CHƯƠNG 22
Không đời nào,” Xela nói.
“Tesla là tay thợ điện, phải chứ?” Roger hỏi. “Một nhân vật trong phim The Prestige 29* ?”
29* Màn cao trào: (tựa gốc tiếng Anh The Prestige), bộ phim do Christopher Nolan đạo diễn dựa trên kịch bản chuyển thể của Nolan và em trai ông Jonathan từ tác phẩm cùng tên, được trao giải World Fantasy Award năm 1995. Câu chuyện kể về Robert Angier và Alfred Borden, những ảo thuật gia sân khấu đối địch nhau ở London vào cuối thế kỷ XIX. Do bị ám ảnh với việc tạo ra tiết mục đánh lừa người xem hay nhất, họ đã cuốn vào một cuộc cạnh tranh một mất một còn với những kết cục bi thảm.
“Giờ thì chuyện này trở nên ngớ ngẩn rồi đấy,” bà Knight lên tiếng.
“Không, tất cả đều rất dễ hiểu mà,” Debbie nói. Đôi mắt chị mở to. Debbie nhón ngón chân và siết chặt lấy những tờ giấy ghi chú trên tay. “Veek, cô đã nói rằng Kavach là tên Ấn Độ, phải không?”
“Marathi, vâng, nhưng nó...”
Debbie lại nhón chân. “Đó có phải giống như tiếng Phạn không? Chuyện này cứ quanh quẩn mãi trong đầu tôi mấy ngày qua. Tesla như đang đặt tên cho những kế hoạch của mình một cái tên bằng tiếng Phạn. Nhưng nó có nghĩa là gì?”
“Ừmmm... em nghĩ rằng nó có nghĩa là ‘áo giáp’, hoặc có lẽ là ‘lá chắn’. Còn phụ thuộc vào... hoàn cảnh nói.” Đôi mắt cô ta mở to sau lớp kính.
“Thật là ngớ ngẩn,” bà Knight phản đối một lần nữa. “Tesla là một người nổi tiếng. Ông ta không thể lẻn ra ngoài chỉ để thực hiện một dự án bí mật mà không hề có ai biết tới.”
“Nhưng đúng là như vậy,” Nate nói. “Không phải ông ta đã rời đến Colorado vì Thomas Edison đã làm cháy phòng thí nghiệm của ông ta hay gì đó ư?”
“Có lẽ đó không phải là Edison,” Tim nói. “Mà vì có lẽ giáo hội The Family đã cố gắng bắt ông ta. Ông ta rời đến Colorado để lẩn trốn.”
“Thoái thác việc này cho Edison có lẽ là chuyện bịa đặt,” Xela nhe răng cười.
“Giờ thì chúng ta đã biết ý nghĩa chính xác của những chữ cái được khắc lên phiến đá,” Veek nói.
“Và giờ chúng ta đã biết mục đích của cỗ máy kia.” “Gần như là vậy,” Tim đáp.
“Vậy là,” Nate nói, “tôi nghĩ rằng chỉ còn lại duy nhất một điều.”
“Xin lỗi Rommel?”
Oskar quay lại từ phía cửa. “Vâng, thưa bà Knight. Tôi có thể giúp gì được cho bà?”
Bà Knight đang đứng ở những bậc trên cùng của lối cầu thang. Mặc dù giữa cái nóng của mùa hè, bà lão vẫn khoác một chiếc áo khoác len mỏng màu đỏ cờ, và đứng vịn vào cây gậy ba toong. Bà đang đeo một cặp kính râm. “Anh sẽ đi đến cửa hàng tạp hóa phải không?” “Vâng, thưa bà,” ông ta đáp. “Liệu bà có cần tôi mua giúp gì không?”
Bà Knight gật đầu. “Tôi đang muốn hỏi là liệu anh có thể mua giúp tôi một vài hộp trà trắng được không? Tôi có thể tự đi nhưng tôi đang đau hông khủng khiếp.” Bà giơ ra một tờ mười đô và một chiếc hộp nhỏ, đã bị ép dẹt. “Đây là nhãn hiệu mà tôi thích.”
Oskar nhìn vào chiếc hộp và nhíu mày. “Cửa hàng tạp hóa ở góc phố có loại trà này sao?”
Khuôn mặt bà Knight xịu xuống. “Ô,” bà lên tiếng. “Tôi cứ tưởng anh sẽ đi tới cửa hàng to hơn. Cửa hàng Vons ngay trên đường Vermont.”
“Tôi không có ý định tới đó,” ông ta đáp.
“A,” bà Knight thốt lên, rồi chìa tay ra để lấy lại chiếc hộp. “Chà, không sao. Tôi chắc là ngày mai mình sẽ ổn thôi và...”
Oskar lắc đầu. “Không sao đâu,” ông ta nói. “Hôm nay là một ngày đẹp trời để tản bộ mà, thêm vào đó, cửa hàng Vons sẽ có giá cả phải chăng hơn,” ông ta nháy mắt và vỗ vỗ vào cái bụng phệ của mình, “tôi cũng có thể tận dụng việc này để tập thể dục.”
“Ôi, anh tốt bụng quá,” bà thốt lên. “Cám ơn anh nhiều nhé.”
“Không có gì,” ông ta đáp. “Tôi sẽ quay trở lại trong vòng một giờ nữa và tất nhiên là sẽ có trà cho bà.” Ông ta gật đầu tỏ ý chào bà và đi ra khỏi cổng.
Bà Knight đi thẳng vào tòa nhà. Nate, Veek và Debbie theo dõi từ cửa sổ tầng hai khi Oskar đi thẳng ra phố. “Ông ta quả là một người lịch thiệp,” Debbie nhận xét. “Tôi thấy hơi cắn rứt khi lừa ông ta như vậy.”
“Ông ta là một người biết giữ bí mật,” Veek nhắc nhở.
“Mọi người biết không?” Nate nói, “Tôi vẫn không chắc là ông ta liệu có biết những điều bí mật này hay không.”
Debbie nhìn lại phía sau về phía người đàn ông lịch thiệp kia. “Thật sao?”
Nate nhún vai. “Hãy nghĩ về chuyện này đi. Ông ta là một người quản lý tầm trung. Ông ta chỉ thực hiện công việc được giao. Nhiệm vụ của ông ta là giữ cho mọi người không rình mò xung quanh và gây chuyện. Điều đó không có nghĩa là ông ta biết lý do tại sao. Giống như một nhân viên bảo vệ tại trụ sở của CIA hay một nơi nào đó tương tự.”
“Tôi cũng không biết nữa,” Veek nói. “Đối với tôi mà nói, ông ta luôn luôn có vẻ như đang giấu giếm rất nhiều chuyện.”
“Ừm,” bà Knight nói vọng lên từ lối cầu thang. “Ông ta không hề nói cho chúng ta biết rằng tòa nhà này là một cỗ máy gây ra động đất và chống lại sự khải huyền. Điều đó hoàn toàn khiến ông ta trở thành một gã tồi.”
Nate và Veek đi thẳng về phía hành lang để tập trung cùng những người khác đang đứng xung quanh cửa căn hộ số 14. Tim nhìn lên từ vị trí những chiếc ổ khóa. “Tôi có thể giải quyết chúng trong vòng năm phút,” ông nói. “Chiếc khóa cũ nhất thuộc một dạng khóa khác. Tôi chưa hề thử mở chiếc nào giống như vậy hàng năm nay.”
Veek nghiêng đầu. “Chiếc khóa cũ sẽ mất nhiều thời gian hơn những chiếc mới sao?”
Ông kéo ra bộ đồ nghề của mình. “Sẽ là như vậy nếu cô không muốn để lại dấu vết cậy khóa rõ ràng.”
“Hành động thôi,” Nate giục. “Chúng ta đang lãng phí thời gian đấy.”
“Chỉ đang chờ cậu ra lệnh thôi mà, chỉ huy,” Tim nói. Chỉ với vài động tác mau lẹ, ổ khóa trên cùng đã được mở ra.
“Bác nghĩ là chiếc khóa đời mới hơn sẽ khó hơn sao?” Nate nói.
“Không,” Tim giắt ổ khóa vào thắt lưng. “Đặc điểm mấu chốt của hầu hết các loại khóa móc đời mới đều khá giống nhau mặc dù được trang bị thêm một lớp vỏ bọc thép.”
Những dụng cụ của ông trượt vào ổ khóa dưới cùng và đồ nghề của ông làm nhiệm vụ của nó một cách trơn tru.
Chiếc khóa thứ hai chợt bật mở, ông móc nó vào hông, đối diện với chiếc thứ nhất.
Xela đang đi dọc hành lang, tay cầm một chiếc xô dung tích 1 gallon 30* . Chiếc ba lô sơn sọc vắt vẻo trên vai bên kia. “Chúng ta khá may mắn,” cô nói. “Thùng sơn này gần như vẫn còn nguyên.”
30* 1 gallon (Mỹ) ≈ 3,7854 lít.
Clive đẩy cửa phòng mình mở cho Xela giấu đồ nghề. Anh nhìn vào chiếc thùng. “Cô có chắc chúng ta có thể sơn sửa tất cả mọi thứ khi xong việc không?”
“Chỉ là màu vẽ thôi,” Xela nói. “Tôi chỉ có vậy. Chỉ cần sửa sang để có thể qua mắt được mọi người. Ba mươi phút, rất nhanh gọn. Hoặc có lẽ sẽ nhanh hơn một chút nếu có một đường dây diện và tôi sẽ gí một hoặc hai chiếc máy sấy tóc vào đó.”
“Cô chắc chứ?” Veek hỏi.
“Nếu ai đó nán lại và quan sát kĩ, thì... ừm, nó sẽ không thể qua mắt được họ.” Xela nói. “Nhưng sẽ ổn thôi. Và một khi họ sơn một lớp sơn khác lên đó, thì bức tường sẽ thật hoàn hảo.”
Tim đổi dụng cụ khác, một sợi dây đồng dày được chọc vào ổ khóa có hình dạng giống ổ khóa cướp biển đầu tiên. Ông đẩy tay cầm xuống, dịch chuyển nó, và đẩy thêm lần nữa. Ông bặm môi, chỉnh lại tay cầm và ấn nó vào lần thứ ba. Chiếc ổ khóa tán đinh bỗng bật mở sau một tiếng cạch nặng trịch. Tim treo móc ổ khóa vào thắt lưng rồi cúi xuống ổ khóa cuối cùng nằm ngay dưới núm cửa. Một phút sau, nó cũng nằm ngay ngắn trên thắt lưng ông. Tim móc chúng theo đúng thứ tự, từ trái qua phải dọc theo chiếc thắt lưng.
Nate dùng tuốc nơ vít để bẩy những then cửa đã bị sơn kín ra khỏi cánh cửa rồi bẻ gập chúng ra sau. Anh nắm lấy núm cửa rồi xoay. Những lớp sơn qua hàng thập kỷ bị kéo dãn ra vào xoắn lại. Một cái gì đó đang nhúc nhích và anh giữ tay vào chiếc núm cửa bằng thủy tinh được phủ bởi những lớp sơn nhăn nhúm, lột chúng ra, rồi vặn núm cửa lần nữa. Có một lực cản bên trong cánh cửa, như thể then cửa đang chịu một trọng lượng rất lớn.
Cánh cửa không hề nhúc nhích.
“Sơn lọt sâu trong những khe hở,” Veek nói. “Nó dính khá chặt đấy.”
Nate dò theo những rãnh nối trên khe cửa. “Có ai mang dao không?”
Một con dao rọc giấy đập đập vào tay anh. “Đừng làm hỏng lưỡi dao nhé,” Xela nói. “Đó là lưỡi dao cuối cùng của tôi đấy, tôi cần dùng nó để cắt gọt tất cả cạnh sơn thừa anh bỏ lại.”
“Tôi sẽ cố.”
“Anh có một con to hơn trong phòng, nếu em cần nó,” Roger nói. Xela tươi cười với anh.
“Giờ anh lại còn tranh cãi về to nhỏ với em nữa cơ?” “Không hề,” anh lắc đầu lia lịa.
Nate cúi xuống, kéo lưỡi dao ra, và khía vào các đốm sơn giữa cánh cửa và khung gỗ. Con dao như đang cắt ngang qua một miếng kẹo cao su khô dở. Nó rạch qua một số đoạn sơn và rồi kéo dãn những đoạn khác. Anh đi lưỡi dao dọc theo những khe hở. Việc này khiến Nate liên tưởng đến một đoạn video khám nghiệm tử thi, với những vết rạch dài trên thân người. Lớp sơn bong như những tảng thịt đã thối rữa.
Anh ngừng lại nghỉ tay và nhìn ra sau.
Veek, Tim, Xela và Roger đang đứng dựa lưng vào bức tường bên cạnh, quan sát anh. Clive đứng ngay cửa ra vào căn hộ của anh. “Không ai định giúp tôi một chút sao?” Nate hỏi.
“Có mỗi anh có dao thôi, Shaggy,” Veek lên tiếng. Cô giơ điện thoại ra và chụp một bức ảnh. “Cái này dành cho album khám phá của chúng ta.”
“Tôi có một con dao rọc giấy,” Clive nói. “Đợi tôi một phút.”
Nate lắc lắc ngón tay rồi lại tiếp tục công việc. Anh đã giải quyết xong một đường cạnh dài từ mặt sàn lên tới trần nhà khi Clive quay lại. Nate bắt đầu thực hiện từ khe cửa trên cùng. Anh chưa làm xong nửa bề ngang cánh cửa thì đôi vai đã bắt đầu đau.
Clive khom người trên sàn nhà với một con dao màu xanh lá nhạt trên tay. Anh ấn mũi dao vào lớp sơn dưới khe sàn và lách nó về phía bản lề. Các lớp sơn đã bong và một vài chỗ bị toạc ra.
Phải mất thêm vài phút sau để hai người có thể hoàn thành xong công việc này. Nate trả con dao cho Xela. Cô nhìn lưỡi dao và đáp lại với một vẻ mặt cau có.
“Đây là lý do tại sao giữa chúng ta không thể có những điều tốt đẹp,” cô nói.
Anh mỉm cười rồi nhìn Veek. “Chúng ta còn bao lâu nữa?”
“Có lẽ Oskar đã đi được nửa quãng đường tới cửa hàng,” cô nói. “Chúng ta sẽ có thêm bốn mươi lăm phút là nhiều nhất. Và chắc phải hoàn thành xong trước mười lăm phút để Xela có thể bắt đầu việc xóa dấu vết sau đó.”
Xela giơ tay chào kiểu nhà binh.
Nate đặt bàn tay mình lên núm cửa. “Được rồi, vậy thì,” anh nói. “Hãy dành ra mười phút để xem có gì trong này, chụp càng nhiều ảnh càng tốt, rồi chuồn khỏi đây. Dù nó có thú vị, hay kì lạ tới cỡ nào, thì chúng ta cũng chỉ được thực hiện trong vòng đúng mười phút. Mọi người đồng ý chứ?”
Xela giơ chiếc máy ảnh lên. Veek giơ điện thoại. Những người khác tỏ ý đồng tình.
Anh xoay núm cửa. Một lần nữa, nó như đang níu chặt lại từ phía sau, như thể có ai đang giữ núm cửa phía bên kia và ngăn không cho anh mở ra. Rồi sau đó, anh nghe thấy một tiếng cạch khi chiếc chốt bên trong tay nắm trượt qua lỗ khóa.
Cánh cửa giật mở.
Tay Nate vẫn nắm chặt núm cửa, rồi nó lôi anh lao về phía trước.
Nate mất thăng bằng, anh giữ chặt núm cửa hơn để chống cự lại cú ngã.
Cánh cửa bật tung vào trong căn hộ số 14.
Ai đó - hay một cái gì đó - đang đẩy anh từ phía sau. Đôi chân Nate bị nâng lên khỏi mặt đất và phải mất một lúc anh mới nhận ra rằng chân mình không hề quay lại vị trí cũ. Nate xoay vòng trong không trung và nơi duy nhất vẫn còn đứng nguyên là chiếc núm cửa. Anh vươn cánh tay kia lên và cố gắng nắm lấy núm cửa phía bên kia - núm bên trong cánh cửa.
Điều hòa không khí đang được bật ở chế độ quạt gió to nhất. Không khí bên trong căn hộ tối om này lạnh đến mức da Nate trở nên tê cóng, và khiến mắt anh gần như đóng băng. Luồng không khí quật điên đảo và tru tréo xung quanh anh.
Xela đang ở ngay cạnh Nate. Cô choàng tay ôm lấy anh rồi hét lên. Tay cô trượt xuống eo Nate và một ý nghĩ “đen tối“ nảy lên trong sự hỗn loạn này. Nate thấy cô đang bị luồng gió thổi bay khỏi người mình.
Luồng không khí không phải đang lùa ra từ căn hộ số 14, mà nó hút mọi thứ vào phía trong.
Anh nhìn xuống Xela. Cô quặp chặt chân và móng tay bấu lấy đùi anh. Anh thấy Xela vẫn đang la hét, nhưng anh không thể nghe thấy vì gió đang gầm rú quật ngang qua họ. Cô loạng choạng trên mặt sàn. Một chiếc giày thể thao Xela đang mang tuột ra khỏi bàn chân và bị cuốn đi.
Phía sau chân Xela, Nate nhìn thấy một ánh sáng chói lóa, một quả bóng rổ rực lửa phồng rộp. Thật chói mắt khi nhìn vào đó.
Căn hộ số 14 không có bức tường nào. Nó trải dài vô tận về mọi hướng.
Những sắc màu hỗn độn, giống như những chiếc đèn nhấp nháy trong đêm Giáng sinh trang hoàng trong khoảng không tối tăm vô tận kia.
Họ... đang lơ lửng trong không gian.