← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 31

Người đàn ông mang tên Carmichael theo dõi Tim tính đến thời điểm này đã được gần hai tháng ròng. Hắn xác định sẽ theo dõi ông trong vòng ba tháng. Hy vọng rằng, họ không bắt hắn phải làm công việc này thêm nữa. Đã có một hoặc ba lần một tuần, một ý nghĩ nhen nhóm trong tâm trí hắn rằng Tim có thể là công việc của hắn trong tương lai gần, một công việc khiến hắn phát ớn. Tim Farr đã bị rơi vào tầm ngắm trong suốt mười tháng quan sát và năm năm theo dõi.

Một vài người nghĩ rằng công việc theo dõi giống như một buổi biểu diễn ngọt ngào, nhưng đối với Carmichael thì không phải vậy. Một năm ròng rã “phục kích” trong xe khiến hắn phát điên. Hắn không hề có ý định ký hợp đồng để theo dõi những nhân viên đã nghỉ hưu hay những chuyên gia đã bị đuổi việc. Cứ cho là họ không hề có ý định theo dõi các nhân viên văn phòng hay các chuyên gia đó, vậy phải có lý do nào đó mà một người đàn ông như Tim lại được chú ý đến vậy.

Carmichael viết nhanh lại những ghi chú vào cuốn nhật ký khi hắn để ý tới một nhóm người ở phía bên kia đường. Sau sáu tuần, hắn đã biết tất cả những cư dân sống trên con phố này. Hắn chưa bao giờ trông thấy bất kỳ một người nào trong số họ trước đây. Bốn người đàn ông. Hắn có thể thấy họ từ phía bên kia của con phố. Rất khó nhận diện, những gì hắn có thể nhận ra là họ thuộc những người sống ở vùng Địa Trung Hải hoặc Đông Âu. Một trong số đó có thể là võ sĩ, gã mặc một chiếc áo thể thao hoodie màu xám, mũ áo được kéo xuống thấp đủ để che giấu khuôn mặt. Đó là bộ quần áo dày. Gã có thể là một tay đòi nợ thuê. Có một vài người giống như họ sống quanh khu vực lân cận.

Nhóm người này dừng lại trước tòa nhà Kavach. Một lát sau, hai người đàn ông cùng hai người phụ nữ khác đi xuống đồi và nhập vào nhóm. Họ trông hao hao giống người Slaver.

Hắn chuyển sang chiếc máy tính xách tay và gõ một vài dòng ghi chú về nhóm người này. Những chuyên viên phân tích thời gian thực đang chờ đường lệnh được mã hóa phía bên kia, cho dù lúc này đã là tám giờ bốn mươi bảy phút ngày thứ sáu. Bất cứ điều gì có đôi chút nghi ngờ cũng sẽ được chuyển thẳng cho họ.

Carmichael ngước lên từ máy tính. Ai đó đã đi ra khỏi tòa nhà. Andrew Waite, một kẻ cuồng Kinh thánh. Lý lịch hắn ta sạch sẽ một cách rùng rợn. Hắn ta vẫy tay ra hiệu với nhóm người này khi đứng ngay dưới chân cầu thang - một nhóm người đã nhóm lại đến hơn mười hai thành viên khi Carmichael cúi xuống nhập dữ liệu - và họ cũng vẫy tay đáp lại hắn ta. Một trong số đó gọi tên hắn ta và rồi hắn ta bước xuống mở cổng.

Một điều khác mà Carmichael quan sát được là một người phụ nữ lớn tuổi đi loanh quanh ngay trước mũi chiếc Taurus của hắn. Thân hình tròn trịa của bà được bọc trong một chiếc váy mùa hè và một chiếc áo khoác mỏng quá khổ, bà đội một chiếc mũ rộng vành mà chắc hẳn nó phải được làm từ một chiếc ô cũ. Bà lách người qua khe hở giữa ô tô của hắn và một chiếc xe tải phía trước và rồi lạch bạch tiến về phía khoang cửa lái.

Carmichael phải chạm trán với những người dân sống quanh đây ít nhất một lần một tuần. Người phụ nữ lớn tuổi sẽ hỏi đường hoặc yêu cầu hắn ta di chuyển chiếc xe của mình hoặc mời mọc hắn mua một thứ gì đó, ví dụ như hoa quả, những đĩa phim lậu hoặc chăn ga phòng ngủ. Đó có thể là một vài vấn đề liên quan tới văn hóa mà hắn ta không thể hiểu nổi. Đặt chiếc máy tính xách tay xuống ghế bên cạnh, hắn chuẩn bị tinh thần “tiếp đón” bà.

Người phụ nữ lớn tuổi hắng giọng. Đó là một giọng nói ướt át và khản đặc. “Xin lỗi,” bà nói bằng một giọng tiếng Anh bản địa đặc sệt. “Tôi xin lỗi, nhưng liệu tôi có thể cảm phiền anh chỉ đường giúp tôi được không? Hình như tôi đang bị lạc.”

“Cháu không sống quanh đây,” hắn nói. Hắn giữ cho chiếc máy tính xách tay của mình vẫn chạy ổn định và rồi đáp lại người phụ nữ bằng một cái nhìn lơ đễnh. “Cháu cũng muốn có thể giúp bà, nhưng tốt hơn hết là bà nên hỏi ai đó ở góc phố...”

Người phụ nữ đó dường như đang đeo mặt nạ Halloween. Rồi bà chớp mắt, Carmichael đã nghĩ rằng đó hẳn phải là một khuôn mặt giả. Ngay khi hắn ta nhận ra nó là thật và bắt đầu lục lọi tìm súng thì bà đã kịp với tay qua khung cửa xe để mở và bóp nghẹt khí quản hắn. Hắn vật lộn trong giây lát, chộp được khẩu súng, thì bà bắt đầu đập đầu hắn liên tục vào vô lăng. Bà dúi đầu hắn thêm ba lần nữa lên vô lăng trước khi chiếc túi khí chống tai nạn tự động bật ra với gam màu trắng loang lổ vết máu đỏ. Nó khiến cơ thể hắn bật trở lại và ép sát vào ghế ngồi sau tay lái.

“Dì Auntie,” Andrew gọi bà từ phía bên kia đường. “Dì đã xong việc chưa? Chúng ta không muốn bị muộn đâu.”

“Ta tới đây, cháu trai yêu quý,” người phụ nữ lớn tuổi đáp lại. Bà rụt tay lại và lắc nhẹ. “Chỉ là màn chào hỏi đầu tiên thôi.”

“Có lẽ chúng ta nên rời khỏi đây,” Debbie lên tiếng. Clive đang cảm thấy thèm một đồ uống gì đó cay cay. Anh đã nuôi ý định này kể từ cái ngày họ mở cửa căn hộ số 14. Thành thật mà nói, anh muốn được say mềm như thời trước đây, trước khi anh gặp Debbie, khi đó, anh có thể quên đi toàn bộ những ngày cuối tuần của mình. Nhưng những ngày xưa cũ đó cũng chẳng có gì tốt đẹp.

“Ý em là sao?” Clive hỏi lại.

Debbie nhún vai. “Chuyển đi. Tìm một nơi ở mới. Chúng ta đã luôn muốn làm việc này vào một ngày nào đó.”

“Một ngày nào đó khi em hoàn thành việc học hành ở trường hoặc anh có vị trí ổn định trong một chương trình biểu diễn.” Clive phân trần. “Chúng ta không thể trang trải cho việc này.”

“Chúng ta có thể lo liệu được.”

Clive lắc đầu. “Chúng ta có thể tìm được một chỗ như thế này, với mức giá tương tự ở nơi nào được cơ chứ?

Chúng ta phải rất may mắn mới kiếm được một căn hộ nhỏ, và có thể nó sẽ nằm ngoài thung lũng này.” “Sống ngoài thung lũng không đến nỗi tệ lắm.”

“Em sẽ phải mất thêm hai giờ đồng hồ mỗi ngày trên xe bus. Em ghét cái cảnh đó lắm mà.”

Debbie khoanh tay trước ngực. Sau năm năm sống với nhau, Clive biết đó không phải là một dấu hiệu không tốt. Anh vươn ra và nắm lấy tay chị. Những ngón tay anh vuốt ve bàn tay chị. “Thôi nào,” anh an ủi. “Có chuyện gì sao em?”

Debbie nhìn Clive trừng trừng.

Anh gật đầu. “Là do bà Knight phải không?”

“Bà Knight, những thứ quái quỷ sau bức tường nhà chúng ta, và những thứ phía bên kia hành lang. Đó là tất cả lý do.” Debbie chỉ tay về phía căn hộ số 14 và cả căn gác xép của họ. Mọi người đã giúp Clive chuyển nó ra khỏi tấm ván xoay và đặt nó nằm gần hơn với chiếc khóa rương. Anh đã thêm vào một vài thanh gỗ chịu lực giúp ổn định căn gác xép, và giờ, nó vẫn có thể tự đứng vững.

Ngón tay cái xoa xoa những ngón tay của vợ mình, Clive dần nới vòng tay chị mở rộng ra. “Nghe này,” anh nói, “nó vẫn còn tốt hơn gấp vạn lần so với những gì mà Nate đã tìm thấy trong căn hộ của cậu ta.” Clive cười âu yếm.

“Thấy không,” Debbie nói, “đó là những gì em vẫn lo nghĩ. Mọi người dường như đang đùa giỡn với tử thần.

Mọi thứ ở đây đều là sự chết chóc và chúng ta đang vờ như không.” Một giọt nước bắt đầu hình thành nơi khóe mắt người phụ nữ này chỉ chực trào ra. “Sẽ ra sao khi người phải chết là anh?”

“A,” Clive thốt lên.

“Anh đã bước chân vào không gian đó.”

Anh gật đầu thừa nhận. “Chỉ là để cứu những người bạn của chúng ta mà thôi.”

“Nhưng người phải chết rất có thể là anh,” Debbie nói. Chị siết chặt tay chồng mình hơn và rồi một giọt nước mắt xuất hiện bên khóe mắt còn lại.

“Đáng lẽ anh đã bị kẹt trong cái nơi quái quỷ đó giống như bà ấy. Và nếu anh cũng ra đi như thế thì họ cũng sẽ cố gắng giấu nhẹm việc này đi. Họ thậm chí chẳng buồn quan tâm.”

“Em yêu,” anh an ủi. “Không phải vậy đâu. Em biết là họ có quan tâm tới việc này mà.”

“Họ không hề quan tâm tới bà Knight.”

Clive xích lại và dùng ngón tay cái quệt những giọt nước mắt trên khóe mắt, trên mũi vợ mình. Miệng chị nở một nụ cười yếu ớt.

“Họ thực sự đã rất quan tâm,” Clive nói. Anh hôn lên những đốt ngón tay vợ mình và rồi nhìn thẳng vào mắt Debbie. “Anh sẽ phải nói điều này, nghe có vẻ hơi ích kỷ, nhưng anh muốn em nghe anh, được không?” Chị gật đầu.

“Chúng ta không hề biết bà Knight là ai,” anh nói. “Bà ấy sống ở đây. Bà ấy muốn tìm hiểu về nơi này. Nhưng bà ấy chỉ là một người bình thường sống ở cuối hành lang.”

“Điều đó không có nghĩa là chúng ta nên...”

Clive đặt một ngón tay lên môi vợ mình. “Chuyện này sẽ không làm cho chúng ta bớt đau buồn hơn. Nhưng bà ấy không phải là một người bạn của chúng ta, và chúng ta không hề biết bà ấy. Không một ai trong chúng ta biết bà ấy là ai. Hầu hết chúng ta chỉ nghĩ bà ấy là một bà già khó tính với tư tưởng phân biệt chủng tộc. Em cũng vậy mà.”

Debbie nhìn về phía đầu bàn.

“Chúng ta đều rất buồn về những chuyện đã xảy ra với bà ấy. Chúng ta đều ước chuyện này chưa từng xảy ra. Nhưng bà ấy gần như chỉ là một người xa lạ.” Anh dừng lại. “Họ sẽ không hành động như vậy, nếu đó là anh. Họ sẽ không để lại em một mình giống như những con mèo của bà ấy. Họ vẫn ở đây. Nate sẽ rất có thể sẽ tán tỉnh em chỉ vì em đẹp đến không chịu nổi.”

Debbie nhìn lên. Những giọt nước mắt đã quay trở lại trên khóe mắt. “Chú ý từ ngữ.”

“Anh xin lỗi.”

“Nate và Veek là một cặp mà.”

“Ừm, đúng. Cũng chẳng còn nghi ngờ gì về chuyện này sau tuần vừa rồi.”

Debbie khịt mũi và bật ra một tiếng cười, rồi đưa tay lên quệt vào hai khóe mắt. “Em yêu anh, anh biết mà!”

“Câu này mình đã nói với nhau ở hôn lễ rồi mà.” “Xin anh đừng bỏ mạng ở đây là được.”

Clive hôn lên những đốt ngón tay vợ mình lần nữa. “Anh sẽ không vậy đâu. Anh hứa.”

Một người nào đó đập mạnh cửa khiến cả hai đều giật bắt mình. Clive mỉm cười và nắm chặt tay vợ. “Em muốn ra mở cửa không?”

“Em vừa mới khóc,” Debbie nói. “Và như thế trông em sẽ rất kinh khủng.”

“Nhưng em sẽ được họ thông cảm thôi,” Clive nói. “Anh thật là xấu xa.” Debbie dụi mắt. Và cho dù bất cứ ai ở ngoài kia đang đập cửa thì nghe cũng có vẻ rất khẩn cấp. Chị đến bên cửa, nhìn qua lỗ mắt thần. Andrew đang đứng ngay giữa cửa căn hộ. Một số người khác đang đứng cùng với hắn ta, nhưng vì tầm nhìn hạn chế của lỗ mắt thần mà chị không thể chắc chắn được họ là những ai.

Debbie xoay chốt khóa và mở then cửa.

Khi cánh cửa đã được mở ra, Andrew dò xét khuôn mặt chị. Debbie nhìn nhanh về phía những người đứng phía sau Andrew và không hề nhận ra bất cứ ai trong số họ.

“Chúc một buổi tối tốt lành, Deborah,” Andrew lên tiếng. “Tôi rất xin lỗi về việc này.”

“Gì cơ? Liệu có chuyện gì...”

Andrew giáng một cú đấm thẳng vào xương quai hàm của Debbie. Hắn ta không đủ khả năng để tự mình đưa ra một nắm đấm thật mạnh, nhưng cú đánh bằng tay sốt sắng này vẫn đủ khiến Debbie loạng choạng lùi lại phía căn hộ. Hắn ta đẩy cửa và xộc vào ngay sau khi Debbie ngã xuống. Những người khác đi theo hắn ta. Người phụ nữ lớn tuổi đứng cuối nhóm người này, đóng cánh cửa lại và vặn chốt.

Clive nhìn thấy Debbie bị đẩy ngã và lao về phía trước, nhưng Andrew đã kịp vung cánh tay khác ra đỡ. Lần này thì hắn ta đã tạo ra một cú đấm thật sự. Đầu Clive ngoẹo hẳn sang một bên. Anh đã từng bị một thanh gỗ đập mạnh vào đầu, nhưng nó không mạnh như cú đánh ban nãy của Andrew.

Clive đã cố gắng suy nghĩ theo một hướng khác, đầu óc quay cuồng, và anh đang nằm trên sàn nhà gần Debbie. Chị chớp mắt trước sự bất ngờ này. Máu bắt đầu nhỏ giọt trên mũi chị và từ một bên khóe môi.

Clive cố gắng gượng dậy nhưng một người đàn ông đã đẩy anh nằm bẹp xuống. Một bên chân hắn có vấn đề. Clive có thể cảm nhận được hình dáng của nó qua chiếc giày thể thao rẻ tiền và tự hỏi rằng liệu đó có phải là một chiếc chân giả. Có lẽ là một chiếc chân điện tử.

Andrew đứng ngay trước chỗ họ. Hắn ta lại giở cái giọng Kinh thánh màu mè của mình ra và nhìn xuống hai người họ nhìn như lũ chó mèo.

“Hãy nghĩ về những ngày qua,” hắn ta lên tiếng, “hai người đã sống trong căn hộ này với một chiếc chìa khóa cứu rỗi thế giới mà không hề biết điều đó. Và điều này có lẽ đã đủ để khiến hai người nằm trong số những người được lựa chọn, mặc dù hai người không phải là thành viên của giáo hội chúng tôi.”

Người phụ nữ lớn tuổi tìm cách lách qua đám người kia để đứng cạnh Andrew. Có một điều gì đó rất kì lạ trên khuôn mặt bà. Khuôn mặt đó khiến Clive nghĩ tới những bức ảnh của một phôi thai, khi miệng vẫn chưa được hình thành rõ ràng mà chỉ là một đường thẳng và đôi mắt vẫn còn quá to và nằm quá xa trên khuôn mặt. Bà chớp mắt và Clive nhận ra nó to khủng khiếp. Màu trắng đục của đôi mắt kia đối lập với làn da xám xịt của bà. Andrew vỗ nhẹ cánh tay người phụ nữ lớn tuổi, giống như một đứa con trai quấn quít lấy mẹ.

“Đây là dì Auntie Bradbury,” hắn ta giới thiệu. “Và đây là những người anh em tinh thần của tôi, Zebediah, Lucas, Charles, và Howard.”

Họ lần lượt cúi đầu khi được giới thiệu tới tên mình. “Họ là những thành viên trong giáo hội của tôi,” hắn ta giải thích. “Anh có thể coi chúng tôi như một gia đình.”