điều này quá sức với em. Quá lắm rồi.”

Wallis bước qua cơ thể của Brook và tiến tới túm chặt hai cánh tay của Guru, lắc mạnh. “Em biết thì nghiệm này quan trọng như thế nào mà, Guru! Em hiểu những gì đang diễn ra ở đây! Đừng trở nên yếu đuối như vậy, anh bạn!”

“Em biết, nhưng…” Cậu giật cánh tay mình ra và lùi lại. “Chúng ta sẽ phải đi tù.”

“Không, chúng ta sẽ không,” Wallis nói, động viên người trợ lý đang suy nghĩ về kết quả nhiều hơn về giá trị đạo đức, bởi vì kết quả, ít nhất, sẽ là lý do chính đáng. “Hãy nhìn xem,” anh nói thêm. “Thầy chỉ cần đo điện não cho Chad. Sau khi lấy được những thông tin, thầy cần..” Anh nhún vai. “Chỉ cần vậy. Chúng ta sẽ không cần tới anh ta nữa. Anh ta cũng không trụ thêm được lâu hơn đâu. Anh ta sẽ tự tử giống như Sharon thôi. Cho nên, sao chúng ta lại có tội được chứ? Chúng ta có ép họ đâu. Họ tự làm điều đó với bản thân mà.”

“Nhưng chúng ta để điều đó diễn ra, tiến sĩ.

“À! Sẽ không ai biết chuyện đó. Chỉ hôm qua thôi, em có tin rằng họ sẽ tự vẫn không?”

Guru nhăn mặt. “Họ gặp ảo tưởng và…”

“Đúng, đúng, nhưng em có nghĩ tới việc họ sẽ tự vẫn không?”

“Không,” anh chàng đơn giản đáp lại.

“Không” Wallis lặp lại. “Sự tụt dốc của họ, sự điên loạn cuối cùng diễn ra quá nhanh. Chính xác là chỉ sau một đêm. Nên chúng ta đơn giản chỉ là… nói giảm nói tránh sự thật.”

“Nói giảm nói tránh sự thật?”

“Sau khi có được thứ mình cần từ đầu của Chad, thầy và em sẽ cùng đi ăn tối để ăn mừng kết thúc thí nghiệm. Chúng ta sẽ tắt khí ga và để Chad và Sharon nghỉ ngơi trong phòng. Và khi ta quay lại vào sáng hôm sau… Họ đã làm những việc này với chính bản thân mình. Họ làm điều đó khi chúng ta không có mặt ở đây. Đây là tác dụng phụ của khí ga. Thầy không biết điều đó. Thầy sẽ ghi chú lại như một phát hiện khoa học. Kết luận là, thí nghiệm vẫn diễn ra bình thường dưới sự quan sát của chúng ta. Nhưng những chuyện sau đó thì chúng ta không thể lường trước được, và chúng ta cũng không có mặt để ngăn cản nó.”

“Thầy muốn chúng ta nói dối,” Guru khẳng định lại.

“Shiva, Krishma và Chúa Christ, Guru! Đừng giống như họ, anh bạn. Nói dối? Nếu em muốn gọi nó như thế. Nhưng với thầy, nó là một sự trình bày gần đúng về những gì đã xảy ra, nói giảm nói tránh một chút. Điều đó có gì sai chứ? Em muốn chìm vào đạo đức ư? Thế còn chủ nghĩa hậu quả trong triết học thì sao? Đánh giá sự việc đúng hay sai dựa trên những kết quả mà nó tạo ra. Hãy nghe tôi nói, nghĩ tới kết quả mà thí nghiệm mang lại, chúng ta chắc chắn là đang làm đúng.”

“Thế còn cô ấy?” Guru nhìn Brook.

Wallis cũng quay sang cô. Brook đang nằm dài trên sàn nhà, nơi cô ngã xuống. Thật sự mà nói, anh cũng không biết mình nên làm gì với cô. Anh không thể loại bỏ cô như cách mình đã làm với Penny. Anh là bạn trai của cô. Anh đã gặp bạn của cô. Hầu hết nhân viên ở Emporium đều biết hai người đang hẹn hò. Anh sẽ là nghi can đầu tiên và có thể là duy nhất nếu như cô mất tích. Và hai người thân quen với anh mất tích cùng một lúc trong vài ngày? Không, loại bỏ Brook không phải là một điều hay. “Thầy sẽ nói chuyện với cô ấy,” anh nói với Guru. “Khi cô ấy nghe tất cả những gì thầy nói, cô ấy sẽ làm theo thôi. Cô ấy có thể sẽ không vui vì cái chết của Chad và Sharon, nhưng cô ấy yêu thầy. Cô ấy… cô ấy sẽ giữ yên lặng vì thầy,” anh nói thêm, hy vọng những điều mình nói sẽ trở thành sự thật.

Sau đó, nhận ra sự giả tạo trong lời nói của mình, khi Brook đang nằm sõng soài trên mặt đất với bên hàm phải sưng vù, Wallis quỳ xuống bên cạnh cơ thể của cô và cẩn thận – yêu thương – nâng cô lên tấm nệm hơi, giống như cô đang nằm ngủ yên bình trên đó.

Wallis quay lại phía Guru với vẻ chờ đợi, “Hãy kết thúc chuyện này thôi.”

Họ bước vào căn phòng thí nghiệm.

“Chad, anh cảm thấy thế nào rồi?” Wallis hỏi.

Anh chàng người Úc không phản ứng với câu hỏi của anh.

“Anh đã rất yên lặng, anh bạn.”

Không có câu trả lời.

Wallis dừng lại khi đứng ngay sau lưng Chad, người anh ta nồng nặc mùi cơ thể và thứ mùi thứ gì đó mà anh liên tưởng đến mùi gỗ mục rữa. Anh ra hiệu cho Guru, người đang đẩy chiếc xe kim loại có máy đo điện não đồ, đến tham gia cùng mình. “Như thế này nhé, Chad,” anh nói. “Chúng tôi sẽ làm một số bài kiểm tra với anh bằng máy này, và sau đó chúng tôi sẽ để anh yên. Anh chỉ cần ngồi yên như bây giờ là được, không cần phải quay lại. Nhưng anh phải kéo mũ áo xuống.” Wallis lấy gel điện cực từ trên xe đẩy. “Anh có thể không nhớ cái máy này hoạt động thể nào,” anh tiếp tục, “nhưng nó không đau chút nào đâu. Gel này hơi lạnh, nhưng chỉ có vậy. Sẵn sàng chưa?”

Wallis kéo mũ áo của Chad xuống.

Chàng thanh niên người Úc vặn vẹo trong tiếng rít như rắn độc.

Wallis nhanh chóng đưa tay lên bịt miệng mình, và nghe thấy tiếng Guru nôn mửa phía sau lưng.

Mặt của Chad đã biến mất.

Anh ta đã bóc từng mảng da trên khuôn mặt của mình, để lộ phần thịt hỗn độn với mỡ, cơ và những mô liên kết bên dưới. Vài nơi dọc quai hàm, anh ta đã tự khoét sâu đến nỗi xương hàm trắng ẩm ướt lộ hẳn ra ngoài.

Nơi đã từng là đôi mắt xanh lam rực rỡ, giờ đây chỉ còn là hai hõm đen ngòm đầy máu. Còn vị trí của chiếc mũi thì trở thành một cái lỗ toàn chất nhầy nhụa. Đôi môi thì biến mất, chỉ thấy được phần lợi chảy máu liên tục và ngoác rộng ra như thế đang nở điệu cười gớm ghiếc.

Không có bộ phận bị thiếu nào nằm trên sàn, điều đó có nghĩa là chúng đã bị tiêu hóa.

“Lạy Chúa,” Wallis hít vào một ngụm khí lạnh, và anh thực sự cảm thấy kinh sợ con quái vật trước mắt mình. Anh tự hỏi liệu có phải Chad đã lột mặt của mình để thoát khỏi ảo giác bị nấm mà anh ta tin rằng nó đang mọc tràn lan trên đầu mình, hay giống như Sharon, anh ta đang cố để cho thứ gì đó bên trong thoát ra ngoài hay không.

Guru nói nhanh điều gì đó bằng tiếng Hindi, chắc là một lời cầu nguyện.

Wallis phớt lờ cậu ta. “Không sao, Chad. Không sao đâu. Chúng tôi sẽ không làm đau anh.” Nói đoạn anh ném lọ gel trở lại xe đẩy, vì nó không còn được cần dùng đến nữa, Chad không còn mảnh da nào trên đầu. Anh cầm đai đeo đầu lên. “Hãy nhớ rằng, anh bạn, điều này không đau đâu.”

Wallis cúi người về phía trước, chầm chậm đội nó lên đầu Chad như thể đang đội vương miện lên đầu của một vị quân vương.

Với tốc độ đáng kinh ngạc, anh chàng người Úc nắm chặt cổ tay Wallis, và ngay sau đó, anh thấy mình bị hất lên không trung. Cơ thể anh đập mạnh xuống sàn với tiếng xương cốt va chạm đầy đau đớn, lăn vài vòng trước khi dừng lại.

Anh ngồi dậy ngay khi cảm thấy mình ổn định trở lại.

Guru lùi xa khỏi Chad như cách bạn sẽ làm khi thấy một chú chó chăn cừu giống Đức đang sùi bọt mép trước mặt mình, thanh âm tắc nghẹn ở cổ. “Làm sao… bằng cách nào… làm thế nào mà anh ta làm được như vậy?” Cậu lắp bắp.

“Lùi về cửa đi,” Wallis nói với Guru.

Sau đó anh đứng dậy, tiến về phía Guru, tự nhủ sẽ không bao giờ quay lưng về phía anh chàng người Úc này.

“Không thể nào!” Guru thốt lên. “Phải cần tới sức của năm người đàn ông mới có thể ném thầy lên như vậy, giống như anh ta đã làm!”

“Hoàn toàn có thể, anh bạn ạ,” Wallis đáp, mắt anh ánh lên sự phấn khích tột độ, khi cả hai quay trở lại phòng giám sát. “Nó đã xảy ra.

“Nhưng bằng cách nào?”

“Lý giải khoa học? Adrenaline.”

“Adrenaline? Vậy là…”

“Adrenaline, enzym, protein, endorphin và cảm xúc. Khi toàn bộ phản ứng căng thẳng của cơ thể được kích hoạt, hầu hết mọi người đều có khả năng nâng gấp sáu, bảy lần trọng lượng cơ thể của chính họ. Một phụ nữ trẻ có thể nâng chiếc xe ô tô ra khỏi người cha mình khi nó đè lên ông ta. Một người đàn ông đã xé toang cánh cửa xe ô tô trong một vụ tai nạn để cứu vợ mình. Những trường hợp có sức mạnh như siêu anh hùng đó đã từng được nhắc tới.”

“Nhưng chúng ta không đe dọa Chad. Anh ta…”

“Anh ta không nhận ra điều đó. Anh ta không còn mắt để nhìn nữa.”

“Chúng ta nên làm gì bây giờ. Anh ta rõ ràng không để chúng ta kết nối mình với máy đo điện não đồ, chứ đừng nói đến chuyện ngồi yên trong quá trình kiểm tra.”

“Không, không phải khi anh ta đang ở trong trạng thái như bây giờ,” Wallis đồng ý. “Nhưng thầy có ý này.”

Roy Wallis giải thích kế hoạch của mình cho Guru Rampal, người đã miễn cưỡng đồng ý giúp anh thực hiện nó. Sau đó, anh chuyển Brook vào giường của