← Quay lại trang sách

Chương 2

Sơ-tiếc-lít định bụng rằng hôm nay anh sẽ nghỉ việc sớm hơn một chút, để từ phố Hoàng tử An-bơ-rếch đánh xe đến Nau-ên: ở đấy, trong cánh rừng, giữa ngã ba đường có một tiệm ăn nhỏ của Pa-un. Cũng như một năm hay năm năm về trước, con trai của Pa-un là Tô-mát cụt chân không hiểu bằng cách nào vẫn xoay được khoản thịt lợn để thết các khách hàng quen của mình món bắp cải bọc thịt hầm, hay ít nhất thì cũng có món sốt-vang thỏ ăn với củ cải ngâm giấm.

Những lúc máy bay không ném bom, tưởng như chẳng có chiến tranh gì cả, bởi lẽ, hệt như ngày xưa, chiếc máy thu thanh quay đĩa vẫn hoạt động và cái giọng trầm của Bơ-ru-nô Va-rơn-ke vẫn hát: “Ôi, cảnh Mô-hen-dây đẹp biết chừng nào...”

Nhưng Sơ-tiếc-lít thế là không nghỉ việc sớm hơn được. Khôn-tốp làm bên Vụ IV của ghét-xta-pô ghé lại chỗ anh và nói:

- Tôi hoàn toàn rối trí mất rồi. Hoặc là thằng tù của tôi bị bệnh tâm thần, hoặc là phải chuyển nó sang bên cơ quan tình báo của các anh, bởi vì nó ăn nói hệt như bầy lợn Anh-cát-lợi đang kêu gào trên đài phát thanh vậy.

Sơ-tiếc-lít đi sang phòng làm việc của Khôn-tốp và ngồi ở đó đến bẩy giờ tối để nghe những lời lẽ điên khùng của một nhà thiên văn học bị Sở ghét-xta-pô ở Van-dây bắt ngày hôm kia, Ông ta đi rải những tờ truyền đơn do chính tay ông ta viết. Mỗi tờ có một nội dung khác nhau. Khôn-tốp đẩy về phía Sơ-tiếc-lít cả một tập. Sơ-tiếc-lít bắt đầu chọn các tờ giấy xé từ vở học sinh ra, trong đó có ghi: “Hỡi những người Đức! Hãy mở mắt ra! Bọn thủ lĩnh mất trí của chúng ta đang dẫn chúng ta đến chỗ chết! Thế giới nguyền rủa chúng ta! Hãy chấm dứt ngay chiến tranh! Hãy đầu hàng đi!”. Số tờ truyền đơn có nội dung như thế nhiều hơn cả. Những tờ khác viết ngắn gọn hơn: “Cầm đầu nước Đức là những thằng điên! Đả đào Hít-le! Hòa bình cho đất nước!”

Và giờ đây, ngồi trên chiếc ghế đầu gắn chặt xuống sàn, nhà thiên văn học lại kêu lên, không biết đến lần thứ mấy, một cách điên dại:

- Tôi không thể chịu đựng thêm được nữa! Không thể! Tôi không thể! Tôi muốn sống! Sống một cách bình thường, đơn giản, các người có hiểu hay không! Dưới chế độ phát xít, tư bản hay bôn-sê-vích đều được cả! Tôi không thể chịu đựng thêm nữa. Tôi nghẹn thở trước sự mù quáng, ngu ngốc, điên cuồng của các người!

- Đứa nào ra lệnh cho mày viết truyền đơn? - Khôn-tốp nhắc lại câu hỏi, theo đúng phương pháp lấy cung, giọng không quát tháo. - Tự mày không thể đi đến mức khốn nạn như thế được. Đứa nào trao nội dung các tờ truyền đơn cho mày? Bàn tay mày đã bị ý muốn của kẻ địch dắt dẫn, bày vẽ. Mày đã đánh hơi và kết bạn với kẻ thù nào của nước Đức, ở đâu và bao giờ?

- Tôi chẳng đánh hơi và kết bạn với ai hết! Tôi sợ phải nói với chính bản thân tôi! Tôi sợ hết thảy! - nhà thiên văn học hét to. - Chẳng lẽ các người không có mắt hay sao?! Chẳng lẽ các người không hiểu rằng giờ cáo chung đã điểm rồi?! Chúng ta đã tan nát! Chẳng lẽ các người không hiểu rằng mỗi sự hy sinh thêm lúc này đều là sự dã man hay sao! Các người luôn mồm ra rả nói rằng các người sống vì dân tộc! Vậy thì các người hãy cút đi! Các người hãy giúp đỡ những gì còn lại của dân tộc! Các người dồn những đứa trẻ bất hạnh vào chỗ chết! Các người là những kẻ cuồng tín, những kẻ cuồng tín tham tàn leo lên nắm chính quyền! Các người no nê phè phỡn, các người hút những loại thuốc lá đắt tiền và uống cà phê thả cửa! Hãy để cho chúng tôi được sống như những con người, chứ không phải như những kẻ nô lệ câm lặng! - Nhà thiên văn học đột nhiên dừng lại, lau mồ hôi hai bên thái dương rồi thấp giọng kết luận: - Hoặc giả các người hãy giết chết tôi tại đây mau lên, để tôi khỏi phát điên vì hiểu ra sự bất lực của bản thân mình và sự ngu muội của cái dân tộc mà các người đã biến thành một bầy cừu hèn nhát.

- Rồi hẵng, - Sơ-tiếc-lít lên tiếng. - Kêu thét chưa phải là lý lẽ thuyết phục. Ông có đề nghị gì cụ thể không nào?

- Ngài bảo sao? - nhà thiên văn sợ hãi hỏi.

Giọng nói điềm tĩnh, từ tốn, xen lẫn nụ cười của Sơ-tiếc- lít đã gây nên ấn tượng trái ngược đối với nhà thiên văn học từ lúc bị bắt, ông ta đã quen nghe những câu thét mắng và những cái tát vào mặt, ông ta đã quen thấy như thế, chứ chưa được nghe lời nói dịu dàng.

- Tôi hỏi ông có đề nghị cụ thể gì không? Chúng ta làm thế nào để cứu trẻ em, phụ nữ và các cụ già? Ông khuyên nên làm thế nào để đạt mục đích đó? Phê phán và nổi giận bao giờ cũng dễ thôi. Dựa vào một chương trình hành động sáng suốt mới là cái khó.

- Tôi phủ nhận khoa chiêm tinh học, - sau hồi lâu suy nghĩ, nhà thiên văn học chậm rãi đáp, - nhưng tôi bái phục khoa thiên văn. Người ta đã triệt bỏ mất khoa thiên văn của tôi ở thành phố Kin-lơ...

- Vì thế mà mày nổi khùng phải không, hở đồ chó? - Khôn-tốp quát to.

- Đợi một chút đã, - Sơ-tiếc-lít nói và cau mày khó chịu, - không nên quát ầm lên như thế... Mời ông nói tiếp...

- Chúng ta đang sống trong năm mặt trời không yên tĩnh. Những vụ nổ của các tai lửa, việc truyền thêm một khối lớn năng lượng mặt trời ảnh hưởng tới các thiên thể, các hành tinh và các ngôi sao, ảnh hưởng tới nhân loại nhỏ bé của chúng ta...

- Chắc ông nhìn sao trên trời có thể tiên đoán được chuyện gì đó, - Sơ-tiếc-lít ngắt lời ông ta, - cho nên ông mới điên đầu lên phải không?

- Nhìn sao đoán số chỉ là linh tính, thậm chí có thể là một giả thuyết thiên tài nhưng không chứng minh được. Không, tôi xuất phát từ một giả thuyết thông thường, chứ hoàn toàn không có ý đồ nêu ra một giả thuyết thiên tài. Đó là mối tương tác giữa mỗi sinh vật sống trên trái đất với mặt trời và các vì sao... Và mối tương tác ấy giúp tôi đánh giá chính xác hơn, tỉnh táo hơn mọi sự kiện đang diễn ra trên mảnh đất của Tổ quốc tôi...

- Tôi sẽ rất thú vị nếu nói chuyện tỉ mỉ hơn với ông về đề tài đó, - Sơ-tiếc-lít nói, - Chắc anh bạn tôi sẽ cho phép ông trở về xà-lim nằm nghỉ vài hôm, rồi chúng ta sẽ quay lại câu chuyện này.

Khi nhà thiên văn học được dẫn di, Sơ-tiếc-lít nói:

- Ở mức độ nào đó, người này đang ở trong tình trạng tâm thần không bình thường, anh không thấy à? Tất cả các nhà bác học, văn sĩ, diễn viên đều có trạng thái tâm thần không bình thường theo kiểu riêng của họ. Phải có phương pháp tiếp cận riêng đối với họ, vì họ sống theo một lối sống do họ tự nghĩ ra. Anh hãy gửi lão già lập dị này đến bệnh viện của chúng ta cho họ giám định xem sao. Hiện thời chúng ta có quá nhiều công việc quan trọng, nên chẳng đáng tốn thì giờ vô ích cho những tên bẻm mép vô trách nhiệm làm gì, dù có thể chúng thuộc loại người tài năng. Giá như bây giờ là thời bình, thì chúng ta sẽ tống hắn vào trại tập trung, để người ta nhanh chóng rèn lại đầu óc hắn và sau đó hắn sẽ làm lợi cho đất nước và dân tộc bằng một hoạt động nào đó tại học viện hay trong một nhóm nghiên cứu... Còn hiện nay thì...

- Nhưng nó ăn nói như một thằng Anh-cát-lợi chính cống trên đài phát thanh Luân Đôn... Hoặc như một tên đảng viên xã hội - dân chủ bám đít Mát-xcơ-va vậy.

- Người ta sáng chế ra máy thu thanh là để nghe đài. Hắn đã nghe quá nhiều. Không sao, điều đó bình thường thôi. Bọn tình báo chúng tôi chả thèm chú ý đến chuyện đó. Vài ngày nữa, ta nên gặp lại hắn để thăm dò, xem hắn quả thực là một nhà bác học, hay chỉ là một kẻ mắc bệnh tâm thần. Nếu hắn là một nhà bác học nghiêm túc, tôi và anh sẽ đến gặp ngài Muyn-lơ hay ngài Can-ten-bơ-ru-ne để đề nghị cấp cho hắn một khẩu phần ăn thật khá và đưa vào trong núi, ở đấy vườn hoa khoa học của chúng ta đang nở rộ. Hắn sẽ thôi ba hoa, khi được làm việc ngoài vòng bom đạn, lại có bánh mì với bơ và một ngôi nhà đủ tiện nghi giữa rừng thông. Phải thế không nào?

Khốn-tốp nhếch mép cười:

- Nếu như mỗi người đều có một ngôi nhà trong rừng, nhiều bánh mì với bơ và ở ngoài vòng bom đạn, thì chắc chẳng có ai ba hoa cả...

Sơ-tiếc-lít chằm chằm nhìn Khôn-tốp, cho đến lúc hắn ta không chịu nổi cái nhìn của anh, phải tất tưởi xếp đi, đặt lại mấy chồng giấy tờ trên bàn, anh mới mỉm cười thân ái với người đồng sự cấp dưới của mình...

༺༒༻

“Bản tốc ký về cuộc họp ở dinh Quốc trưởmg. Dự họp có thống chế Cây-ten, I-ô-đơn, công sứ Kha-ven - đặc phái viên Bộ ngoại giao, chủ tịch của Đảng Quốc xã Boóc-man, thượng tướng SS Phê-ga-lai - đặc phái viên do hành dinh của thống chế SS Him-le phái tới, Bộ trưởng Công nghiệp Sơ-pe-lơ, đô đốc Phô-xơ, thiếu tá hải quân Luýt-dơ Nây-rát, đô đốc phôn Pút-ca-me, các sĩ quan tùy tùng, các nhân viên tốc ký.

Boóc-man: Ai đi đi lại lại ở đằng ấy mãi thế? Ồn quá! Xin giữ trật tự cho, các ngài quân nhân.

Pút-ca-me: Tôi đã đề nghị đại tá phôn Bê-lốp báo cáo cho tôi biết tình hình lực lượng không quân ở Ý.

Boóc-man: Tôi không nói đến ông ta. Mọi người đều nói cùng một lúc, điều đó luôn luôn gây nên tiếng ồn ào khó chịu.

Hít-le: Tôi thấy việc đó không làm phiền tôi. Ngài đại tướng này, trên bản đồ chiến sự chưa thấy ghi diễn biến tình hình ngày hôm nay ở Cuốc-lan-đi-a đấy.

I-ô-đơn: Thưa Quốc trưởng, ngài chưa để ý kỹ đấy ạ. Mấy chỗ này là dấu mới ghi sáng hôm nay.

Hít-le: Chữ để trên bản đồ quá nhỏ. Cám ơn, bây giờ thì tôi nhìn rõ rồi.

Cây-ten: Tướng Gu-đê-ri-an lại đòi rút các sư đoàn của chúng ta khỏi vùng Cuốc-lan-đi-a.

Hít-le: Đó là một kế hoạch thiếu khôn ngoan. Hiện nay quân của tướng Ren-đu-lích nằm sâu trong hậu phương quân Nga, cách Lê-nin-grát bốn trăm cây số, đang thu hút về phía mình từ bốn mươi đến bảy mươi sư đoàn Nga. Nếu chúng ta rút quân của ta ra khỏi vùng đó, tương quan lực lượng ở ngoại vi Béc Lanh sẽ lập tức thay đổi và hoàn toàn bất lợi cho chúng ta, chứ không như tướng Gu-đê-ri-an lầm tưởng. Trong trường hợp chúng ta rút quân khỏi vùng Cuốc-lan-đi-a, mỗi sư đoàn Đức ở ngoại vi Béc Lanh sẽ phải chống chọi với ít nhất ba sư đoàn Nga.

Boóc-man: Nên làm một nhà chính trị tỉnh táo, ngài thống chế Cây-ten ạ...

Cây-ten: Tôi là quân nhân, chứ không phải là chính khách.

Boóc-man: Đó là hai khái niệm không tách rời nhau trong thời đại chiến tranh tổng lực.

Hít-le: Để di chuyển quân ra khỏi vùng Cuốc-lan-đi-a, chúng ta cần ít nhất nửa năm, căn cứ vào kinh nghiệm chiến dịch Li-ba-va. Điều đó thật nực cười. Chúng ta chỉ được tính từng giờ, đúng là từng giờ thôi, để giành thắng lợi; căn cứ vào các sự kiện thực tế, chứ không phải vào những lão tướng hão huyền. Bất cứ ai có thể nhìn nhận, phân tích, kết luận, đều có trách nhiệm trả lời chỉ một câu hỏi như sau: có khả năng sắp tới giành được chiến thắng hay không? Tôi không hỏi để nghe lấy một câu trả lời cương quyết có tính chất mù quáng. Tôi không ưa niềm tin mù quáng, tôi tìm kiếm niềm tin dựa trên sự thông hiểu. Thế giới chưa hề chứng kiến một khối liên minh nghịch lý, ngược đời nào như khối các nước đồng minh hiện nay. Sự khác biệt về chất giữa các tư tưởng, khát vọng, nhân tố và tính cách có thể tạo nên một liên minh không phương hại gì đến mình, nhưng điều đó chỉ nói lên một tình thế bế tắc không lối thoát: tôi muốn nói giống như sự cầm tù ở trại tập trung. Ví dụ, ở đó, như người ta kể, các sứ thần của tòa thánh, những tên cộng sản vô thần và bọn cấp tiến Pháp có thể sống tâm đầu ý hợp trong một nhà với bọn bảo thủ Anh. Tình thế bế tắc đẻ ra liên minh. Đó là cái liên minh tuyệt vọng, liên minh vô vọng và phi chủ đích. Trong khi các mục đích của bọn Nga, Anh, Mỹ trái ngược hẳn nhau, thì mục đích của chúng ta hết sức rõ ràng đối với tất cả chúng ta. Trong khi chúng chuyền động do bị chi phối bởi sự khác biệt về khát vọng ý thức hệ, thì chúng ta vận động tiến lên nhờ một khát vọng duy nhất, cuộc sống của chúng ta lệ thuộc vào khát vọng ấy. Trong khi các mâu thuẫn giữa bọn chúng đang phát triển và sẽ phát triển, thì giờ đây, hơn bao giờ hết, sự thống nhất của chúng ta kết thành một khối vững chắc - sau nhiều năm gian khổ và vĩ đại, tôi đã đạt được điểm này. Phá vỡ khối liên minh giữa các kẻ thù của chúng ta bằng con đường ngoại giao hay các con đường khác đều là không tưởng. May lẳm là một sự không tưởng không kèm theo thái độ hoảng loạn và thất vọng. Chỉ bằng cách giáng cho chúng những đòn quân sự, chỉ có biểu lộ tinh thần không khoan nhượng và sức mạnh dồi dào của mình, chúng ta mới thúc đẩy ngày tận số của khối đồng minh đó mà thôi. Khối đồng minh sẽ tan vỡ, khi các vũ khí chiến thắng của chúng ta gầm lên. Không có gì tác động mạnh đến các giới dân chủ phương Tây bằng sự biểu dương lực lượng. Không gì có thể làm cho Xta-lin tỉnh táo bằng, một mặt, thái độ lúng túng của phương Tây, mặt khác, các đòn quân sự của chúng ta. Các ngài nên nhớ rằng, hiện nay, Xta-lin đang tiến hành cuộc chiến tranh không phải ở vùng rừng Bơ-ri-an-xcơ hay trên những cánh đồng U-cơ-ra-i-na, ông ta đang chỉ huy quân đội của mình trên lãnh thổ Ba-lan, Ru-ma-ni, Hung-ga-ri. Khi đặt chân lên những mảnh đất không phải là Tổ quốc mình, quân Nga đã yếu đi, và ở mức độ nhất định, đã mất tinh thần. Nhưng lúc này tôi không chú ý tối đa đến quân Nga hay quân Mỹ. Tôi rất chú ý đến những người Đức! Chỉ có dân tộc ta mới có thể và cần phải chiến thắng! Hiện nay, cả nước ta đã trở thành một pháo đài quân sự. Cả nước ta - tôi muốn nói đến nước Đức, nước Áo, nước Na-uy, một phần nước Hung-ga-ri và nước Ý, phần lãnh thổ đáng kể ở Tiệp Khắc và Bô-hêm nằm dưới sự bảo hộ, nước Đan Mạch và một phần nước Hà Lan. Đó là trái tim của nền văn minh Châu Âu. Đó là nơi tập trung sức mạnh vật chất và tinh thần. Yếu tố chiến thắng đã rơi vào tay chúng ta. Chúng ta, những quân nhân, lúc này giữ phần quyết định việc chúng ta sử dụng nhanh chóng tới mức nào yếu tố ấy để giành chiến thắng. Các ngài hãy tin ở tôi - chỉ sau mấy đòn quyết liệt đầu tiên của quân ta, khối đồng minh sẽ tan vỡ ngay. Những quyền lợi ích kỷ của mỗi nước trong khối đó sẽ che lấp không cho chúng nhìn thấy tầm chiến lược của vấn đề. Để giờ chiến thắng của chúng ta mau gần lại, tôi đề nghị như sau: tập đoàn quân xe tăng SS thứ sáu bắt đầu phản công ở ngoại vi Bu-đa-pét, để một mặt, bào đảm an toàn cho pháo đài phía nam của Đảng Quốc xã ở Áo và Hung, và mặt khác chuẩn bị thọc vào sườn bọn Nga. Các ngài nhớ cho rằng, chính ở đó, ở phía Nam, ở Nan-ca-ni-giơ, chúng ta có bảy mươi ngàn tấn dầu lửa. Dầu lửa - đó là dòng máu lưu thông trong các động mạch của chiến tranh. Tôi thà nộp thành Béc Lanh còn hơn để mất số dầu lửa ấy, vì nó bảo đảm cho tôi sự bất khả xâm phạm của nước Áo, làm cho nước Áo gắn làm một với quân đội gồm một triệu người của Két-xen-rinh ở Ý. Tiếp đó ở nhóm tập đoàn quân “Vi-xơ-la” sau khi tập hợp lực lượng dự bị sẽ dùng căn cứ quân sự Pô-mê-răng để tiến hành phản công quyết liệt vào sườn bọn Nga. Quân của thống chế SS sau khi chọc thủng tuyền phòng ngự của bọn Nga sẽ thọc sâu vào hậu phương chúng và giành thế chủ động. Được các đơn vị của Stét-tinh trợ giúp, họ sẽ chia cắt mặt trận của bọn Nga thành nhiều mảnh, vấn đề đưa lực lượng dự bị đến ứng cứu đối với Xta-lin là vấn đề của mọi vấn đề. Khoảng cách chống lại ông ta. Ngược lại, khoảng cách ủng hộ chúng ta. Bảy tuyến phòng ngự che chở Béc Lanh và thực sự làm cho nó bất khả xâm phạm sẽ cho phép chúng ta vi phạm các quy luật của nghệ thuật quân sự và di chuyển một khối lượng quân đáng kể từ phía nam và phía bắc sang phía tây. Chúng ta sẽ có dự trữ thời gian: Xta-lin phải mất hai, ba tháng để bố trí lại lực lượng dự bị, còn chúng ta chuyển quân chỉ mất năm ngày, các khoảng cách của nước Đức cho phép làm như vậy, bất chấp các truyền thống chiến lược.

I-ô-đơn: Dầu sao, giá có thể gắn vấn đề ấy với các truyền thống chiến lược thì vẫn hơn…

Hít-le: Ngài muốn nói gì thế, I-ô-đơn?

I-ô-đơn: Tôi thiết nghĩ điều đó rất sáng suốt và có tầm nhìn xa trông rộng, nhưng tôi cho phép mình không tán thành một điều là đem tách rời các chi tiết của kế hoạch này với các truyền chống của khoa học quân sự.

Hít-le: Tôi không nói đến chi tiết mà nói đến đại thể. Cuối cùng, các chi tiết riêng biệt bao giờ cũng có thể giải quyết được ở các ban tham mưu nhỏ các nhóm chuyên gia ngành hẹp. Giới quân sự có hơn bốn triệu người được tổ chức thành một quả đấm kháng cự khổng lồ. Nhiệm vụ của chúng ta là phải tổ chức quả đấm kháng cự khổng lồ ấy thành một miếng đòn chiến thắng khủng khiếp. Hiện nay, chúng ta đang ở vào thời kỳ giống như tháng tám năm 1938. Chúng ta thống nhất thành một khối vững chắc. Chúng ta, dân tộc Đức. Nền công nghiệp quân sự của chúng ta sản xuất số vũ khí nhiều gấp bốn lần so với năm 1939. Quân đội của chúng ta đông gấp hai lần so với năm đó. Lòng căm thù của chúng ta thật đáng sợ, ý chí chiến thắng của chúng ta vô cùng mãnh liệt. Tôi hỏi các ngài: chẳng lẽ chúng ta lại không giành được hòa bình bằng con đường chiến tranh hay sao? Chẳng lẽ chiến thắng quân sự lại không đẻ ra chiến thắng chính trị hay sao?

Cây-ten: Như ngài thủ lĩnh Boóc-man đã nói, nhà quân sự bây giờ đồng thời là nhà chính trị.

Boóc-man: Ngài không đồng ý chăng?

Cây-ten: Tôi đồng ý.

Hít-le: Ngài thống chế, tôi yêu cầu đến mai ngài đã phải chuẩn bị xong cho tôi những đề nghị cụ thể.

Cây-ten: Xin tuân lệnh Quốc trưởng. Chúng tôi sẽ chuẩn bị một kế hoạch đại thể và nếu Quốc trưởng duyệt y thì chúng tôi sẽ bắt tay vào việc hoạch định mọi chi tiết cụ thể”.

Thượng tướng SS Phê-ga-lai, anh vợ của Hít-le, sau khi trở về hành dinh của Him-le, đã thông báo cho hắn biết về cuộc họp cuối cùng dưới hầm boong-ke.

- Mọi giải pháp chính trị cho vấn đề, - Phê-ga-lai nói, - đều bị Quốc trưởng kiên quyết gạt bỏ.

- Giới quân nhân có thái độ như thế nào đối với kế hoạch của Quốc trưởng? - Him-le hỏi.

- Mỉa mai. Kể cũng lạ thật, nhưng chính giới quân nhân lúc này lại đi đến chỗ tin chắc rằng kết cục của chiến tranh không thể giải quyết bằng bất cứ con đường nào khác, ngoài giải pháp chính trị.

- Đầu hàng ư? - Him-le đăm chiêu hỏi, - Người ta đánh nhau đã mệt mỏi rồi chăng?

- Tại sao sứ nhất thiết phải đầu hàng? Thương lượng...

༺༒༻

Sơ-tiếc-lít về đến nhà lúc bảy giở, khi trời bắt đầu nhá nhem tối. Anh thích nhất mùa này trong năm: tuyết hầu như không còn nữa, sáng sáng những ngọn cây thông cao tràn ngập ánh mặt trời và tưởng chừng bây giờ đã đến mùa hè, có thể đi Mô-gen- dây chơi suốt ngày và ở đó tha hồ câu cá hay ngồi trên ghế bành mà ngủ.

Ở đây, tại Ba-ben-xbéc, một nơi rất gần Pốt-xơ-đam, anh hiện sống một mình trong ngôi biệt thự nhỏ của mình. Cách đây một tuần, bà quản lý lo việc nội trợ của anh, đã đi về chỗ cháu gái của mình ở Chu-rinh-ghi-a. Bà ta không thể chịu đựng thêm những cuộc ném bom liên tục vì thần kinh đã căng thẳng tột độ.

Bây giờ người dọn dẹp nhà cửa cho anh là cô gái, con ông chủ quán rượu “Người đi săn”. Cô ta rất sáng ý, trẻ trung và xinh xắn. “Chắc cô này là người Xắc-xông, - Sơ-tiếc-lít nghĩ bụng, trong lúc nhìn cô gái khéo léo sử dụng chiếc máy hút bụi cồng kềnh ở phòng khách để làm sạch thảm, - tóc đen, mà mắt thì xanh da trời. Giọng nói của cô gái là giọng Béc Lanh thật đấy, nhưng chắc chắn cô ta vẫn là người Xắc-xông”.

Sơ-tiếc-lít nhìn chiếc đồng hồ kiểu cũ của mình và nghĩ bụng: “Đã đến lúc thay nó rồi. Giá như chiếc “Lông-gin” của mình nhanh hay chậm thì mình còn quen được. Chứ cái đồng hồ này lúc chạy chậm, lúc chạy nhanh, chẳng ra thể thống gì cả”.

- Mấy giờ rồi, cô bé? - Sơ-tiếc-lít hỏi.

- Gần bảy giờ ạ...

Sơ-tiếc-lit mỉm cười: “Cô bé sướng thật... Cô ấy có thể cho phép bản thân nghĩ rằng bây giờ “khoảng chừng bảy giờ”, “gần bảy giờ”. Những người hạnh phúc nhất trên trái đất là những người có thể tự do sử dụng thời gian mà hoàn toàn không sợ gì hậu quả... Nhưng đúng là cô này nói giọng Béc Lanh pha chút thổ ngữ vùng Mếch-len-bua”.

Nghe tiếng xe ô tô chạy lại gần nhà, anh gọi:

- Cô bé ơi, ra xem ai đến thế?

Anh đang ngồi trên ghế bành, cạnh lò sưởi trong căn phòng làm việc nhỏ bé của mình, nghe có tiếng kẹt cửa, cô gái ngó vào và nói:

- Có người bên Sở cảnh sát đến gặp ngài.

Sơ-tiếc-lít đứng dậy, vươn vai kêu răng rắc và đi ra cửa. Một hạ sĩ SS cầm chiếc lẵng to đang đứng ngoài đó.

- Thưa đại tá, người lái xe của ngài bị ốm, tôi thay anh ta mang suất ăn lại hầu ngài ạ...

- Cảm ơn, - Sơ-tiếc-lít trả lời, - Anh hãy để vào tủ lạnh. Cô bé sẽ giúp anh.

Anh không ra tiễn viên hạ sĩ khi hắn quay về. Anh chỉ mở mắt, khi cô gái bước vào phòng làm việc của anh không một tiếng động, cô dừng chân bên cửa và hỏi nhỏ:

- Nếu ngài Sơ-tiếc-lít muốn, em có thể ở lại ngủ đêm ở đây.

“Lần đầu tiên cô bé được nhìn thấy từng ấy thức ăn, - anh bỗng hiểu, - tội nghiệp cho cô bé”.

Anh mở mẳt, duỗi người ra và trả lời:

- Không nên... Không cần ngủ lại, nhưng em có thể lấy một nửa số pho-mát và giò về mà ăn...

- Sao ngài nghĩ như thế, ngài Sơ-tiếc-lít, - cô gái đáp, - em ở lại có phải vì mấy thứ thức ăn đâu...

- Em phải lòng tôi à? Em mê tôi quá hay sao? Mái tóc bạc của tôi đã làm cho em mê muội phải không?

- Trên đời này em thích nhất những người đàn ông tóc đã điểm bạc...

- Thôi được, chuyện tóc điểm bạc thì chúng ta sẽ còn quay lại... sau khi cô em lấy chồng... Em tên là gì?

- Ma-ri... Em đã thưa với ngài rồi mà... Ma-ri...

- Ừ, phải rồi.., mong em tha lỗi. Ma-ri. Ma-ri-a Mac-đa-li-na. Tất cả các cô bé tên là Ma-ri đều đầy rẫy tội lỗi, đúng không nào? Em hãy lấy thức ăn đi và đừng làm dáng nữa. Em bao nhiêu tuổi?

- Mười chín ạ.

- Ồ, một cô gái trưởng thành hẳn hoi rồi. Em từ vùng Xắc-xông đến đây lâu chưa?

- Lâu rồi ạ. Từ ngày cha mẹ em di chuyển đến đây.

- Thôi đi về nghỉ đi, Ma-ri. Kẻo tôi sợ sắp đến giờ oanh tạc, em đi đường nguy hiểm đấy.

Cô gái đã ra về. Sơ-tiếc-lít che kín cửa số bằng những chiếc rèm ngụy trang ánh sáng rồi bật chiếc đèn bàn. Anh cúi người về phía lò sưởi và lúc này mới nhận thấy rằng các thanh củi nhóm lò được xếp hình giếng tròn đúng như anh thích, ngay mấy miếng vỏ cây bạch dương cũng được để ngay ngắn trên chiếc đĩa xanh.

“Mình có bảo cô bé làm như thế không nhỉ... Có bảo hay không? Có, bảo qua thôi. Thế mà cô bé vẫn nhớ, - anh thầm nghĩ trong lúc châm lửa vào miếng vỏ cây bạch dương, - tất cả chúng ta đều nghĩ đến thế hệ trẻ theo quan niệm của những ông giáo già, và khách quan nhìn vào thì thấy cái đó buồn cười thật. Mình thì đã quen coi mình như một ông già bốn mươi chín tuổi rồi còn gì...”

Sơ-tiếc-lít đợi cho ngọn lửa thèm khát liếm lem lém các thanh củi bạch dương khô cong, anh mới đi lại bàn mở đài. Anh nghe thấy đài Mát-xcơ-va đang truyền đi một bài tình ca cổ xưa. Sơ-tiếc-lít nhớ có lần Gơ-rinh nói với đám sĩ quan tham mưu của hắn: “Nghe đài địch là không có tinh thần ái quốc, nhưng thỉnh thoảng mình cũng thích nghe xem kẻ địch bịa đặt những câu chuyện vô lý về chúng ta như thế nào.” Lúc ấy, Sơ-tiếc-lít hiểu rằng Gơ-rinh là một thằng hèn, thiếu thông minh: cả tên hầu cận lẫn tên lái xe cho hắn, - tên này đã bị Muyn-lơ thuê tiền, - đều báo tin rằng hắn lén nghe đài địch. Nếu tên “Quốc xã số hai” định dùng cách đó để thanh minh tội lỗi cho mình, thì như thế là hắn hèn nhát và hoàn toàn thiếu tin tưởng vào tương lai. Ngược lại, Sơ-tiếc-lít nghĩ, lẽ ra hắn chẳng cần phải giấu giếm chuyện hắn nghe đài địch một cách khôn khéo, mà chỉ cần chế giễu và nhạo báng luận điệu của đối phương là được. Điều đó chắc chắn sẽ tác động tới Him-le, một kẻ mà óc tư duy chẳng có gì đặc biệt lắm.

Bài tình ca kết thúc bằng khúc nhạc pi-a-nô êm đềm. Giọng nói xa xôi của phát thanh viên Mát-xcơ-va rõ ràng là một người Đức, bắt đầu truyền đi các tần số, qua đó có thể nghe các buổi phát thanh vào thứ tư và thứ sáu hàng tuần. Sơ-tiếc-lít ghi lại các con số. Đó là tín hiệu mật mã ấn định trước cho anh, anh đợi nó đã sáu ngày nay. Anh ghi các con số vào một cột thẳng hàng. Con số khá nhiều, và phát thanh viên có lẽ sợ người ta không kịp ghi chúng nên cẩn thận đọc lại một lần nữa.

Rồi những bài tình ca Nga du dương lại vang lên.

Sơ-tiếc-lít lấy từ trong tủ ra một cuốn sách nhỏ của Môn-ten, anh dịch con số thành chữ và đối chiếu các chữ ấy với khóa mật mã ẩn giữa những nhận xét thông thái của nhà tư tưởng vĩ đại và ôn hòa người Pháp.

Sau khi giải mã bức điện vừa thu được, anh đốt tờ giấy ghi các con số và chữ viết, trộn tàn giấy lẫn với tro trong lò sưởi và uống thêm một ly cô-nhắc.

“Các đồng chí ở nhà cho mình là thiên tài hay là người có thể làm nổi mọi việc? - Sơ-tiếc-lít thầm nghĩ, - Thật vô cùng nan giải... Mình không thể tin vào những cuộc tiếp xúc ấy...”.

Sơ-tiếc-lít có đủ mọi cơ sở để nghĩ như thế, bởi vì nhiệm vụ trên giao cho anh qua đài phát thanh Mát-xcơ-va mang nội dung như sau:

“A-lêch-xơ gửi Uy-xơ-tác.

Theo tin tức của chúng tôi, ở Thụy Điển và ở Thụy Sĩ đã xuất hiện những sĩ quan an ninh cao cấp SĐ và SS. Chúng đang tìm cách liên lạc với bọn điệp viên cơ sở của các nước Đồng minh. Đặc biệt, ở Béc-nơ bọn SĐ đang cố tìm cách tiếp xúc với các điệp viên của A-len Đa-lét. Đồng chí phải xác định rõ xem các ý đồ tiếp xúc ấy có phải là: 1) tin tức giả nhằm đánh lạc hướng? 2) sáng kiến riêng của các sĩ quan SĐ cao cấp; 3) nhiệm vụ của Trung tâm giao cho chúng, hay không.

Nếu các điệp viên của SĐ và SS thực hiện nhiệm vụ của Béc Lanh, thì phải xác định rõ: ai đã cử chúng đi làm nhiệm vụ ấy. Cụ thể là: kẻ nào trong số các thủ lĩnh cao cấp của Đức quốc xã tìm cách tiếp xúc với phương Tây?

A-LẾCH-XƠ”.

Uy-xơ-tác chính là anh, đại tá SS Sơ-tiếc-lít. Ở Mát-xcơ-va, chỉ có ba nhà lãnh đạo cao cấp biết anh là đại tá an ninh Liên Xô Mắc-xim Mắc-xi-mô-vích I-xa-ép mà thôi...

༺༒༻

... Sáu ngày trước khi bức điện mật gửi đến tay Sơ-tiếc-lít, Xta-lin, sau khi tìm hiểu những tin tức mới nhất do các chiến sĩ tình báo Liên Xô gửi về, đã mời Cục trưởng Cục tình báo tới nhà nghỉ của Người ở ngoại ô Mát-xcơ-va và nói:

- Chỉ những người ngây thơ về chính trị mới có thể cho rằng nước Đức đã kiệt quệ, và bởi vậy đã hết nguy hiểm... Nước Đức là một chiếc lò xo bị nén lại tới mức tối đa, mà người ta cần phải và có thể bẻ gẫy nó, bằng cách tận lực cố gắng ngang nhau từ cả hai phía. Ngược lại, nếu áp lực từ một phía biến thành điểm tựa hỗ trợ, thì khi bật ra, chiếc lò xo ấy có thể bật mạnh về phía ngược lại. Sức bật đó sẽ rất mạnh, bởi vì, một là bè lũ Hít-le còn hết sức cuồng tín, hệt như ngày trước, và hai là tiềm lực lớn của nước Đức còn lâu mới cạn. Bởi vậy, phá vỡ mọi âm mưu thương lượng giữa bè lũ phát xít với tất cả những thế lực chống Liên Xô ở phương Tây phải được các đồng chí xem như nhiệm vụ số một của mình. Đương nhiên, - Xta-lin nói tiếp, - các đồng chí phải hiểu rằng, các nhân vật chủ chốt trong những cuộc đàm phán riêng rẽ có thể diễn ra ấy chắc sẽ là những phần tử thân cận nhất của Hít-le, những kẻ có uy tín lớn trong nội bộ Đảng Quốc xã cũng như trong dân chúng. Bọn chúng, những phần tử thân cận nhất của Hít-le ấy, phải trở thành đối tượng tập trung chú ý của các đồng chí. Không còn nghi ngờ gì nữa, khi tên bạo chúa sắp đến ngày tận số, các phần tử thân cận nhất của hắn sẽ bán rẻ hắn để cứu lấy mình. Đó là tiền đề của mọi trò chơi chính trị. Nếu các đồng chí bỏ qua những quá trình có thể xảy ra ấy là các đồng chí có lỗi lớn...

Đâu đó xa xa vẳng lại tiếng còi báo động phòng không và tiếng cao xạ lập tức nổ giòn. Nhà máy điện cắt điện và Sơ-tiếc-lít ngồi im khá lâu bên lò sưởi nhìn những ngọn lửa xanh đang liếm các đầu thanh củi màu đỏ sẫm như những con rắn.

“Nếu đậy nắp thông hơi lại, - Sơ-tiếc-lít uể oải nghĩ bụng, - thì ba giờ sau mình sẽ thiếp đi, nói như người ta vẫn nói, một giấc ngàn thu... Mình với bà nội của mình đã suýt ngủ một giấc như thế ở I-a-ki-man-ca, khi bà cụ đậy nắp lò quá sớm, trong lúc ở đó vẫn còn những mẩu củi đỏ sẫm và những lưỡi lửa xanh như thế này. Cái thứ hơi đốt mà hai bà cháu mình bị đầu độc vốn không có màu và hoàn toàn không mùi vị... Theo ý mình...”.

Chờ cho các mẩu củi đen hẳn lại và không còn những lưõi lửa xanh, Sơ-tiếc-lít mới đậy nắp thông hơi, châm một ngọn nến lớn cắm vào cổ một chai sâm-banh, và lấy làm lạ rằng mình đã tạo nên một lớp vẩy nến bao xung quanh chai. Anh đã đốt khá nhiều nến, chiếc chai vì thế bị vẩy nến hầu như che lấp hết cả; trông nó giống như một chiếc bình cổ kỳ quặc, sần sùi, màu trắng nhạt, Sơ-tiếc-lit nhờ các bạn mình, những người có việc sang Tây Ban Nha, mua về cho anh các loại nến màu khác nhau. Rồi anh đem những chiếc chai lạ lùng ấy đi tặng những người quen.

Hai tiếng nổ mạnh vang lên rất gần nhà anh.

“Bom tấn rồi, - anh xác định. - Họ ném bom giỏi lắm. Đúng là họ ném bom giỏi thật. Dĩ nhiên, nếu họ nện trúng xuống nhà mình thì đáng trách quá. Anh em ta sẽ chẳng còn tìm ra dấu vết của mình ở đâu nữa. Nói chung, phải chết tan xác thì thật là khó chịu. Xa-sen-ca ơi, - bỗng nhiên anh như nhìn thấy khuôn mặt vợ anh. - Xa-sen-ca, vợ yêu của anh ơi; Xa-sen-ca, con trai lớn của bố ơi… Bây giờ bố chẳng muốn chết tí nào. Dù nhà có sụp xuống, thì bằng bất cứ cách nào, bố cũng phải chui ra. Nếu chỉ có một mình trên đời thì chết cũng chẳng đáng sợ lắm. Chứ đã gặp con rồi thì bố không muốn chết tí nào. Những anh ngốc hay viết trong tiểu thuyết, rằng ông ta lặng lẽ nhắm mắt xuôi tay bên cạnh những người thân yêu. Không có gì đáng sợ hơn là phải chết trên tay những đứa con yêu quí, chỉ được nhìn thấy chúng lần cuối cùng, cảm thấy chúng rất gần gũi với mình và hiểu rằng thế là vĩnh viễn biệt ly, thế là hết, chỉ còn lại nỗi đau khổ ghê gớm cho các con...”

Một lần, Sơ-tiếc-lít có cùng với Sê-len-béc dự buổi chiêu đãi tại đại sứ quán Liên Xô ở phố Un-te-đen-lin-đen. Tại đó, anh với Sê-len-béc có nói chuyện với một nhà ngoại giao trẻ tuổi Liên Xô. Với vẻ mặt ủ dột - phong thái thông thường của mình - anh lắng nghe cuộc tranh luận giữa nhà ngoại giao Nga với tên Cục trưởng cục tình báo chính trị quốc xã về cái quyền của con người tin vào lá bùa hộ mệnh, vào linh tính và mọi trò nguyên thủy khác, theo cách nói của người bí thư sứ quán. Cũng như tất cả mọi lần, trong cuộc tranh luận vui vẻ này, Sê-len-béc tỏ ra khôn khéo, biết chứng minh và nhân nhượng. Sơ-tiếc-lít nổi giận, khi thấy hắn lôi anh bạn Nga vào vòng tranh luận.

“Hắn đang rọi đèn pha, - anh thầm nghĩ, - để nhìn cho kỹ đối phương. Tính cách con người bộc lộ rõ rệt hơn bao giờ hết trong khi tranh cãi. Điều đó Sê-len-béc biết nhận ra hơn bất kỳ ai”.

- Nếu ngài hiểu rõ tất cả mọi điều trên thế giới này, - Sê-len-béc nói tiếp, - thì khi đó đương nhiên ngài có quyền bác bỏ niềm tin của con người vào sức mạnh của lá bùa hộ mệnh. Nhưng liệu ngài đã hiểu rõ tất cả mọi điều hay chưa? Ý tôi không muốn nói đến ý thức hệ, mà tới vật lý, hóa học, toán học...

- Có nhà vật lý hay toán học nào, - đồng chí bí thư sứ quán nhà ta hăng lên, - lại đeo lá bùa lên cổ rồi mới bắt tay tính toán bao giờ? Điều đó thật vô nghĩa.

“Anh ta chỉ nên dừng lại ở cuối câu hỏi thôi mới phải, - Sơ-tiếc-lít thầm nhận xét, - nhưng anh ta đã không kìm được, nên đã tự trả lời câu hỏi của mình. Trong lúc tranh luận, điều quan trọng là đặt câu hỏi, như thế sẽ thấy rõ phía đối phương, và lại trả lời bao giờ cũng phức tạp hơn là đặt câu hỏi...”.

- Nhà vật lý hay nhà toán học có thể đeo bùa hộ mệnh nhưng không trưng nó ra lắm chứ? - Sê-len-béc hỏi: - Hay là ngài phủ nhận khả năng đó?

- Phủ nhận khả năng nào đó là điều ngây thơ. Phạm trù khả năng là một cách nói khác của khái niệm triển vọng.

“Trả lời được... - Sơ-tiếc-lít lại nhận xét thầm, - Nên hỏi móc lại, chẳng hạn “Ngài có đồng ý như thế không?” Nhưng anh ta lại không hỏi mà cứ tiếp tục hứng đòn”.

- Như thế, có lẽ chúng ta cũng nên liệt cả lá bùa hộ mệnh vào phạm trù khả năng chưa rõ rệt chăng? Hay là ngài phản đối điều đó?

Sơ-tiếc-lít quyết định đỡ lời:

- Bên Đức đã thắng trong cuộc tranh luận, - anh khẳng định, - song để cho được công tâm, cũng phải thừa nhận rằng, trước những câu hỏi tuyệt diệu của nước Đức, nước Nga đã đưa ra những câu trả lời không kém phần tuyệt diệu. Chúng ta đã giải quyết xong đề tài này, nhưng tôi không hiểu phía chúng tôi sẽ ăn nói ra sao, nếu bên Nga giành chủ động trong tấn công bằng cách hỏi trước...

“Hiểu ý chưa, anh bạn?” - cặp mắt Sơ-tiếc-lít lộ vẻ dò hỏi, và căn cứ nét mặt của nhà ngoại giao Nga, Sơ-tiếc-lít biết rằng anh ta đã hiểu bài học của anh.

“Đừng nóng giận, anh bạn thân mến, - anh nghĩ khi nhìn nhà ngoại giao bỏ ra chỗ khác, - người đáng nổi nóng là tôi, chứ không phải ai khác... Có điều là anh bạn đã sai, khi nói về lá bùa hộ mệnh... Những lúc tôi hết sức khó khăn và cần quyết định một nước cờ liều lĩnh - mà nước cờ của tôi bao giờ cũng nguy hiểm chết người - thì tôi lại đeo lá bùa hộ mệnh lên ngực. Đó là nắm tóc của Xa-sen-ca... Tôi đã phải vứt chiếc bao do vợ tôi khâu đi vì nó có vẻ của người Nga rõ quá, và mua một chiếc bao của Đức, vừa nặng, vừa đắt tiền, để đặt nắm tóc vàng rượi của vợ tôi - của Xa-sen-ca vào trong. Và nắm tóc ấy chính là lá bùa hộ mệnh của tôi…”.

Hai mươi ba năm trước, ở Vla-đi-vô-xtốc, anh được gặp Xa-sen-ca lần cuối, trước khi lên đường hoàn thành nhiệm vụ do đồng chí Đgiéc-gin-xki giao phó: nhập vào đám bạch vệ lưu vong; đầu tiên anh sang Thượng Hải, rồi tới Pa-ri. Từ cái ngày mưa gió, đáng sợ, xa xôi ấy, hình ảnh nàng luôn luôn sống trong anh, nàng đã trở thành một bộ phận của cơ thể anh, hòa làm một với anh, biến thành một phần “cái tôi” của anh...

Anh nhớ lại buổi gặp gỡ tình cờ giữa anh với đứa con trai vào một đêm khuya ở Cờ-ra-cốp. Anh nhớ lúc “Gờ-ri-san-tsi-cốp” đến khách sạn gặp anh như thế nào. Hai cha con bật đài và thì thầm nói chuyện với nhau. Anh đã đau khổ ra sao, khi phải tạm biệt đứa con trai mà số phận đã xui khiến nó chọn đúng con đường của anh. Sơ-tiếc-lít biết rằng, con trai anh đang ở Pra-ha, rằng nó có nhiệm vụ cứu thành phố ấy khỏi bị nổ tung, hệt như anh đã cùng thiếu tá Vi-khơ-ri cứu thoát thành phố Cờ-ra-cốp. Anh biết rằng công việc của mình hiện giờ đang hết sức phức tạp, nhưng anh cũng hiểu rằng mọi ý đồ tìm cách gặp mặt đứa con - từ Béc-Lanh đến Pra-ha xe chỉ chạy hết cả thảy sáu giờ đồng hồ, - đều có thể dẫn anh tới chỗ nguy hiểm.

Sơ-tiếc-lít đứng dậy, lấy một cây nến, rồi bước lại bàn. Anh rút mấy tờ giấy ra và đặt đều trên bàn như khi chơi đố bài. Trên một tờ, anh vẽ một người cao to. Anh định viết chữ Gơ-rinh bên dưới, nhưng lại thôi. Trên tờ thứ hai, anh vẽ mặt Gơ-ben, trên tờ thứ ba anh vẽ một khuôn mặt to có vết sẹo: Boóc-man. Nghĩ một lát, anh viết trên tờ - thứ tư mấy chữ: “Thống chế SS”. Đó là chức vị của cấp chỉ huy anh - Hen-rích Him-le.

Gạt ba tờ sang một bên, Sơ-tiếc-lít dịch lại gần mình tờ có vẽ hình Gơ-rinh và bắt đầu vẽ những hình tròn và hình vuông mà chỉ một mình anh hiểu. Anh nối các hình ấy lại với nhau bằng hai nét đậm, một nét nhạt hoặc chỉ bằng những nét chấm mờ.

... Người chiến sĩ tình báo, nếu đang ở nơi tập trung những sự kiện quan trọng nhất, phải làm một người cực kỳ đa cảm, thậm chí dễ xúc động như một diễn viên, nhưng cái tính đa cảm ấy phải được che giấu bởi sự lạnh lùng của một thứ lô-gích chắc chắn và rõ ràng.

Những khi tỉnh giấc giữa đêm khuya, đôi lúc Sơ-tiếc-lít cho phép tự coi mình đang là I-xa-ép. Anh lập luận như sau: làm một chiến sĩ tình báo chân chính nghĩa là thế nào? Thu lượm tin tức, phân tích, chọn lọc các sự kiện khách quan rồi chuyển về trung tâm để khái quát về chính trị và tìm ra giải pháp chăng? Hay là rút ra những kết luận của chính mình, vạch rõ triển vọng của mình và đề xuất các dự định của mình? Và nếu mi, Mắc-xim I-xa-ép, chính mi cảm thấy chính xác cái mà mi đang mong đợi trong tương lai, thì mi có quyền tác động tới tương lai ấy hay không! I-xa-ép cho rằng cái bất hạnh của công tác tình báo thể hiện ở chỗ: khối lượng thông tin quá lớn lấn áp mất triển vọng, che giấu nó, làm cho các quyết định mang tính chất chủ quan, chứ không còn là những hậu quả khách quan của việc phân tích sự thật, dù sự thật ấy đáng buồn hay đáng vui đến mức nào. I-xa-ép nghĩ rằng nếu cho phép ngành tình báo lo việc vạch kế hoạch chính trị, thì có thể xảy ra tình hình là ý kiến đề nghị quá nhiều, mà tin tức lại quá ít. I-xa-ép cho rằng, anh, một chiến sĩ tình báo, trước hết phải có thái độ khách quan. Sẽ rất tệ hại, nếu ngành tình báo hoàn toàn lệ thuộc vào một đường lối chính trị vạch ra từ trước điều đó đã xảy ra với Hít-le, khi hắn vì tin vào sự suy yếu của Liên Xô, đã bỏ ngoài tai những ý kiến thận trọng của giỏi quân sự nêu ra, rằng nước Nga không yếu ớt như người ta tưởng. Cũng sẽ rất tệ hại, nếu ngành tình báo mưu toan bắt chính trị lệ thuộc vào mình. Sẽ lý tưởng, nếu người làm công tác tình báo thấy rõ triển vọng của sự phát triển quan trọng nhất của các sự kiện và đề nghị với các nhà chính trị hàng loạt giải pháp mà người ấy cho là hợp lý nhất.

I-xa-ép nghĩ rằng người chiến sĩ tình báo có quyền nghi ngờ tính chất đúng đắn của những dự kiến do mình đưa ra. Anh ta không có quyền xa rời phương pháp khách quan trong khi nghiên cứu thực tại.

Giờ đây, khi bắt tay vào việc phân tích lần cuối cùng vốn tài liệu mà anh đã thu thập được suốt trong những năm qua, Sơ-tiếc-lít phải cân nhắc tất cả các lý lẽ “tán thành” và “phản đối” của mình; vấn đề này liên quan tới số phận hàng triệu con người, do đó anh không thể phạm sai lầm trong khi phân tích.

... Lần đầu tiên, Sơ-tiếc-lít tập trung toàn bộ chú ý xem xét kẻ kế tục Hít-le - tên “quốc xã số hai” - là Gơ-rinh vào tháng tư năm 1943, sau trận ném bom của tám trăm “pháo đài bay” của Mỹ xuống thành phố Kin-lơ. Thành phố bị hủy diệt hoàn toàn, Gơ-rinh báo tin cho Quốc trưởng rằng trong trận ném bom ấy có ba trăm máy bay địch tham gia, Thị trưởng thành phố Kin-lơ là Gơ-rốc, tóc bạc trắng sau những ngày đêm bị ném bom, đã đưa ra những số liệu bác bỏ lời Gơ-rinh trong trận ấy có tám trăm “pháo đài bay” tham gia và lực lượng không quân Đức đã hoàn toàn bất lực, không thể cứu nổi thành phố.

Hít-le nín lặng nhìn Gơ-rinh, chỉ thấy da mặt hắn giật giật khinh bỉ, tay trái hắn không biết đặt vào đâu, tưởng chừng cả người Quốc trưởng ngứa ngáy như người mắc bệnh vẩy nến. Rồi sầm sầm nổi giận:

- Sẽ không một trái bom nào của kẻ địch rơi xuống các thành phố Đức chứ?! - Hít-le nói to, giọng đau đớn, mắt không nhìn Gơ-rinh. - Ai đã huyênh hoang tuyên bố như thế với nhân dân? Ai đã làm cho Đảng ta tin như vậy?! Tôi có đọc trong sách thấy người ta viết về các kiểu đánh bài, tôi không lạ gì khái niệm đánh lừa! Nước Đức không phải là chiếc bàn lót nhung cho người ta ngồi đánh bài! - Hít-le hầm hầm nhìn Gơ-rinh và nói tiếp: - Ngài đã chìm sâu vào cuộc sống xa hoa, đài các, ngài Gơ-rinh ạ! Giữa lúc chiến tranh mà ngài sống như một ông hoàng hay như một tên trùm tài phiệt Do Thái! Ngài đem cung tên đi bắn hươu, trong khi máy bay kẻ thù đem bom đạn trút xuống đầu dân tộc tôi! Sứ mệnh của một lãnh tụ - đó là sự cao cả của dân tộc. Bổn phận của lãnh tụ là phải khiêm tốn! Nghề nghiệp của lãnh tụ là thực hiện đúng các lời hứa của mình!

Sau đó, người ta được biết rằng, nghe xong những lời ấy, Gơ-rinh đã về nhà mình và đi nằm với thể trạng sốt cao, kèm theo những cơn co giật thần kinh ghê gớm. Hắn liền đến thăm các thành phố bị ném bom, gặp mặt dân chúng, yêu cầu lập tức cứu chữa những người bị thương và giúp đỡ các nạn nhân, tổ chức lại lực lượng phòng không của thành phố, rồi sau đó đi nằm với thể trạng sốt cao; huyết áp tăng lên, tay chân lạnh ngắt, thái dương nhức như búa bổ, trán đau như bị vòng sắt siết căng. Him-le, trong lúc cố thu thập các tài liệu cho hồ sơ tố cáo Gơ-rinh của mình, đột nhiên gặp cái trò vờ vịt ấy, liền yêu cầu cho hắn xem kết luận của bác sĩ. Song các số liệu khám nghiệm của y tế đều xác nhận rằng huyết áp của Gơ-rinh quả có tăng vọt lên thật.

Thế là, năm 1942, lần đầu tiên Gơ-rinh, người kế tục chính thức của Hít-le đã bị phê phán một cách nhục nhã đến thế trong lúc đủ mặt văn võ bá quan. Sự kiện ấy lập tức được đưa ngay vào hồ sơ của Him-le và sáng ngày hôm sau, chẳng cần xin phép Hít-le, viên thống chế SS đã ra lệnh tiến hành nghe trộm mọi cuộc nói chuyện điện thoại của “người bạn chiến đấu thân cận nhất của Quốc trưởng”.

Lần đầu tiên, được sự đồng ý của Quốc trưởng, trong vòng một tuần lễ Him-le đã ra lệnh nghe trộm các cuộc nói chuyện của thống chế Gơ-rinh sau vụ tai tiếng với em mình là An-be Gơ-rinh. Sau khi Gơ-rinh anh đưa Gơ-rinh em từ Viên đến Pra-ha phụ trách việc xuất khẩu của các nhà máy hãng “Scô-đa”, vốn nổi danh là người bảo vệ những ai bị lăng nhục, Gơ-rinh em đã lấy một bản mẫu của ông anh và viết mấy chữ cho tên chỉ huy trại tập trung Mau-khau-den: “Lập tức trả tự do cho giáo sư Kít vì không có chứng cớ đáng kể về ông ta”. Rồi ký tên dưới chữ “Gơ-rinh”. Không kèm thêm chữ cái ở đầu tên, họ. Tên chỉ huy trại tập trung sợ quá, vội thả hai người tên là Kít một là giáo sư, còn người kia là cán bộ cộng sản đang hoạt động bí mật. Gơ-rinh phải tốn nhiều công sức mới cứu em khỏi bị trừng phạt, bằng cách kể cho Quốc trưởng nghe câu chuyện ấy như một giai thoại nực cười. Sự việc trót lọt, và Him-le lập tức tránh sang một bên và cũng vừa cười đùa vừa kể lại chuyện đó hệt như Quốc trưởng.

I-xa-ép xác định với mình rằng, nội đung chủ yếu trong lời phê phán của Hít-le đối với Gơ-rinh, sau vụ thành phố Kin-lơ bị ném bom, là Hít-le nhắc đến cảnh sống sa hoa, vương giả. Chính cái điều mà suốt mười năm qua toàn bộ bọn cận thần khác của Hít-le cố tìm cách moi móc nhưng luôn luôn được Quốc trưởng bảo vệ, nay đã bị Hít-le quy thành tội của kẻ kế tục mình.

Tuy nhiên, sau sự kiện ấy, Hít-le vẫn nói với Boóc-man:

- Không một ai khác có thể kế tục tôi, ngoài Gơ-rinh. Một là, không bao giờ ông ấy can thiệp vào đường lối chính trị độc lập, hai là, ông ấy có uy tín với dân chúng và, ba là, ông ấy là đối tượng chính để báo chí đối phương tập trung châm biếm và đả kích.

Hít-le đã nói như thế về cái người đã tiến hành toàn bộ hoạt động thực tế nhằm thâu tóm quyền lực, cái người đã nói hết sức thành thực và với vợ mình, chứ không phải với ai khác, và không phái trước các máy ghi âm - lúc ấy hắn không tin rằng, một lúc nào đó, các chiến hữu của hắn lại có thể nghe trộm lời hắn - vào ban đêm, lúc đang nằm trên giường, như sau:

- Không phải anh đang sống, mà là Quốc trưởng đang sống trong anh...

༺༒༻

Là phi công lái máy bay chiến đấu trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ nhất, người hùng của nước Đức đế chế, sau thất bại của cuộc bạo động đầu tiên của bọn quốc xã, Gơ-rinh chạy trốn sang Thụy Điển. Hắn bắt đầu đi làm phi công hàng không dân dụng ở bên đó và một lần, trong lúc chở hoàng thân Rô-den, mặc dù gặp cơn bão khủng khiếp, Gơ-rinh vẫn may mắn và khéo léo cho máy bay của mình hạ cánh an toàn xuống lâu đài Rô-cơn-stát. Tại đây, hắn làm quen với cô Ca-ri-na phôn Cát-xốp, con gái của đại tá phôn Phốc, khiến cô ta bỏ chồng để lấy hắn, rồi hắn quay về Đức gặp Hít-le, tham gia cuộc biểu tình của Đảng Quốc xã ngày 9 tháng mười một năm 1923, bị thương, nhưng kỳ lạ thay lại không bị bắt. Hắn liền xuất dương sang In-xơ-brúc, nơi Ca-ri-na đang chờ hắn. Hai vợ chồng hắn không có tiền, nhưng được lão chủ khách sạn nuôi không, vì lão ta cũng là đảng viên Quốc xã như Gơ-rinh và rất cay cú trước việc người Do Thái chiếm giữ bảy mươi phần trăm khách sạn ở In-xơ-brúc. Sau đó, chủ khách sạn “Bri-ta-nhơ”, mời vợ chồng Gơ-rinh tới Vê-nê-xi-a và hắn sống ở đó cho đến năm 1937, đến ngày nước Đức công bố lệnh ân xá. Gần nửa năm sau, cùng với mười một đảng viên Quốc xã khác, Gơ-rinh trở thành nghị sĩ quốc hội Đức. Bấy giờ Hít-le không được ra ứng cử vì hắn là người Áo.

Cần phải chuẩn bị cho cuộc bầu cử mới. Theo quyết định của Hít-le, Gơ-rinh thôi công tác đảng và chỉ còn làm nghị sĩ quốc hội. Nhiệm vụ của hắn hồi ấy là phải tìm cách liên hệ với những nhân vật có thế lực đương thời. Muốn giành lấy chính quyền, đảng Quốc xã phải có mối liên hệ rộng rãi. Theo quyết định của đảng, Gơ-rinh thuê mệt biệt thự lộng lẫy ở phố Ba-đen. Hoàng thân Gô-ghen-txô-le, hoàng thân Cô-bua và các trùm tư bản bắt đầu đến chơi nhà hắn. Linh hồn của biệt thự là Ca-ri-na. Là một phụ nữ quý tộc hết sức quyến rũ - con gái một viên chức cao cấp của Thụy Điển, vợ của một anh hùng trong chiến tranh, của một chiến sĩ từng bị đầy đọa, lưu lạc, của một người chống đối nền dân chủ thả lỏng ở phương Tây, một nền dân chủ không đủ sức chống lại “chủ trương phá hoại của bọn bôn-sê-vích”, Ca-ri-na đã thu phục được tất cả mọi người.

Cứ mỗi khi có tổ chức chiêu đãi, thì Gơ-ben, bí thư đảng bộ Quốc xã Béc Lanh, lại tới nhà hắntừ sáng sớm, Gơ-ben là người liên lạc giữa đảng với Gơ-rinh, Gơ-ben ngồi chơi dương cầm, còn Gơ-rinh, Ca-ri-na và Tô-mát, con trai riêng của Ca-ri-na với người chồng trưởc, thì hát các bài dân ca; kẻ cầm đầu khối nghị sĩ quốc xã trong quốc hội không thể chịu nổi các nhịp diệu phóng khoáng của loại nhạc jazz Pháp, Mỹ.

Ngày 5 tháng giêng năm 1931, chính Hít-le, Sác-tơ và Ti-xen đã đến tòa biệt thự do đảng bỏ tiền ra thuê này. Chính biệt thự lộng lẫy này đã chứng kiến sự cấu kết giữa bọn trùm tư bản tài chính và công nghiệp với thủ lĩnh đảng Quốc xã Hít-le.

Sau đó là thắng lợi của Hít-le. Ca-ri-na đi máy bay sang thăm Thụy Điển và chết tại đó trong một cơn động kinh. Ước nguyện cuối cùng của ả là cứ để Ghéc-man Gơ-rinh làm tất cả những gì khiến nó trở thành người làm công cho Quốc trưởng.

Sau cuộc đảo chính của Rê-mơ, khi mà nhiều đảng viên lão thành phản đối thủ lĩnh, cho rằng y đã bán rẻ lý tưởng bẳng cách cấu kết với giới tư bản, thì trong các tổ chức cơ sở của đảng Quốc xã, người ta bắt đầu xì xào:

- Gơ-rinh không còn là Ghéc-man, ông ta đã trở thành tổng thống mất rồi... Ông ta không tiếp các đồng chí của mình, mà bắt họ xếp hàng chờ đợi trong văn phòng của ông ta... Ông ta đã đắm mình trong cảnh sa hoa, đài các…

Đầu tiên chỉ có những đảng viên thường xì xào với nhau. Nhưng đến năm 1935, sau khi Gơ-rinh xây dựng lâu đài Ca-rin-kha-le ở ngoại ô Béc Lanh, thì không phải các đảng viên thường nữa, mà ngay các nhân vật cỡ lớn của đảng Quốc xã như Lây và Dau-ken cũng đều phàn nàn với Hít-le về Gơ-rinh. Gơ-ben thì cho rằng Gơ-rinh đã bắt đầu trở nên sa đọa trong biệt thự của mình.

- Cảnh sống sa hoa làm cho con người trở nên đồi bại. - Gơ-ben nói, - cần phải giúp đỡ Gơ-rinh, vì ông ấy là người quá ư quí giá đối với tất cả chúng ta.

Hít-le đến xem xét kỹ lâu đài của Gơ-rinh rồi nói:

- Hãy để cho Gơ-rinh được yên thân… Rốt cuộc, chỉ có mình ông ta biết cách nên ra mắt các nhà ngoại giao phương Tây như thế nào. Ca-rin-kha-le sẽ là dinh thự tiếp đãi khách nước ngoài... Ta hãy làm như vậy! Ghéc-man xứng đáng với điều đó. Ta hãy coi Ca-rin-kha-le là tài sản của nhân dân, còn Gơ-rinh chỉ là người sống ở đó thôi...

Trong lâu đài ấy, theo lời đại sứ Tiệp Khắc Met-xơ-nưi báo tin về nước mà người ta nghe trộm được, Gơ-rinh luôn luôn có mặt ở nhà, say sưa đọc Giun Véc-nơ và Các-lơ Mây, hai nhà văn mà hắn ưa thích nhất. Tại đây, hắn đi săn hươu bằng cung tên, còn tối tối thì ngồi lỳ trong phòng chiếu phim hàng mấy giờ liền. Hắn có thể xem liền tù tì năm bộ phim trinh thám. Trong lúc xem phim, hắn thưởng an ủi khách khứa của mình:

- Các bạn đừng lo, đoạn kết bao giờ cũng có hậu...

Sơ-tiếc-lít gạt tờ giấy vẽ thân hình cao to của Gơ-rinh sang một bên và kéo tờ giấy vẽ mặt Gơ-ben nhìn nghiêng lại gần mình. Vì chuyên môn mò đến Ba-ben-xơ-béc, nơi đặt xưởng phim quốc gia và là nơi tất cả các nữ tài tử đang sống, cho nên Gơ-ben bị người ta gọi là “con bò đực Ba-ben-xơ-béc”. Trong hồ sơ về Gơ- ben, có đoạn băng ghi âm cuộc nói chuyện giữa phu nhân Gơ-ben với Gơ-rinh, khi Gơ-ben đang say mê cô tài tử Li-đa Ba-rô-va, người Tiệp. Lần ấy, Gơ-rinh bảo phu nhân Gơ-ben như sau:

- Ông ấy sẽ đập vỡ trán ông ta vì mấy mụ đàn bà cho mà xem. Thật là nhục nhã! Một người chịu trách nhiệm lớn lao về ý thức hệ của chúng ta, mà lại đi bôi nhọ mình bằng lối chơi bời gặp chăng hay chớ như thế!

Hít-le khuyên phu nhân Gơ-ben nên ly dị chồng:

- Tôi sẽ ủng hộ phu nhân, - Hít-le nói, - còn ông Gơ-ben thì tôi kiên quyết từ chối các cuộc gặp riêng, cho đến khi nào ông ấy hiểu rõ rằng, một đảng viên quốc xã chân chính, một người có đạo đức cao quý và biết thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng của mình trước gia đình, phải xử sự ra sao cho phải đạo...

Bây giờ, tất cả những chuyện ấy đã trở thành thứ yếu - tháng giêng năm nay, Hít-le có tới nhà Gơ-ben dự lễ sinh nhật. Hắn mang tặng phu nhân Gơ-ben một bó hoa và nói:

- Xin lỗi vì tôi đã đến muộn, nhưng tôi đã phải đi khắp Béc Lanh mới mua được từng này hoa - ông bí thư đảng bộ quốc xã của Béc Lanh là Gơ-ben đã đóng cửa tất cả các cửa hàng hoa, vì cuộc chiến tranh tổng lực không cần đến hoa mà...

Bốn mươi phút sau, khi Hít-le đã ra về, phu nhân Gơ-ben bảo chồng:

- Quốc trưởng chẳng đời nào đến thăm vợ chồng Gơ-rinh như thế này...

Béc Lanh hàng ngày bị bom đạn tàn phá, mặt trận diễn ra cách thủ đô của nước Đức nghìn năm văn hi?