← Quay lại trang sách

Chương 3

Sơ-tiếc-lít từ phòng làm việc đi xuống nhà để xe. Thành phố vẫn đang bị ném bom như lúc nãy, nhưng bây giờ bom đang rơi ở một nơi nào đấy trong khu Sốt-sen, ít ra thì anh có cảm giác như thế. Sơ-tiếc-lít mở cổng, ngồi vào bên tay lái rồi bật công-tắc điện. Động cơ cực tốt lắp vào chiếc xe “Kho-rếch” của anh nổ rất đều và giòn. Sơ-tiếc-lít đánh xe ra ngoài, đóng cổng lại rồi phóng vút đi. Anh chỉ cho phép mình phóng vút đi như thế, những khi chỉ có một mình trong đêm tối, giữa lúc máy bay đang ném bom. Người Đức lái xe hết sức cẩn thận, chỉ có người nước ngoài: người Xla-vơ hay người Mỹ mới cho xe phóng vút đi như thế trong lúc đang đỗ.

“Vút lên, hỡi chiếc xe yêu quý”, - anh nghĩ bằng tiếng Nga, sau khi mở ra-đi-ô. Đài phát thanh đang truyền đi một bản nhạc nhẹ. Giữa những trận ném bom, người ta thường truyền đi những bài hát vui nhộn. Đã thành lệ: cứ mỗi khi chiến sự diễn ra ác liệt ngoài mặt trận, hoặc thành phố bị máy bay đánh phá dữ dội, đài phát thanh lại phát đi những chương trình vui nhộn, tức cười. “Nào, vút lên, hỡi chiếc xe yêu quý! Hãy phóng nhanh lên để khỏi trúng bom. Bom thường hay rơi vào các mục tiêu bất động, do đó xác suất bom rơi trúng mục tiêu di động rất thấp. Nếu ta phóng với tốc độ năm chục cây số một giờ, xác suất sẽ giảm xuống đúng năm mươi lần...”.

Anh rất thích đi ô tô. Mỗi khi nhận nhiệm vụ mà chưa biết cách thực hiện như thế nào, anh lại lái chiếc xe “Kho-rếch” của mình chạy hàng mấy giờ liền trên các đường phố vòng quanh Béc Lanh. Lúc đầu, anh chỉ nhìn phía trước và dận hết ga, tốc độ cao buộc anh phải tập trung chú ý, phải cảm thấy mình gắn làm một với chiếc xe, do đó đầu óc sẽ được giải phóng khỏi mọi ý nghĩ lớn nhỏ, khỏi những ý nghĩ loại trừ hay ngược lại, bổ sung lẫn nhau. Tốc độ cao là người trợ thủ của trí tuệ. Nó cho phép ta lãng quên hoàn toàn. Rồi cuộc dạo chơi bạt mạng chấm đứt ở một nơi nào đỏ, cạnh một quán rượu nhỏ có bán rượu cô-nhắc không cần phiếu - giữa những ngày khó khăn nhất của chiến tranh. Lúc ấy, có thể ngồi bên một chiếc bàn nhỏ cạnh cửa sổ, nghe cánh rừng lao xao, nhấp nháp hai ly rượu cô-nhắc “I-a-cô-bi” và bắt đầu chậm rãi suy tính tất cả những việc sắp phải làm. Sau khi phóng xe với tốc độ cực nhanh, các ý nghĩ kéo đến từ từ. Chuyến đi liều lĩnh giúp ta bình tâm, thư thái trong suy nghĩ - ít ra thì sự việc cũng đã diễn biến như thế đối với Sơ-tiếc-lít.

Hai chiến sĩ điện đài của anh - Ê-rơ-vin và Kết - sống ở khu phố Kê-pê-ni-cơ bên bờ sông Sơ-pơ-rê-ê. Hai vợ chồng họ đã đi ngủ. Dạo này Ê-rơ-vin và Kết đi ngủ rất sớm, vì Kết sắp đến ngày sinh nở.

- Trông chị đẹp hẳn ra, - Sơ-tiếc-lít nói. - Chị thuộc vào số rất ít phụ nữ trở nên trẻ đẹp trong lúc có mang.

- Người phụ nữ nào có mang cũng đều trở nên trẻ đẹp cả, - Kết trả lời.- Chẳng qua anh không có khả năng nhận biết hiện tượng ấy đấy thôi...

- Không có khả năng nhận biết, - Sơ-tiếc-lít, cười, - điểm ấy thì chị nói đúng.

- Anh uống cà-phê sữa nhé? - Kết hỏi.

- Sữa ở đâu ra thế? Khỉ quá, tôi quên không mang sữa lại cho anh chị rồi.

- Tôi đem bộ com-lê đi đổi đấy, - Ê-rơ-vin đáp. - Nhà tôi rất cần uống sữa, dù chỉ chút ít. Thức ăn cho người phụ nữ có mang kể cũng lý thú thật.

Sơ-tiếc-lít xoa má Kết và hỏi:

- Chị ra chơi một bản nhạc gì cho chúng tôi nghe đi?

Kết bước lại bên dương cầm, lựa nốt và dạo một khúc nhạc của Bắc. Sơ-tiếc-lít đi ra phía cửa sổ và hỏi nhỏ Ê-rơ-vin:

- Anh đã kiểm tra chưa, xem chúng có gắn cái gì vào lỗ thông hơi của anh hay không?

- Tôi kiểm tra rồi. Theo tôi, không có gì cả. Nhưng sao đồng chí lại hỏi thế?

- Không sao cả. Vẫn đâu vào đấy. Để đề phòng thôi.

- Các ông bạn của đồng chí ở tổ chức SĐ lại mới sáng chế thêm một trò gì mới chăng?

- Chắc là như thế. Có quỷ biết chúng nó làm những gì. Loài người thích nhất các bí mật của người khác.

- Có chuyện gì vậy? - Ê-rơ-vin hỏi.

Sơ-tiếc-lít lắc đầu và hừm một tiếng.

- Anh hiểu không, - Sơ-tiếc-lít chậm rãi nói, - tôi mới nhận một nhiệm vụ... - Anh lại hừm một tiếng nữa. - Tôi phải tìm ra kẻ nào trong số bọn thủ lĩnh quốc xã đang chuẩn bị tiến hành đàm phán riêng lẻ với phương Tây... Các đồng chí ở nhà ý nói đến bọn trùm sỏ, chứ không phải loại thấp hơn. Nhiệm vụ ấy anh thấy thế nào hử? Có vui không? Chắc các ông ở nhà nghĩ rằng, nếu tôi đã hoạt động trót lọt suốt hai mươi năm qua, thì tôi làm gì cũng được. Làm thằng phó của Him-le cũng hay đấy. Hoặc nói chung ngoi được lên cương vị thủ lĩnh thì càng tốt. Hai-lơ 1 Sơ-tiếc-lít chăng? Anh có thấy dạo này tôi bẳn tính không?

- Anh bẳn tính được đấy. - Ê-rơ-vin đáp.

- Cô bé Kết định đẻ như thế nào đấy? - Sơ-tiếc-lít hỏi, khi Kết ngừng chơi đàn.

- Theo em, người ta đã sáng chế ra cách đẻ nào mới hơn đâu, - Kết trả lời.

- Hôm kia, tôi có nói chuyện với một bác sĩ phụ khoa... Tôi không muốn dọa hai bạn chút nào... - Anh bước lại bên Kết và đề nghị: - chơi nữa đi, cô bé. Tôi không muốn dọa bạn, mặc dù chính tôi đang hết sức lo sợ đây. Lão bác sĩ già ấy bảo tôi rằng, trong lúc đỡ đẻ, lão có thể xác định chính xác sản phụ là người nước nào.

- Tôi chưa hiểu ý anh. - Ê-rơ-vin nói.

Kết ngừng chơi đàn.

- Chơi tiếp đi, cô bé, chơi tiếp đi, - Sơ-tiếc-lít đề nghị, - và đừng có hoảng. Trước hết hãy nghe đã, rồi chúng ta sẽ bàn cách thoát ra khỏi tình trạng rắc rối đó. Trong lúc đau đẻ, phụ nữ thường kêu hét và rên rỉ. Cô hiểu chứ?

- Cảm ơn anh, - Kết mỉm cười, - nhưng em lại cho rằng đấy là họ đang ca hát.

Sơ-tiếc-lít lắc đầu, thở dài.

- Nhưng họ kêu thét bằng tiếng mẹ đẻ, hiểu chưa, cô bé. Họ kêu bằng thứ thổ ngữ nơi họ đẻ ra. Nghĩa là cô sẽ kêu “mẹ ơi” bằng tiếng Ri-a-dan2.

Kết tiếp tục chơi đàn, nhưng Sơ-tiếc-lít thấy đôi mắt chị đột nhiên rưng rưng lệ.

- Chúng ta làm thế nào bây giờ? - Ê-rơ-vin hỏi.

- Nếu gửi hai bạn sang Thụy Điển thì sao? Tôi có thể lo được chuyện ấy.

- Và anh sẽ mất sợi dây liên lạc cuối cùng chứ gì? - Kết hỏi.

- Tôi sẽ ở lại đây với anh Sơ-tiếc-lit, - Ê-rơ-vin nói.

Sơ-tiếc-lít lắc đầu:

- Người ta sẽ không cho phép Kết đi một mình. Chỉ có cùng đi với Ê-rơ-vin mới được. Với tư cách một thương phế binh của chiến tranh, anh ấy cần phải sang điều trị tại một an dưỡng đường, có bà con thân thuộc là người Đức ở Xtốc-khôm viết thư mời sang... Một mình Kết thì chúng sẽ không cho đi. Bởi vì, theo hồ sơ của cảnh sát, thì ông chú anh ấy là đảng viên quốc xã ở bên Thụy Điển, chứ không phải chú của Kết.

- Vợ chồng em sẽ ở lại đây, - Kết nói, - Không sao cả. Em sẽ kêu bằng tiếng Đức.

- Có thể chen thêm một vài câu chửi bằng tiếng Nga, nhưng nhất thiết phải theo cách phát âm Béc Lanh, - Sơ-tiếc-lít pha trò. - Ngày mai chúng ta sẽ quyết định việc này: chúng ta hẵy bình tĩnh suy nghĩ, không nên nóng vội và cũng chả cần phải ra vẻ anh hùng. Ta đi thôi, Ê-rơ-vin. Phải liên lạc với trung tâm. Căn cứ vào điện trả lời ngày mai, chúng ta sẽ quyết định dứt khoát.

Năm phút sau, họ đi ra khỏi nhà, Ê-rơ-vin xách một chiếc va-li, bên trong đựng điện đài. Họ đi xe khoảng mười lăm cây số, tới Răng-xơ-đoóc, ngoặt vào rừng rồi Sơ-tiếc-lít tắt động cơ. Máy bay vẫn tiếp tục ném bom, Ê-rơ-vin xem đồng hồ và hỏi:

- Ta bắt đầu chứ?

- Bắt đầu, - Sơ-tiếc-lít trả lời và rít một hơi dài điếu thuốc lá Pháp nặng “Gô-loa”. - Bắt đầu, - anh nhắc lại.

༺༒༻

“Uy-xơ-tác gửi A-lếch-xơ

Cũng như trước đây, tôi vẫn tin rằng không một chính khách quan trọng nào ở phương Tây lại đi đàm phán với SS hay SĐ. Tuy nhiên, vì được trao nhiệm vụ, nên tôi đã bắt tay thực hiện.

Tôi cho rằng, có thể hoàn thành nhiệm vụ, nếu tôi báo cho Him-le biết một phần tin tức mà tôi nhận được từ chỗ đồng chí. Dựa vào sự ủng hộ của hắn, sau đó tôi có thể trực tiếp theo dõi những kẻ mà đồng chí cho là đang tìm cách đàm phán với phương Tây. Bản “tố giác” của tôi gửi Him-le, các chi tiết tôi sẽ tự tổ chức ở đây, tại chỗ, không cần xin ý kiến của đồng chí, - sẽ giúp tôi thông báo về Trung tâm mọi tin tức sốt dẻo có tác dụng khẳng định hoặc gạt bỏ giả thuyết của đồng chí. Hiện nay, tôi chưa thấy có cách nào khác. Nếu đồng ý, đề nghị đồng chí báo cho Ê-rơ-vin biết.

                           UY-XƠ-TÁC”.

- Đồng chí ấy thất bại đến nơi rồi, - đồng chí chỉ huy Trung tâm nói, khi bức điện mật mã về tới Mát-xcơ-va, - Nếu đồng chí ấy trực tiếp nói với Him-le thì sẽ thất bại ngay và không gì cứu vãn được nữa. Cứ giả thuyết rằng Him-le quyết định chơi một canh bạc với đồng chí ấy chăng nữa... Mặc dù đồng chí ấy không phải là nhân vật có thể đánh bạc với tên thống chế SS. Sáng mai hãy lập tức gửi điện cương quyết cấm đồng chí ấy hành động như vậy.

Nhưng điều Trung tâm biết thì I-xa-ép không thể biết được, bởi vì các tin tức thu lượm trong mấy tháng vừa qua mở ra khả năng hiểu rõ cái nhân vật mang tên họ là Him-le.

༺༒༻

Hắn tỉnh giấc hoàn toàn, tưởng như có ai nắm lấy vai mà lay. Hắn ngồi dậy và đưa mắt nhìn rất nhanh xung quanh. Không khí tĩnh mịch. Kim dạ quang của chiếc đồng hồ báo thức nhỏ chỉ đúng 5 giờ.

“Còn sớm, - Him-le nghĩ bụng, - ngủ thêm một tiếng nữa mới phải”.

Hắn ngáp dài, ngả người xuống gối và quay mặt vào tường. Tiếng lào xào của rừng cây vọng vào qua cửa sổ thông gió để ngỏ. Tuyết rơi từ tối hôm qua và Him-le hình dung cảnh đẹp tuyệt diệu lúc này ở trong cánh rừng yên tĩnh, vắng vẻ giữa mùa đông. Bỗng nhiên, hẳn nghĩ rằng bây giờ mà phải đi vào rừng một mình thì sợ lắm - sợ như hồi bé vậy.

- Không, - đột nhiên Him-le nói nhỏ với chính mình. - Không, không và không bao giờ.

Hắn đứng dậy, khoác áo choàng và bước lại bàn. Không bật đèn, hắn ngồi xuống mép chiếc ghế bành bằng gỗ và đặt tay xuống chiếc ống nghe máy điện thoại màu đen.

“Phải gọi điện cho con gái, - hắn nghĩ, - Chắc con bé sẽ mừng lắm. Nó sống có vui vẻ gì cho cam”.

Dưới tấm kính của chiếc bàn viết to tướng, lờ mờ hình bóng hai khuôn mặt trẻ con.

Bất ngờ Him-le như nhìn thấy rõ bộ mặt của Boóc-man và nghĩ rằng cái tên vô lại ấy đã làm cho hắn lúc này không dám gọi điện cho con để nói: “Chào con mèo con! Bố đây. Con vừa nằm mơ cái gì đấy, mặt trời của bố?”. Lúc này hắn cũng không thể gọi dây nói cho hai đứa con trai, vì chúng là con của mụ vợ không có giá thú với hắn. Him-le nhớ rằng Boóc-man đã im lặng vào năm 1943 khi hắn xin vay trong quỹ của đảng tám mươi nghìn mác để xây dựng cho Mác-ta, mẹ của hai đứa con trai hắn, một biệt thự ở Ba-va-ri-a, xa hẳn khu vực bị ném bom. Hắn cũng nhớ rằng, sau khi được Boóc-man cho biết, Quốc trưởng đã nhìn hẳn dò hỏi mấy lần trong những lúc ăn tiệc chung ở Tống hành dinh. Chính vì thế mà hắn không đám li dị với người vợ chính thức, mặc đù hắn đã không sống ở nhà sáu năm trời. Hắn vẫn cứ phải dắt mụ đi dự các buổi chiêu đãi như thường.

“Boóc-man không dính dáng đến chuyện này, - Him-le tiếp tục nghĩ, - mình tưởng lầm đấy thôi. Thằng súc sinh béo tốt ấy không phải là thủ phạm gây ra nỗi đau khổ cho mình. Mình sẵn sàng chịu đựng mọi chuyện xấu xa trong việc li dị. Nhưng không bao giờ mình có thể đầu độc con bé”.

Him-le mỉm cười nhớ lại thời kỳ đầu tiên, khi hắn sống với người vợ và đứa con gái nhỏ trong một căn phòng lạnh lẽo ở Nuy-rem-be, trong cảnh đói kém. Trời, chuyện ấy xa xôi biết bao, nhưng cũng gần gũi biết bao! Mới có mười tám năm trôi qua. Hồi ấy, hắn làm thư ký cho Gờ-rê-go Sơ-tơ-rát-se, “ông anh” của Quốc trưởng. Hắn lưu lạc khắp nước Đức, hắn ngủ ngồi ở các nhà ga, ăn bánh mì không và uống một thứ nước tạm gọi là cà-phê, để lo việc chắp nối liên lạc giữa các tổ chức của đảng. Hồi bấy giờ, nghĩa là vào năm 1926, hắn không hiểu rằng ý đồ của Sơ-tơ-rát-se là thành lập các đội hiến binh SS, nảy ra không phải vì yêu cầu tất yếu, mà vì cuộc đấu tranh chống Rê-mơ, thù lĩnh của lực lượng SA, đã bắt đầu. Hồi ấy, Him-le tin tưởng sâu sắc rằng việc thành lập lực lượng SS là nhằm mục đích bảo vệ các lãnh tụ của đảng khỏi bàn tay “bọn Đỏ”. Hắn tin chắc rằng nhiệm vụ chính của “bọn Đỏ” là thủ tiêu vị lãnh tụ vĩ đại, người bạn duy nhất của nhân dân lao động Đức: A-đôn-phơ Hít-le. Hắn đã treo một bức chân dung khổng lồ của Hít-le phía trên chiếc bàn của mình. Một hôm, Hít-le ghé lại nhà Sơ-tơ-rát-se, khi nhìn thấy bên dưới bức chân dung to tướng của mình một thanh niên mặt rỗ gày gò, Hít-le nói:

- Có nên đặt một thủ lĩnh của đảng ở địa vị cao đến như thế so với mọi đảng viên quốc xã khác hay không?

Him-le trả lời:

- Giả sử ngài chỉ đơn thuần là một thủ lĩnh, thì tôi đã chẳng gia nhập Đảng, Tôi gia nhập đảng, vì cầm đầu nó là một vị lãnh tụ, chứ không phải một thủ lĩnh!

Hít-le đã nhớ hắn. Sơ-tơ-rát-se hình như cũng hài lòng trước câu trả lời của gã thư ký kỹ thuật của tổ chức đảng Quốc xã ở Ba-va-ri-a, nhưng trong thâm tâm hẳn để bụng giận cái kẻ được hắn nâng đỡ, lôi từ tầng lớp hèn kém nhất lên cương vị lãnh đạo, mà lại quên ơn hắn. Khi đề nghị Quốc trưởng cử Him-le làm thống chế chỉ huy các đội SS mới được tổ chức lại, Sơ-tơ-rat-se vẫn dự tính rằng lực lượng SS sẽ phục vụ trước hết là hắn, trong cuộc sống mái với Rê-mơ, để tranh thù ảnh hưởng cho đảng và cho Hít-le. Hai trăm tên SS đã được tập hợp lại dưới quyền hắn - chỉ có cả thảy hai trăm tên. Nhưng không có lực lượng SS thì Hít-le không thể thẳng lợi vào năm 1933 - Him-le hiểu rõ điều đó. Tuy nhiên, sau khi giành thắng lọi, Quốc trưởng chỉ cử hắn làm Chánh sở mật thám ở Muyn-khen. Gờ-rê-go Sơ-tơ-rát-se, người đã kết nạp Him-le vào đảng - nhà lý luận và tư tưởng gia của đảng, người có sáng kiến thành lập lực lượng SS, đã tìm đến nhà Him-le. Hồi ấy Sơ-tơ-rát-se đứng về phía đối lập với Quốc trưởng, đã tuyên bố thẳng với các đảng viên kỳ cựu rằng Hít-le đã bán mình cho bọn trùm tư bản công nghiệp.

Nhưng lần đó Him-le đã ngắt lời Sơ-tơ-rát-se, bằng cách nói với y rằng nghĩa vụ của mọi đảng viên Quốc xã là phải trung thành với Quốc trưởng.

- Ngài có thể đem các mối nghi ngờ của mình ra trình bày ở đại hội đảng, nhưng ngài không có quyền sử dụng uy tín của mình trong thế đối lập, vì điều đó phá hoại sự đoàn kết của Đảng.

Tối hôm ấy, ở nhà mình, biết rằng nơi ở của hắn bị trung tâm cảnh sát đặt máy nghe trộm - trung tâm này hồi đó nằm trong tay Gơ-rinh, - Him-le đã nói như sau, khi hắn cùng khách khứa ngồi ăn tiệc mừng ngày lễ:

- Trước đây, tôi mơ ước gây giống tầng lớp thượng lưu của dân tộc bằng cách tổ chức cho các nhân viên SS của tôi, vốn xuất thân từ các gia đình thường dân, kết hôn với các tiểu thư quý tộc. Nhưng bây giờ tôi có nhiệm vụ đấu tranh với các phần tử thù địch của dân tộc là bọn cộng sản, bọn Do Thái và lũ cha cố. Nếu Quốc trưởng đã muốn như vậy, thì tôi sẽ không tiếc sức.

Him-le chăm chú theo dõi mọi diễn biến ở Trung ương. Y thấy rằng, ở mức độ nhất định, thái độ say sưa với chiến thắng đã gạt công tác thực tiễn xuống hàng thứ yếu. Hắn cảm thấy, và điều đó không phải vô căn cứ, rằng các lãnh tụ của đảng ở Béc Lanh chỉ lo đến chuyện diễn thuyết tại các cuộc mít-tinh, tối tối đi dự những buổi chiêu đãi của Đoàn ngoại giao, - tóm lại là chỉ lo tận hưởng các thành quả ngọt ngào của thắng lợi mà đảng Quốc xã vừa giành được, Him-le cho rằng tất cả những chuyện đó đều quá sớm. Và thế là, trong khoảng thời gian một tháng, hắn đã tổ chức xong ở Đa-khao một trại tập trung kiểu mẫu đầu tiên.

Y nói:

- Đó là trường học tốt nhất nhằm thông qua lao động giáo dục trách nhiệm công dân Đức chân chính cho tám triệu kẻ đã bỏ phiếu cho bọn cộng sản. Nếu nhốt cả tám triệu đứa vào trại tập trung thì vô lý quá. Đầu tiên hãy gây không khí khủng bố trong một trại tập trung, rồi thả dần những đứa đã bị trừng phạt ở đó ra. Chúng sẽ là những kẻ tuyên truyền tốt nhất cho hoạt động thực tế của đảng Quốc xã. Chúng sẽ làm cho bè bạn và con cái của chúng biết cách mù quáng tuân theo chế độ của chúng ta.

Đặc phái viên của Gơ-rinh được cử đến chỗ hắn. Tên kia đi thăm Đa-khao mấy giờ đồng hồ rồi hỏi Him-le:

- Ông có nghĩ rằng trại tập trung này sẽ gây ra làn sóng công phẫn ở châu Âu và châu Mỹ hay không, dù chỉ là vì biện pháp này trái với công pháp?

- Tại sao ngài lại coi việc giam giữ những kẻ thù của chế độ là trái với công pháp?

- Bởi vì tuyệt đại đa số những người bị ông bắt đều không được ra tòa. Không có lời buộc tội, cũng chẳng có căn cứ gì vào hiến pháp cả…

Him-le hứa sẽ suy nghĩ về vấn đề ấy. Đặc phái viên của Gơ-rinh đi rồi, Him-le liền viết một bức thư riêng gửi cho Hít-le, trong đó hắn chứng minh hùng hồn rằng cần phải bắt giữ và cầm tù những người chống đối mà không cần lập tòa án xét xử gì hết. Hắn viết như sau:

“Đó chỉ là một biện pháp nhân đạo nhằm cứu kẻ thù của đảng Quốc xã khỏi cơn phẫn nộ của nhân dân mà thôi. Nếu chúng ta không giam các kẻ thù của dân tộc vào trại tập trung, chúng ta sẽ không thể bảo đảm cuộc sống cho họ được vì nhân dân sẽ lập phiên tòa xử tội họ”.

Và để cho bức thư ấy khỏi rơi vào tay bất cứ ai trong số các cận thần của Quốc trưởng, ngay ngày hôm đó Him-le tổ chức một cuộc mít-tinh lớn, trong đó hắn diễn thuyết đúng như vậy, nguyên văn từng lời, và ngày hôm sau diễn văn của hắn được in trên tất cả các mặt báo.

Cuối năm 1933, khi ở Sở mật thám Béc Lanh, nằm dưới quyền điều khiển trực tiếp của Gơ-rinh, nổ ra chuyện xô sát, thì ngay đêm đó Him-le từ Muyn-khen tới Béc Lanh và sáng hôm sau được Quốc trưởng tiếp. Hắn đề nghị Quốc trưởng trao “ngành cảnh sát chuyên ăn hối lộ của chế độ cũ” cho “những người con ưu tú của dân tộc”, tức lực lượng SS, kiểm soát.

Hít-le không thể làm phật ý Gơ-rinh. Quốc trưởng không trả lời Him-le điều gì dứt khoát. Nắm chặt tay hắn, Hít-le tiễn hắn ra đến cửa phòng làm việc, nhìn sát vào mắt hắn thăm dò, rồi đột nhiên mỉm cười vui vẻ và nhận xét:

- Dẫu sao thì sau này anh cứ gửi các kiến nghị thông minh của mình lên cho tôi trước một ngày nhé; nghĩa là tôi muốn nói đến bức thư anh gửi cho tôi và bài diễn văn có nội dung y hệt trong cuộc mít-tinh ở Muyn-khen.

Him-le hoang mang ra về. Nhưng một tháng sau, tuy không được gọi về Béc Lanh, hắn vẫn được cử làm Chánh mật thám ở Mếch-len-bua và Luy-bếch, rồi sang tháng sau, ngày 20 tháng 12, được cử thêm làm Chánh mật thám ở Ba-đen ngày 21 tháng 12 - Chánh mật thám ở Hết-xen, ngày 24 tháng 12 - ở Bơ-rê-men, ngày 25 - ở Xác-xô-ni và Tuy-rinh-ghi, ngày 37 - ở Hăm-bua. Trong một tuần lễ, hắn trở thành kẻ cầm đầu ngành cảnh sát của nước Đức, trừ nước Phổ vẫn ở dưới quyền Gơ-rinh như cũ.

Hít-le đề nghị Gơ-rinh một bước nhượng bộ: cử Him-le làm Chánh mật thám của toàn đế chế, nhưng vẫn nằm dưới quyền Gơ-rinh. Thống chế Gơ-rinh đã chấp nhận đề nghị nhượng bộ ấy của Quốc trưởng. Tiếp nhận một cách thiếu mặn mà, bởi vì Gơ- rinh thừa hiểu rằng dưới chế độ cực quyền, chiến thắng sẽ thuộc về kẻ nào nắm trong tay lực lượng cảnh sát kín - tức ngành mật thám. Một người có địa vị như Gơ-rinh mà cầm đầu mật thám thì mang tiếng quá. Chức vụ của y là Thống chế, Thủ tướng Phổ, Chủ tịch Quốc hội Đức. Đã thế còn tham cái chức Chánh cẩm thì mang tiếng quá. Bởi vậy, hắn có thể đi theo hai hướng: hoặc biến Him-le thành người của mình, hoặc đè bẹp nó rồi bắt nó lệ thuộc vào mình. Gơ-rinh không chọn con đường thứ nhất, vì thấy cái tên Him-le lầm lì, hay nói ngọng và lặng lẽ kia chẳng có gì trội lắm. Hắn chọn con đường thứ hai. Hắn chỉ thị cho ban thư ký của hắn, thông qua văn phòng Quốc trưởng, bổ nhiệm Him-le giữ chức thứ trưởng Bộ Nội vụ và Chánh sở mật thám, được quyền tham dự những buổi họp của nội các những khi bàn đến vấn đề cảnh sát. Gơ-rinh tự tay gạch mấy chữ “về vấn đề an ninh của đế chế” trong quyết định bổ nhiệm. Như thế đã là quá nhiều đối với Him-le rồi. Sau khi quyết định ấy được văn phòng Quốc trưởng thông qua, Gơ-rinh chỉ thị cho công bố nó trên mặt báo.

Vừa nhìn thấy quyết định ấy trên mặt báo, Him-le liền gọi hai nhân viên của hắn phụ trách giới báo chí đến. Hai tên này chuyên thu thập các tài liệu tố cáo các nhà báo. Him-le đề nghị chúng cho bình luận quyết định bổ nhiệm về mình khác hẳn cách bình luận của báo chí chính thức. Gơ-rinh đã phạm sai lầm cơ bản khi chịu nhượng bộ; hắn quên rằng, chưa có ai phế truất chức vụ chính của Him-le là thống chế SS. Thế là ngày hôm sau, tất cả các báo trung ương, nhất là những tờ hay gây chuyện, đều đăng quyết định kèm theo lời bình luận: “Ngành tư pháp quốc xã đã giành được một thắng lợi quan trọng: toàn bộ lực lượng cảnh sát, mật thám, ghét-xta-pô và hiến binh đã tập trung trong tay thống chế SS Him-le. Đó là lời cảnh cáo đối với mọi kẻ thù của đế chế; bàn tay trừng phạt của đảng Quốc xã sẽ giáng xuống mọi phần tử đối lập, mọi kẻ thù bên trong và bên ngoài”.

Him-le dời về Béc Lanh, chiếm biệt thự An-đôn-nen-xtác lộng lẫy ở ngay bên cạnh Ríp-ben-tơ-rốp. Và trong khi người ta tiếp tục hân hoan, say sưa với chiến thắng trước những người cộng sản, thì cùng với trợ thủ của mình là Hây-đơ-rích, Him-le bắt đầu thu thập hồ sơ tố giác kẻ thù và chủ yếu là tố giác bạn bè. Hắn phải đích thân thu thập hồ sơ tố giác viên sếp trước đây của hắn - Gờ-rê-go Sơ-tơ-rát-se. Hắn hiểu rằng chỉ bằng máu của Sơ-tơ-rát-se, ông thày đầu tiên của hắn, hắn mới có thể hoàn toàn xóa sạch vết tích cũ xưa của mình. Bởi thế, hắn đã chấp chi nhặt nhạnh từng li từng tí tất cả những gì có thể khiến Sơ-tơ-rát-se bị khép vào tội xử bắn.

Ngày 20 tháng sáu năm 1934; Hít-le gọi Him-le tới bàn về các biện pháp chống Rê-mơ trong thời gian tới, Him-le vẫn chờ đợi ngày đó. Hắn chỉ chưa hiểu Quốc trưởng sẽ hành động như thế nào, nhưng qua hàng nghìn trang báo cáo của các điệp viên và nội dung các buổi nghe trộm điện thoại mà hắn đọc hàng ngày, thì hắn hiểu rằng cần phải hành động ngay.

Him-le hiểu rằng hành động chống Rê-mơ chỉ là cái cớ để thủ tiêu tất cả những kẻ đã cùng Hít-le khởi đầu sự nghiệp. Đối với những kẻ đó, trước đây Hít-le chỉ là một người anh em trong đảng. Nhưng giờ đây, A-đôn-phơ Hít-le phải trở thành một lãnh tụ, một ông thánh đối với dân tộc Đức. Các đảng viên kỳ cựu đã trở thành gánh nặng đối với Hít-le.

Him-le hiểu rõ điều đó, khi thấy Hít-le nổi cơn lôi đình lúc nói tới một nhóm đảng viên kỳ cựu rơi vào ảnh hưởng tuyên truyền của kẻ thù. Hít-le không thể nói toàn bộ sự thật với bất cứ ai - ngay cả với những bạn bè thân cận nhất. Him-le cũng hiểu điều đó, bởi vậy hắn giúp Quốc trưởng bằng cách đặt lên bàn của lãnh tụ cặp hồ sơ tố giác bốn nghìn đảng viên kỳ cựu, thực tế là tố giác hết thảy những người đã cùng Hít-le đặt nền móng xây dựng đảng Quốc xã. Hắn đã tính toán rất đúng về mặt tâm lý, rằng Hít-le sẽ không quên công lao của hắn; vì không gì quý bằng người ta giúp mình tự biện hộ cho hành động tội ác của mình.

Nhưng Him-le còn đi xa hơn nữa: hiểu được thâm ý của Quốc trưởng, hắn quyết định trở thành cánh tay đắc lực của Hít-le đến mức, sao cho những cuộc thanh trừng sau này không thể động chạm tới bản thân hắn, mà ngược lại, những cuộc thanh trừng đó chỉ xảy ra dưới sự kiểm soát của hắn.

“Mình cũng là đảng viên kỳ cựu như Sơ-tơ-rát-se, - Him-le nghĩ, - nhưng mình sẽ vĩnh viễn là đảng viên kỳ cựu, nếu mình chứng minh cho đảng thấy rằng Sơ-tơ-rát-se không phải là một đảng viên kỳ cựu, mà chỉ là một đứa mưu cầu danh vọng, một phần tử chống đối hằn học”,

Khi Hít-le mời hắn cùng đi tới nhà nghỉ của Gơ-rinh ở Soóc -phây-đe, Him-le đã đạo diễn một vở kịch; một điệp viên do hắn bố trí, mặc y phục lực lượng SA của Rê-mơ, bắn vào chiếc xe mui trần của Quốc trưởng, và Him-le đã lấy thân mình che đạn cho vị lãnh tụ, miệng kêu lên - hắn là người đầu tiên trong đảng kêu lên như thế:

- Thưa Đức Quốc trưởng của tôi, tôi vô cùng sung sướng được xả thân để bảo vệ Người!

Trước đó, chưa một ai gọi Hít-le là “Đức Quốc trưởng của tôi”. Him-le đã trở thành tác giả của cách xưng hô khôn khéo đối với “ông thánh của mình”.

- Từ giờ phút này, chú là người anh em ruột thịt của ta, Hen-rích ạ, - Hít-le nói, và mọi người xung quanh đã nghe rõ câu nói ấy.

Sau khi Him-le tiến hành chiến dịch thủ tiêu Rê-mơ, sau khi ông thày Sơ-tơ-rát-se của hắn cùng bốn nghìn đảng viên quốc xã kỳ cựu đã bị xử bắn, bọn bồi bút lập tức nặn ra câu chuyện thần thoại rằng chính Him-le đã đứng bên cạnh Quốc trưởng ngay từ ngày đầu tiên gây dựng phong trào.

Đã nói “a”, tất phải nghĩ đến “b”. Hây-đơ-rích gợi ý: hãy thành lập các sư đoàn SS - chỗ dựa đầy uy lực của bộ máy nhà nước, Gơ-rinh có không quân, Bộ Tổng tham mưu có lục quân, thế mà Him-le mới chỉ có một số mật thám, điệp viên và những tên phá hoại ngầm. Phải có những tập đoàn quân. Thế là hai sư đoàn SS - “Đế chế Đức” ở Hăm-bua và “Nước Đức” ở Muyn-khen ra đời.

Ngày 7 tháng mười năm 1935, Quốc trưởng đã gửi cho Him-le nhân ngày sinh của hắn một bức điện như sau: “Đồng chí Him-le thân mến của tôi! Nhân ngày sinh cửa đồng chí, tôi xin gửi tới đồng chí những lời chúc mừng tốt đẹp nhất. Chúc đồng chí thành công trong công tác tiếp tục bảo vệ chủ nghĩa Quốc xã. A-đôn-phơ Hít-le”.

Năm 1936, sau khi, theo lời khuyên của Hây-đơ-rích, Him-le đề nghị Quốc trưởng dùng bộ máy tuyên truyền của Gơ-ben giải thích với thế giới rằng việc xâm lược vùng Ranh hoàn toàn không phải là sự khiêu chiến đối với Pa-ri và Luân Đôn, mà chỉ là một biện pháp cần thiết trong việc chuẩn bị lực lượng vũ trang chống Mát-xcơ-va, thì từ ngày đó, Him-le bắt đầu tới dự các buổi “ta- phen-run-đe” 1  ở nhà Quốc trưởng. Chỉ những người bạn thân thiết nhất của Hít-le mới được hưởng cái vinh dự này.

Trong lúc trao đổi những cái bắt tay thân thiện với Gơ-rinh, Ghết-xơ và Gơ-ben, Him-le vẫn không một phút nào ngừng thu thập hồ sơ tố giác những người bạn chiến đấu của mình.

༺༒༻

Lúc này, Sơ-tiếc-lít cho xe chạy chậm, bởi vì anh rất mệt sau mỗi buổi liên lạc với Trung tâm - thần kinh căng thẳng tột độ, và sau đó là một cảm giác rã rời về thể xác.

Con đường chạy qua rừng. Gió đã lặng. Bầu trời đầy sao, sáng sủa và cao vời vợi.

“Dầu sao, - Sơ-tiếc-lít tiếp tục suy luận, - Mát-xcơ-va cũng đã đúng, khi cho rằng có khả năng địch đàm phán. Dù các đồng chí ở nhà chưa có số liệu cụ thể, khả năng ấy vẫn có, bởi vì nó có cơ sở của nó. Mát-xcơ-va biết rõ sự lục đục trong nội bộ chính phủ Đức, xung quanh Hít-le. Trước đây, sự lục đục tranh ăn này nhằm mục đích trở thành người gần gụi hơn của Quốc trưởng. Bây giờ có thể diễn ra quá trình ngược lại. Hết thảy chúng nó: cả Gơ-rinh lẫn Boóc-man, cả Him-le lẫn Ríp-ben-tơ-rốp, đều gắn chặt số phận của mình với chế độ quốc xã, với lực lượng SS, với đảng Quốc xã. Mỗi đứa đều quan tâm tới việc bảo toàn chế độ quốc xã, Nền hòa bình riêng rẽ với từng nước đồng minh - nếu có tên nào đạt được - sẽ cứu sống riêng tên đó. Chúng đâu có nghĩ đến một dân tộc bất hạnh, đau khổ. Quốc gia Đức cũng không làm chúng bận tâm. Mỗi đứa chỉ nghĩ đến một mình bản thân chúng, chứ có lo lắng gì đến số phận của nước Đức và người Đức. Trong trường hợp này, năm mươi triệu người Đức chỉ là những con bài để chúng trục lợi. Một khi chúng còn nắm trong tay quân đội, cảnh sát và lực lượng SS, chúng có thể lái đất nước sang phía nào cũng được, chỉ cốt sao nhận được sự bảo toàn tính mệnh cho riêng bản thân chúng mà thôi...”

Một ánh đèn pha rọi tới làm Sơ-tiếc-lít quáng mắt. Anh nheo mắt lại và lập tức đạp phanh. Từ bụi cây ven đường, hai chiếc mô-tô SS phóng ra chặn ngang và một tên lính mô-tô chĩa khẩu tiểu liên tự động về phía xe anh.

… Từ ghế bành, Him-le đứng dậy đi lại cửa sổ: khu rừng mùa đông đẹp một cách lạ lùng, những bông tuyết lấp lánh như bạc dưới ánh trăng, không gian vô cùng tĩnh mịch, những ngôi sao thấp sáng rực, nhấp nhánh trên vòm trời thăm thẳm màu tím.

Him-le nhớ lại hắn đã thành công ra sao trong việc tiến hành chiến dịch chống lại Ghết-xơ, người cộng sự gần gũi nhất của Quốc trưởng. Điều này bất ngờ đối với chính hắn. Kể ra, trong vụ đó, có lúc tính mệnh Him-le cũng ngàn cân treo sợi tóc: Hít-le là người thường có những quyết định ngược đời. Một hôm, Him-le được người của hắn nộp một đoạn phim quay cảnh Ghết-xơ đang diễn trò thủ dâm ở trong buồng tắm, Him-le lập tức mang phim tới nhà Hít-le và cho chiếu lên màn ảnh.

Quốc trưởng đùng đùng nổi giận. Đêm đã khuya, nhưng Hít-le vẫn ra lệnh gọi Gơ-rinh và Gơ-ben đến phòng mình, còn Ghết-xơ thì bị triệu đến phòng khách. Gơ-rinh đến trước tiên - mặt tái như gà cắt tiết. Him-le biết vì sao vị thống chế ấy lại hoảng sợ như thế: Gơ-rinh đang say như điếu đổ một cô đào ba-lê ở thủ đô Viên. (Him-le nhận xét rằng Gơ-rinh luôn luôn say đắm các cô đào ba-lê gày gò: hắn đã xem tám cuốn phim ghi lại những cảnh tội lỗi của Gơ-rinh, trong đó cô ả sau gày gò hơn các ả trước). Hít-le mời mấy ông bạn của mình xem “trò ô nhục của Ghết-xơ”. Gơ-rinh cười khanh khách. Hít-le vặn lại: “Không nên tàn nhẫn như thế”.  Rồi sau khi mời Ghết-xơ vào phòng làm việc, Quốc trưởng xáp lại và thét lên:

- Ông là đồ đê tiện, thối tha! Ông đã mắc tội thủ dâm!

Cả Him-le, Gơ-rinh lẫn Gơ-ben đều hiểu rằng chúng đang chứng kiến sự sụp đổ của một nhân vật khổng lồ - của người đứng thứ hai trong đảng Quốc xã.

- Đúng thế, - Ghết-xơ trả lời hết sức bình tĩnh thật bất ngờ cho tất cả mọi người. - Đúng thế, thưa Đức Quốc trưởng của tôi! Tôi không giấu giếm chuyện đó! Tại sao tôi lại thủ dâm? Tại sao tôi không ngủ với các cô tài tử điện ảnh? - Hắn không nhìn Gơ-ben, nhưng tên kia co rúm người lại trong chiếc ghế bành. - Tại sao đêm đêm tôi không mò sang thủ đô Viên xem ba-lê?! Bởi vì đảng Quốc xã là toàn bộ cuộc sống của tôi! Mà đảng và Ngài thì, thưa Đức Quốc trưởng của tôi, đối với tôi chỉ là một! Tôi không còn thời gian dành cho cuộc sống riêng! Tôi vẫn sống độc thân.

Cơn giận clữ của Hít-le tan ngay. Hắn bước lại ôm hôn Ghết-xơ một cách ngượng nghịu và vỗ vỗ váo gáy tên kia.

Ghết-xơ đã thắng cuộc. Him-le lặng người: hắn biết rằng Ghết-xơ rất cứng tay trong việc trả thù. Khi Ghết-xơ đã ra về, Hít-le nói:

- Him-le này, chú hãy kiếm cho Ghết-xơ một người vợ. Tôi rất hiểu con người tuyệt diệu và hết sức trung thành với đảng ấy. Hãy đưa cho tôi xem cả những người chú định kiếm cho ông ta, tôi sẽ chọn một cô nào đó. Ghết-xơ sẽ nghe lời giới thiệu của tôi.

Him-le hiểu rằng giây phút ngắn ngủi này có thể quyết định tất cả. Đợi lúc Gơ-rinh và Gơ-ben đã ra về, Him-le mới nói:

- Thưa Đức Quốc trưởng của tôi, ngài đã cứu cho đảng Quốc xã một chiến sĩ trung thành của đảng. Tất cả chúng tôi đều đánh giá cao lòng tận tụy của Ghết-xơ. Không ai có thể quyết định số phận ông ấy sáng suốt được như Ngài. Bởi vậy, Ngài hãy cho phép tôi được mang lại ngay bây giờ thêm một số tài liệu nữa để Ngài xem! Cần phải giúp đỡ các người lính khác của Ngài, như Ngài đã cứu giúp Ghết-xơ.

Và hắn mang đến cho Hít-le cặp hồ sơ tố giác tên Lây, thủ lĩnh của mặt trận lao động. Tên này nghiện rượu nặng, và những vụ say bí tỉ, gây tai tiếng của y không phải là bí mật đối với bất cứ ai, trừ Hít-le, Him-le cũng đặt lên bàn hồ sơ tố giác “con bò đực Ba-ben-xơ-béc” - bí danh mà các điệp viên của hắn dùng trong các báo cáo để gọi Bộ trưởng Gơ-ben, - các quan hệ đi lại dễ dãi giữa tên này với đám phụ nữ hoàn toàn không thuộc dòng máu trong sạch đã làm cho các đảng viên Quốc xã chân chính nổi giận, Đêm ấy, cả hồ sơ tố giác Boóc-man cũng được đệ lên bàn Hít-le: không phải vô căn cứ khi Him-le nghi ngờ rằng Boóc-man có quan hệ tình dục đồng giới với Ghết-xơ.

- Không đời nào, - Hít-le bênh vực Boóc-man. - Ông ta có chín đứa con kia mà. Những kẻ tình dục đồng giới không thể có con. Đây là chuyện ngồi lê đôi mách.

Him-le không dám phản đối Quốc trưởng, nhưng hắn thấy Hít-le tỏ ra hết sức tò mò khi giở xem từng tờ và đọc đi đọc lại mấy lần các báo cáo do bọn điệp viên của Him-le viết. Và hắn hiểu rằng hắn đã thắng Quốc trưởng một keo quyết định.

Hắn đã tính toán rất đúng: Hít-le ra lệnh cho toàn nước Đức tổ chức kỷ niệm mười năm ngày Him-le nhậm chức thủ lĩnh lực lượng SS như một ngày lễ lớn. Từ hôm đó, bọn gau-lây-te  - bọn cầm đầu tổ chức đảng Quốc xã ở các tỉnh - hiểu rằng, sau Hít-le, kẻ nắm quyền hành độc tôn không phải ai khác, ngoài Him-le. Thế là tất cả các tỉnh, tất cả các tổ chức của Đảng Quốc xã ở địa phương bắt đầu gửi những báo cáo tin tức chủ yếu về văn phòng của Him-le nhiều hơn là về bộ tham mưu đảng Quốc xã của Ghết-xơ. Những tài liệu cơ bản do các nhóm điệp viên đặc biệt tin cậy được gửi thẳng, không qua hệ thống tổ chức, về cho Him-le và lập tức chui vào các tủ sắt đựng hồ sơ lưu trữ riêng của hắn: đó toàn là tài liệu tố giác các lãnh tụ của Đảng. Năm 1942, lần đầu tiên Him-le cất vào tủ sắt các tài liệu tố giác Quồc trưởng. Trước lúc đó, Him-le có nói chuyện với một trợ thủ của hắn là Cục trưởng Cục tình báo chính trị Sê-len-béc. Mờ sáng một ngày tháng tám năm 1942, Sê-len-béc đáp máy bay tới hành dinh của thống chế Him-le đặt tại ngoại ô Gi-tô-mia. Mặt trận phía Đông đang tấn công thắng lợi. Chiến tích của Rôm-men đang làm rung chuyển châu Phi. Sau khi báo cáo tỉ mỉ về các chiến thắng, Sê-len-béc nói:

- Thưa thống chế, bây giờ tôi còn một điều muốn trình bày riêng với Ngài.

Him-le lo ngại:

- Có chuyện gì không hay à? Phải chống lại nhân vật nào chăng?

- Hoàn toàn không phải như vậy. Chẳng qua tự nhiên tôi nhớ đến lời di chúc của Bít-smác: đừng bao giờ dự định làm một việc gì cả, nếu trong ngăn kéo dưới cùng ở gầm bàn không có hai khả năng để lựa chọn. Thưa thống chế, tôi xin phép hỏi: trong ngăn kéo nào của ngài có khả năng thứ hai để đối lập với chiến tranh ạ?

Him-le mở đài, - để buổi nói chuyện, lạy trời, khỏi bị ghi âm một cách tình cờ - rồi trả lời:

- Tôi cho ông năm tuần lễ để nghi phép. Thần kinh của ông không bình thường. Sức khỏe của ông sút kém đấy, ông Sê-len-béc ạ. Ông hiểu chứ? Hơn nữa, ai cho phép ông ăn nói với tôi như thế?!

- Hiện nay chúng ta mạnh đến mức, - Sê-len-béc nói tiếp, - chúng ta có thể đưa ra chính sách hòa bình. Chúng ta đang đứng ở tột đỉnh vinh quang, mà Bít-smác thì bao giờ cũng chấp nhận hòa bình trong lúc vinh quang tột đỉnh.

Lúc ấy, Him-le ngả người xuống đi-văng - bây giờ hắn vẫn còn nhớ như in từng chi tiết nhỏ nhất - và bắt đầu lấy tay xoa bụng (dạ dày hắn tiết ra quá ít dịch vị, nên hắn rất sợ ung thư). Sau đó hắn nói:

- Chừng nào thằng ngốc Ríp-ben-tơ-rốp còn làm cố vấn cho Quốc trưởng về chính sách đối ngoại, thì chưa thể có hòa bình.

- Ríp-ben-tơ-rốp đang hục hặc với Gơ-rinh. Chúng ta có thể giúp Gơ-rinh và quật ngã Ríp-ben-tơ-rốp. Có thể bổ nhiệm lão ta làm gau-lây-te của vùng rượu vang Buốc-gun-đi-a lẫn vùng rượu cô-nhắc Bơ-ra-băng. Lão vua rượu ấy sẵn sàng đổi chỗ như vậy.

Lúc đó, Him-le đưa tay về phía chiếc bàn nhỏ, trên đặt tập bản đồ địa lý của Brốc-gau-dơ, giở mấy trang rồi chỉ bằng ngón tay:

- Trên thực tế, ông nghĩ như thế nào? Nên làm gì với nước Bỉ? Làm gì với Hà Lan? Xử lý với U-cơ-ra-i-na ra sao?

- Nên chia vấn đề ra, - Sê-len-béc nói, - Nước Nga bị đập tan, thì xứ U-cơ-ra-i-na không còn là vấn đề đáng chú ý nữa. Nước Bỉ và Hà Lan là đầu đề thương lượng với Anh và Mỹ. Tôi chỉ sợ nước Mỹ và ông Boóc-man thôi.

Him-le khẽ nhếch mép cười.

- Được rồi, - hắn nói, - thế còn nước Pháp?

- Hãy liên minh với nó. Các thuộc địa của nó sẽ cho ta sức mạnh.

- Ông muốn thử thăm dò các nước đồng minh qua Phờ-rít-hen chăng? - Him-le hỏi, mặc dù câu hỏi của hắn giống một lời khuyên thì đúng hơn, - Tất cả đều do ông chịu trách nhiệm, đừng có kéo tôi vào trò chơi ấy đấy nhé.

Thế là Sê-len-béc bắt đầu hành động. Y chưa vội tìm cách tiếp xúc với người của A-len Đa-lét ở Béc-nơ. Y cũng không sử dụng Phờ-rít-hen - phôn Pa-pen. Trước hết phải quật ngã Ríp- ben-tơ-rốp, Sê-len-béc đã tìm ra trong bộ máy của tên kia một người sẵn sàng công khai chống lại Ríp-ben-tơ-rốp. Người ấy là quốc vụ khanh Luy-te. Trong một bữa tiệc chiêu đãi, được khích lệ bởi buổi trò chuyện trước đó với Sê-len-béc, Luy-te bước lại Him-le và bắt đầu thân mật trò chuyện với hắn trước mặt tất cả mọi người, về đến nhà, Luy-te liền viết ba bản tố giác Ríp-ben-tơ-rốp: gửi cho Boóc-man, Him-le và Gơ-rinh. Nhưng vì Ríp-ben-tơ-rốp là thượng tướng SS, nên Him-le không dám lợi dụng chuyện đó và chưa mở đầu vụ án chống tên kia: nguyên tắc của đảng không cho hắn làm như vậy. Trước khi bãi chức Ríp- ben-tơ-rốp, nhất thiết phải qua tòa án của đảng, rồi đến tòa án của SS, cuối cùng mới có thể phế chức bộ trưởng của hắn được.

Him-le do dự, chưa đám giáng đòn quyết liệt, trong khi đó thì bộ máy vẫn hoạt động đều: căn cứ vào tài liệu do các điệp viên của Ríp-ben-tơ-rốp cung cấp, tên chỉ huy ghéc-xta-pô đã bắt giữ Luy-te. Kẻ tố giác Ríp-ben-tơ-rốp đã bị tố giác. Hơn thế nữa, sau khi khai thác Luy-te, Muyn-lơ đã gửi cho Boóc-man một bản báo cáo, rằng có kẻ đang định đàm phán riêng lẻ với phương Tây. Boóc-man liền báo cáo với Quốc trưởng, Hít-le ra lệnh cho Ríp- ben-tơ-rốp thảo quyết định, nói rằng đàm phán với các cường quốc đang giao chiến là phản bội, hình thức trừng phạt - xử bắn.

Lúc ấy, lần đầu tiên sau khi Him-le hiểu rằng hắn đã chậm chân và thua Ríp-ben-tơ-rốp một keo, hắn uể oải phàn nàn với Sê-len-béc như sau:

- Tôi chán đánh nhau cho Quốc trưởng lắm rồi. Tôi sẽ chống lại ông ta, nếu chính ông ta muốn như vậy.

༺༒༻

- Giấy tờ đâu? - tên lính mô-tô hỏi.

Sơ-tiếc-lít chìa cho hắn thẻ căn cước của mình và hỏi:

- Có chuyện gì vậy?

Tên lính mô-tô xem giấy, giơ tay chào và đáp:

- Người ta báo động cho chúng tôi đi tìm những kẻ đánh điện.

- Thế đã thấy chưa? - Sơ-tiếc-lít cất thẻ vào túi và hỏi. - vẫn chưa phát hiện ra điều gì hay sao?

- Xe của ngài là chiếc thứ nhất qua đây.

- Các anh có muốn ngó xem chỗ để hàng hay không? - Sơ-tiếc-lít mỉm cười,

Bọn lính mô-tô cũng cười:

- Xin đại tá thận trọng, trước mắt có hai hố bom đấy ạ!

- Cảm ơn, - Sơ-tiếc-lít nói. - Bao giờ tôi cũng thận trọng cả.

“Tại buổi liên lạc của Ê-rơ-vin đây mà, - anh đã hiểu, - chúng đang chặn các con đường chạy về phía đông và phía nam. Kể ra chúng cũng khờ khạo thật, dù rằng về nguyên tắc thì đúng, nếu đối tượng của chúng là một kẻ ngây thơ ít hiểu biết về nước Đức”.

Anh cho xe chạy vòng, tránh hai hố bom. Đó là hai hố bom mới, bởi vì có mùi khen khét lọt vào xe qua cửa thông gió.

“Hãy quay về với những con cừu của ta, - Sơ-tiếc-lít tiếp tục nghĩ. - Mà chúng đâu phải là những con cừu như các họa sĩ Cu-cơ-rư-ních-xu và Ê-phi-mốp vẽ chúng. Nghĩa là, phương pháp mình khẳng định cho mình như sau: thái độ quan tâm đến hòa bình của từng tên Ríp-ben-tơ-rốp, Gơ-rinh, Boóc-man hay thống chế Cờ-luy-ghe là cái chính sẽ giúp mình hiểu được sự lo ngại của Trung tâm. Nhưng ai sẽ tiến hành đàm phán riêng lẻ với chúng? Ru-dơ-ven chăng? Dĩ nhiên là không. Các tổ chức xã hội của nước Anh ư? Không đời nào! Nhưng mặt khác, việc nước Đức đầu hàng phương Tây có thể đem lại mối lợi to lớn cho bọn tư bản độc quyền phương Tây là bọn người rất có máu mặt. Do đó, sau khi tìm hiểu bọn tai to mặt lớn của nước Đức quốc xã, mình phải hết sức chú ý đến tên Sơ-pê-e mới được. Tên bộ trưởng Bộ Công nghiệp ấy không đơn giản chỉ là một kỹ sư có tài, mà rõ ràng còn là một chính khách quan trọng. Thế mà mình chưa hiểu biết rõ ràng về cái nhân vật có thế bắt tay trực tiếp với giới làm ăn phương Tây ấy”.

Sơ-tiếc-lít không đưa xe vào ga-ra - trời hôm nay không lạnh lắm, chỉ khoảng hai, ba độ là cùng.

“Dù sao, sáng mai mình cũng phải dậy sớm mới được, - anh quyết định, - nước trong bộ giảm nhiệt của xe sẽ không bị đóng băng đâu. Ngày mai sẽ gay go đây. Khỏi phải nói, một sĩ quan tình báo SĐ lại đi tình nguyện làm việc cho cá nhân Him-le kia mà... Điều đó thật trái ngược với ngày tận số sắp tới của chế độ quốc xã. Mình mới chỉ trung thành với Him-le theo lời thề. Bây giờ như thế chưa đủ, mình phải trung thành với bản thân hắn, thống chế SS, với kẻ mang tên Him-le...”.

Chính sau năm 1943, khi Hây-đơ-rích bỏ xác ở Pra-ha, Sê-len-béc đã trở thành người tin cẩn nhất của Him-le. Kẻ thay Hây-đơ-rích là Can-ten-bơ-ru-ne không chiếm được cảm tình của Him-le vì cái tính ruột ngựa và phi trí thức quá rõ của hắn. Hắn nốc rượu như nước lã, hút tới trăm điếu thuốc lá một ngày và - đây là điều khiến Him-le ghét nhất - nói năng bằng cái giọng khủng khiếp của người Áo. Him-le nghe không thủng lời nói của Can-ten-bơ-ru-ne một phần còn là do hắn lắp nhiều răng giả.

- Ông đến hiệu chữa răng đi, - có lần Him-le đã bảo Can-ten-bơ-ru-ne, - tôi chẳng hiểu đầu đuôi ra sao cả, nhất là khi ông ăn nói vội vàng.

Can-ten-bơ-ru-ne tự ái ra mặt. Him-le nhận thấy điều ấy và nghĩ bụng: “May mà hắn là một thằng thộn, do đó lúc nào cũng có sẵn kẻ để chịu đòn, nhưng mình chớ cho hắn ở gần. Cái tính ngu ngốc là chúa hay lây…”.

Boóc-man... chà, Him-le mới căm ghét Boóc-man làm sao!..

Đây là lời Boóc-man nói với Quốc trưởng:

- Chúng tôi tin chắc rằng không thể hy vọng vào quân đội hoàn toàn được. Hạnh phúc lớn cho dân tộc là chúng ta có các sư đoàn SS. Nó là niềm hy vọng của đảng và chủ nghĩa quốc xã. Chỉ có thủ lĩnh SS, ông bạn Him-le của tôi mới là người có thể làm tư lệnh mặt trận phía Đông, chỉ huy tập đoàn quân “Vi-xơ-la”. Chỉ có dưới sự lãnh đạo của ông ấy, lực lượng SS và quân đội dưới quyền chỉ huy của ông ta mới có thể đánh bật và đè bẹp được quân Nga.

Hôm sau, Him-le đáp máy bay tới tổng hành dinh của Quốc trưởng mà không hay biết gì về quyết định bổ nhiệm mới đối với mình. Bởi vậy, Hít-le dễ dàng thông qua chỉ thị mà Him-le mang đến, nói rằng tất cả các gau-lây-te của nước Đức, trước thuộc quyền Boóc-man, từ nay phải đồng thời trực thuộc vào hắn, thống chế SS. Him-le đã chuẩn bị một đòn trời giáng đối với Boóc-man. Thậm chí hắn lấy làm ngạc nhiên trước việc Quốc trưởng thông qua bản chỉ thị của hắn quá dễ dàng. Một phút sau khi Hít-le ký vào văn bản, hắn mới vỡ lẽ.

- Tôi xin chúc mừng chú, Him-le ạ. Chú được cử làm tư lệnh tập đoàn quân “Vi-xơ-la”. Chỉ có chú, và không ai khác ngoài chú, có thể đánh tan bè lũ bôn-sê-vích. Chỉ có chú, và không ai khác ngoài chú, mới có thể đánh gục Xta-lin và buộc Xta-lin chấp nhận các điều kiện hòa bình của chúng ta!

Thất bại hoàn toàn rồi - Him-le đã hiểu tất cả. Hắn đã thua tất cả những gì có thể thua. Tháng giêng năm 1945 đã đến và không còn bất cứ hy vọng gì vào thắng lợi nữa! Vứt mẹ vào sọt rác các ảo mộng đa cảm đi thôi! Chỉ còn một nước cờ duy nhất: hòa hoãn ngay với phương Tây để cùng hợp lực chống trả quân đội bôn-sê-vích.

Him-le cám ơn Quốc trưởng về sự tín nhiệm đầy vinh dự, rồi trở về. Sau đó, hắn đến gặp Gơ-rinh, nhưng câu chuyện không kết quả.

Thế là hắn thức dậy vào lúc năm giờ sáng, không thể ngủ thêm được nữa, ngồi lắng nghe bầu không khí yên tĩnh của khu rừng thông, và không dám gọi điện cho con gái mình, vì sợ Boóc-man biết chuyện. Hắn cũng chẳng dám gọi điện cho hai đứa con trai và mẹ của chúng, người đàn bà được hắn yêu, bởi vì sợ gây tai tiếng như Quốc trưởng đã nói, lão ta không thể tha thứ cho “sự thiếu trong sạch về đạo đức”. Đồ mắc bệnh giang mai đáng nguyền rủa!.. Sự trong sạch về đạo đức!.. Him-le căm tức nhìn chiếc máy điện thoại; cái bộ máy mà hắn xây dựng mười tám năm trời hiện đang hoạt động chống lại hắn.

“Thế là hết, - hắn tự bảo mình, - thế là hết. Nếu mình không lập tức chiến đấu bảo vệ mình thì mình sẽ chết”.

Qua báo cáo của các điệp viên, Him-le có thể giả thuyết rằng viên tư lệnh tập đoàn quân đóng ở Ý là thống chế Két-xơ-rinh sẽ không phản đối việc đàm phán với phương Tây. Chỉ có Sê-len-béc và Him-le được biết điều ấy. Hai điệp viên báo tin đó đã bị thủ tiêu: người ta đã bố trí một tai nạn máy bay trên đường chúng trở về chỗ Két-xơ-rinh. Độc quyền bí mật là cơ sở của thành công. Từ nước Ý thẳng đường sang Thụy Sĩ. Mà kẻ cầm đầu Cục tình báo Mỹ ở châu Âu là A-len Đa-lét đang nằm tại Thụy Sĩ. Điều đó rất quan trọng. Đó là sự tiếp xúc trực tiếp giữa những người có thế lực; hơn nữa, bạn thân của Két-xơ-rinh - thượng tướng Các-lơ Vôn-phơ, chỉ huy lực lượng SS ở Ý - lại là người trung thành với Him-le.

- Cho mời ngay tướng Các-lơ Vôn-phơ tới chỗ tôi.

Hắn tin vào viên tướng SS kỳ cựu này, Các-lơ Vôn-phơ sẽ thay mặt hắn bắt đầu những cuộc đàm phán quan trọng với phương Tây...

༺༒༻

1. Bọn Đức Quốc xã chào nhau bằng câu “Hai-lơ Hít-le!” (Hít-le muôn năm!)

2. Ri-a-dan là một thành phố ở Liên Xô.

1. “Ta- phen-run-đe”  là những lần gặp gỡ buổi tối ở nhà Hít-le.