← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 30

Có ba người đã chờ sẵn trên sân thượng khi Nate và Veek đang cùng đi lên đó vào chiều thứ sáu. Tim đổ đá vào thùng đựng bia. Clive và Debbie xếp ghế thành hình vòng cung rộng. “Này,” Tim lên tiếng. “Cậu thấy thế nào rồi?”

“Tốt hơn rất nhiều rồi ạ,” Nate trả lời. “Cháu cũng thấy được xả hơi.”

“Một đêm ngon giấc sẽ đánh tan mọi mệt mỏi,” ông gật đầu hiền hậu. Họ kéo ghế xếp quanh sân tắm nắng lát gỗ cho đến khi tất cả mọi người đều ngồi thành một vòng cung hướng về phía tây. Một lát sau, Xela xuất hiện, tay khệ nệ xách sáu chai bia.

“Ôi, ơn Chúa,” cô ta nói. “Nếu tôi biết tất cả đàn ông đều ở đây thì tôi đã ‘thả rông’ và khiến mọi người phải tranh nhau mang những thứ tôi đang cầm này lên đây.”

“Tôi đã hơn sáu mươi rồi”, Tim nói. “Những bộ ngực ‘thả rông’ không còn có sức quyến rũ tôi như trước đây.”

“Còn với tôi thì vẫn còn sức quyến rũ đấy,” Nate nói. “Vậy nếu cô còn có những thứ khác cần mang lên thì hãy...”, Veek bạt nhẹ vào phía sau lưng anh một cái, còn Clive bật cười.

Tim lấy lốc bia mà Xela mang tới và tống vào thùng đá. “Dù sao thì cũng rất cảm kích khi một nghệ sĩ đói khát lại có thể mua bia tới đây.”

“Người nghệ sĩ chết đói có một anh bạn trai, anh ta lúc nào cũng nghĩ rằng bộ ngực của cô ta thật tuyệt vời. Anh ta cho cô ta tiền và vì vậy tất cả những người bạn của hai người đều được uống bia trong khi anh ta không hề có mặt ở đây. Anh ta đẳng cấp như vậy đấy.”

“Bạn trai ư?” Debbie nhắc lại. Giọng chị nghe có vẻ cạnh khóe hơn cái cách mà chị vẫn thường nói. “Nghe có vẻ không giống lắm với tình trạng hai người bây giờ.”

“Tôi thuộc tuýp con gái truyền thống. Anh ấy đã chinh phục được tôi.”

Mandy có mặt trên sân thượng lúc sáu giờ. Cô ta hỏi thăm Nate về trạng thái tinh thần của anh và rồi ngồi xuống cùng với Debbie và Xela ngay cạnh lò sưởi.

Nate và Clive kê thêm chiếc ghế tắm nắng cuối cùng vào hình bán nguyệt. “Vậy là,” Clive nói, “cậu đã ngủ được sao?”

Nate nhìn thẳng vào mắt anh. Nate giả ngây trong phút chốc, rồi nháy mắt. “Sao lại không?” Nate hỏi. “Những bức tường dày đến ba mươi xen ti mét, và cách âm.”

Clive gật đầu. “Đúng vậy,” anh đáp, “nhưng mọi người đều để cửa sổ mở vào mùa hè. Cả Veek cũng vậy.”

“Ái chà. Có ai ở đây là không biết điều này cơ chứ?” Clive lắc đầu. “Bên phía dãy của chúng ta thì lại không như vậy đâu, không đâu.”

Andrew bước ra sân thượng. Anh ta mang theo một hộp đựng thức ăn chứa đầy cần tây và một hộp đựng bánh Value Saltines. “Tôi lại mang đồ ăn vặt đây,” anh ta thông báo với Veek. “Đồ giòn giòn của cô đây.”

“Tuyệt quá,” cô nói. “Cám ơn, Andrew.”

Anh ta dừng lại, rồi cái đầu lại nghiêng từ bên nọ sang bên kia. “Không có gì,”anh ta đáp.

Veek kéo một chiếc ghế ra khỏi chòi, đặt cạnh thùng đá và coi nó như một chiếc bàn nhỏ. Tim đã cho hết số bia vào thùng đá, và mở chai bia đầu tiên. Tiếng rít của nó vang cả tầng thượng. Tất cả mọi người bắt đầu tụ tập xung quanh khu vực ghế xếp theo hình vòng cung và nhận đồ uống. Clive vặn nắp một chai rượu gừng to. Debbie và Veek đều định lấy vài cái bánh của Andrew, và anh nở một nụ cười rạng rỡ tỏ ý bằng lòng.

“Được rồi,” Nate lên tiếng. Anh nhấp một ngụm bia. “Tối ngày thứ hai, nói ngắn gọn, thì tôi đã có một giây phút ‘nổi hứng‘, xem xét căn hộ của mình, và tìm ra một xác người nằm sát phía bên kia tủ quần áo. Chẳng còn lại gì ngoài những mẩu xương.” Anh để mọi người đồng loạt xôn xao trong vài giây. “Chúng ta đã khá chắc đó là Aleksander Koturovic.”

“Anh có một bộ xương người trong tủ quần áo của mình sao?” Xela cười toe toét.

Andrew giơ tay lên xin được nói. “Xin thứ lỗi cho tôi có thể hỏi một câu được không, nhưng vì sao anh lại khá chắc đó là ông ta?”

Nate nhún vai. “Chúng ta không thể biết chắc, nhưng mọi thứ có vẻ ăn khớp với nhau,” anh nói. “Chúng ta biết Koturovic đã bị đâm và phải chạy trốn. Chúng ta biết ông ta đã cảnh báo tất cả mọi người đang sống tại đây về tổ chức The Family of the Red Death. Chúng ta biết rằng thi thể ông ta chưa được tìm thấy. Tôi không phải là chuyên gia, nhưng thi thể đó đã nằm trong tường trong ít nhất bảy mươi đến tám mươi năm. Và quần áo của ông ta trông có vẻ cũ kĩ, đó là xét về lối ăn mặc. Có một cái nơ dưới cổ áo.”

“Ơ này,” Clive nói chen ngang, “những cái nơ đó rất hợp thời đấy.”

“Vậy là có một cái xác chết phía sau bức tường căn hộ của anh,” Xela nói. “Và một bảng điều khiển trong căn hộ của Debbie và Clive. Tôi thấy rất khó chịu khi nghĩ rằng những thứ đó cũng tồn tại trong căn hộ của mình.”

Mandy gãi gãi đầu rồi xoắn những lọn tóc vàng trên tay mình. “Bảng điều khiển ư?”

Nate gật đầu còn Debbie hắng giọng. “Căn hộ của chúng tôi là một phòng điều khiển toàn bộ tòa nhà,” chị nói. “ Những bức tường có một mặt quay vào trong và trên đó có đầy đủ các công tắc, núm gạt điều khiển, đồng hồ đo và tất cả các công cụ khác.”

Clive gật đầu. “Trông nó rất đồ sộ.”

“Tôi xin lỗi.” Andrew lại giơ tay, trông như một thằng nhóc đang bối rối. “Xin lỗi. Tôi không hiểu.”

Nate nhìn anh. “Anh không hiểu điều gì cơ?”

Miệng Andrew mấp máy đến ba hay bốn lần mà không hề phát ra một lời nào, trông như một con cá đang đớp đớp không khí.

“Anh đang nói cả tòa nhà chính là một cỗ máy sao?” Cuối cùng anh ta cũng bật được ra. “Liệu không phải đang có thứ gì được giấu trong tòa nhà này đấy chứ?”

“Đúng vậy,” Veek nói. Cô giậm giậm chân trên mặt sàn gỗ. “Nếu anh lột bỏ tất cả các mảng sơn và thạch cao trên tường, anh sẽ trông thấy những sợi cáp, khung và cả những đường dây điện nữa.”

“Tôi phải nói lại lần nữa rằng,” Clive chen ngang, “toàn bộ cỗ máy này rất đồ sộ, giống như trong một bộ phim khoa học viễn tưởng vậy, được xây dựng bởi Tesla từ những lý thuyết của Koturovic.”

“Tôi cũng tìm ra cháu trai của Whipple là H.P.Lovecraft, một cây bút chuyên viết truyện kinh dị,” Veek nói.

“Không thể thế được,” Clive và Xela cùng thốt lên. Veek uống một ngụm bia lớn và gật đầu.

“Vậy là,” Nate nói, “Chúng ta đã biết nhà khoa học đi trước thời đại, người đã khám phá ra một mối đe dọa xuyên không gian có ảnh hưởng đến toàn bộ trái đất. Ông ta đã kể các thuyết khoa học của mình cho Whipple nghe và thuyết phục ông ta cung cấp cho họ hàng tấn tiền để xây dựng nên nơi này, với sự giúp đỡ của Tesla. Whipple sau đó đã đến và kể toàn bộ những thuyết khoa học và câu chuyện này cho Lovecraft, người đã viết tất cả những điều nghe được vào câu chuyện về Cthulhu.”

“Sao lại thế?” Debbie nói. “Cậu có nghĩ là những câu chuyện này được viết như một lời cảnh báo giúp mọi người cảnh giác và sẵn sàng không? ”

Tim lắc đầu. “Khả năng chẳng phải là bất cứ điều gì cả. Tôi nghĩ Whipple chỉ muốn trút bỏ gánh nặng khỏi đầu và người cháu trai ‘sáng lạn’ của ông ta có vẻ là một mục tiêu thích hợp cho chuyện này.”

Nate gật đầu. ”Đủ thông minh để có thể nói chuyện cùng, nhưng anh ta không hề kể với mọi người rằng Whipple bị điên. Anh ta chỉ giả định rằng đó là toàn bộ những câu chuyện.”

“Những người khác sẽ đều nghĩ vậy,” Xela nói. “Thế còn căn hộ số 14?” Clive nói. “Chúng ta có biết bất cứ điều gì về nó không?”

Nate lắc đầu. “Lúc này ý kiến của Roger khác hoàn toàn ý kiến của chúng ta, nhưng lại là giả thuyết hợp lý nhất.”

Debbie ho lên. “Thế còn bà Knight thì sao?”

“Tôi đã kiểm tra qua căn hộ của bà ấy tối qua,” Tim nói. “Không có bất kỳ một tin nhắn nào trong máy tính của bà ấy. Từ một vài thứ có thể nhìn thấy, tôi không nghĩ rằng bà ấy có công việc hay có quan hệ gia đình với bất kể người nào. Không ai báo bà ấy mất tích. Tôi không muốn nói khó nghe, nhưng... việc này có khi lại tốt cho chúng ta.”

Debbie chăm chú nhìn vào một miếng ván ngay dưới chân mình.

“Tôi còn tìm thấy một túi đựng thức ăn cho mèo rất to và miệng túi đã bị cắt bằng dao. Trông có vẻ như bọn mèo đã rất đói, chúng vục đầu vào đó. Theo như những gì tôi nhận thấy,” Tim nói với Debbie, “những con mèo này sẽ không bị chết đói đâu. Chúng đều rất tròn trĩnh và béo quay.”

Chị ngước lên và mỉm cười với Tim, nhưng xem ra có vẻ rất miễn cưỡng. “Cám ơn bác,” chị đáp lại.

Veek nghiêng đầu sang một bên. “Bác không lo về việc sẽ để lại dấu vân tay hay DNA hoặc cái gì đó tương tự trong phòng bà ấy sao?”

“Không. Thậm chí là có đi chăng nữa, mặc dù tôi không hề để lại bất kỳ dấu vết nào, thì họ cũng sẽ không tìm kiếm những thứ như thế. Đó không phải là hiện trường vụ án, mà chỉ là một căn hộ bị bỏ lại.”

“Chuyện gì đã xảy ra với bà Knight vậy?” Mandy hỏi. Debbie lại nhìn xuống miếng ván gỗ. Time trao cho Nate một cái gật đầu nhẹ.

“Ừm, chuyện này khá phức tạp,” Nate nói. “Bà ấy bỏ đi một thời gian.”

Mandy lăn tăn với câu trả lời này trong đầu. “Bởi vì những gì chúng ta đang làm ở đây ư?”

“Ừm,” Debbie nói. Chị trả lời bằng một giọng nói sắc lạnh. “Vì những gì chúng ta đang làm.”

Mandy có chút bối rối nhưng sau cùng cũng gật đầu. Nate ấn tượng với cái cách mà cô ta chấp nhận sự thật vì Debbie có một chút hàm ý trong câu trả lời của mình. Anh nhìn qua Andrew để xem liệu rằng anh ta có chấp nhận không.

Andrew trông không có vẻ đã nghe thấy họ nói chuyện. Anh ta đang “âu yếm” chai nước của mình và lẩm bẩm những mã Morse vô nghĩa.

“Tôi xin lỗi,” Andrew lên tiếng. “Xin thứ lỗi cho tôi lần nữa. Tôi chỉ muốn chắc chắn rằng tôi hiểu anh đang nói gì.” Anh nhìn xuống những ván gỗ của tấm phản phơi nắng rồi lại nhìn vào căn phòng thang máy quá khổ. “Anh đang nói rằng toàn bộ tòa nhà Koturovic này là một cỗ máy ư? Chúng ta đang sống trong một cỗ máy?”

“Đúng vậy,” Tim nói. “Đây là một cỗ máy rất lớn, họ đã được ngụy trang như một tòa nhà. Họ cho những người như chúng ta thuê, giống như một mánh che mắt thiên hạ.”

“Và căn hộ của Clive và Deborah là phòng điều khiển trung tâm của toàn bộ cỗ máy này?”

Clive gật đầu.

Đầu Andrew lại nghiêng hết từ bên nọ sang bên kia. “Thật là hấp dẫn.” Anh ta thốt lên.

Tim mỉm cười rồi nâng chai bia của mình lên. “Vì Aleksander Koturovic,” Tim nói. “Ông ta đã cứu cả thế giới và chưa một ai biết điều này.”

“Vì Aleksander,” Nate hùa theo.

Họ cùng hùa theo và cụng bia với nhau, thậm chí có cả Debbie. Andrew trông có vẻ bối rối trong chốc lát rồi cũng nâng chai nước của anh ta lên với một điệu cười to hết cỡ.

Bầu trời chuyển sang sắc cam và họ cùng ngắm hoàng hôn bên nhau.