← Quay lại trang sách

Chương 4

Sơ-tiếc-lít chưa hề có ý định gì với giám mục Sơ-lắc, khi ông ta bị dẫn đến chỗ hỏi cung đầu tiên: chẳng qua là anh thi hành lệnh của Sê-len-béc. Sau khi nói chuyện với ông ta ba ngày, anh thấy cần chú ý đến vị giám mục già có thái độ hết sức đường hoàng và ngây thơ này. Sơ-tiếc-lít hiểu rằng nếu ông ta rơi vào tay bọn ghét-xta-pô dưới trướng Muyn-lơ, thì ông ta sẽ bị chúng cắn xé ngay rồi.

Những khi có điều kiện, Sơ-tiếc-lít đều cố giúp đỡ những người bị bắt mà không đủ chứng cớ đầy đủ hoặc không liên quan đến vụ án nghiêm trọng. Dĩ nhiên, anh cố gắng bảo vệ công tác chính của mình, nhưng anh không thể làm ngơ trước số phận mọi người. Anh nghĩ ra một hình thức cứu giúp nhất định: anh “tuyển” những người bị bắt vì những việc nhỏ nhặt để có thể lập tức thả họ ra, hoặc để họ chỉ bị giam giữ ít lâu ở trại tập trung. Khi họ được thả, Sơ-tiếc-lít bố trí cho họ vào làm ở những cơ quan mà ngành tình báo của Sê-len-béc và, đương nhiên, cả ngành tình báo Liên Xô mà anh đại diện, đang để ý. Anh yêu cầu họ thu thập tài liệu về những đảng viên quốc xã quan trọng, nhằm tố giác những tên tay sai tận tụy của Hít-le, nào chuyện buôn lậu, nào việc ăn nói thiếu thận trọng, nào lối sống phi đạo đức. Như thế là anh thu được “ba cái lợi”. Cứu giúp những người bằng cách này hay cách khác đã chống đối chế độ Hít-le. Nắm được các tư liệu bí mật do những điệp viên báo thẳng về từ nơi họ được anh bố trí tới làm việc. Và cuối cùng là sử dụng các tài liệu đó để trừng trị những tên đảng viên quốc xã trung thành với chế độ.

Trong lúc hỏi cung Sơ-lắc và tìm hiểu hồ sơ tố giác ông ta, anh càng hay nghĩ đến việc vị giám mục già ấy có thể giúp ích gì cho công việc sau này.

Sau khi tin rằng vị giám mục chẳng những căm thù chế độ quốc xã, mà còn sẵn sàng giúp đỡ tổ chức bí mật đang hoạt động, điều này thì anh tin chắc sau khi nghe băng ghi âm câu chuyện giữa giám mục với tên phá hoại ngầm Cờ-lao-xơ, - Sơ-tiếc-lít dành cho Sơ-lắc một vai trò nhất định trong công tác của anh, mặc dù anh cũng chưa quyết định xem nên sử dụng ông ta thế nào cho thật hợp lý.

Sơ-tiếc-lít không bao giờ đoán trước diễn biến của sự kiện, nhưng bao giờ anh cũng có cái nhìn khái quát rất chính xác về một chiến dịch tương lai. Anh cười khảy khi đọc các tiểu thuyết trinh thám, trong đó tả một gã mật thám nhìn xa trông rộng, ngay từ đầu đã biết hắn sẽ vạch mặt và tóm cổ tên tội phạm như thế nào. Anh thường nhớ lại một đoạn anh đọc trong sách, khi ngồi trên chuyến tàu hỏa chạy qua địa phận châu Âu để tới Ăng-ca-ra. Đoạn văn ấy in sâu trong trí nhớ anh. Nhà nghiên cứu văn học sa đọa viết như sau: có một lần, người ta hỏi Pu-skin: “Chuyện gì sẽ xảy ra đối với Ta-chi-a-na kiều diễm?”. Pu-skin đã tức giận đáp lại: “Các vị đi mà hỏi cô ấy, tôi không biết”. Sơ-tiếc-lít có nói chuyện với các nhà toán học và vật lý học, nhất là sau khi bọn ghét-xta-pô bắt giữ nhà vật lý Run-gơ, người nghiên cứu vấn đề nguyên tử. Anh hỏi họ, xem các nhà khoa học lý thuyết lập kế hoạch trước cho phát minh bao nhiêu lâu. Họ trả lời anh: “Điều đó không thể được, Chúng tôi chỉ xác định hướng tìm tòi, tất cả những điều còn lại đều là kết quả của quá trình thí nghiệm”.

Trong hoạt động tình báo cũng hệt như vậy. Khi một chiến dịch được nghĩ ra trong khuôn khổ quá ư chính xác, thì nó rất dễ thất bại, bởi vì chỉ cần vi phạm một quan hệ định trước nào đó, là có thể dẫn đến chỗ đổ vỡ cái chủ yếu. Khả năng thành công sẽ cao nhất, nếu tập trung vào nhiệm vụ chủ yếu, nhiệm vụ nút, và tiên đoán các khả năng diễn biến khác nhau, nhất là khi phải hoạt động một mình, Sơ-tiếc-lít nghĩ như vậy.

“Vị giám mục... - Sơ-tiếc-lít tự nhủ. - Mình sẽ nắm lấy ông ta. Giờ đây, sau khi tên Cờ-lao-xơ đã bị thủ tiêu và không thể phản bội thêm hai chiến sĩ điện đài của chúng ta nữa, thì vị giám mục thực tế đã rơi vào địa vị phụ thuộc, không bị giám sát, vào mình. Mình đã báo cáo với Sê-len-béc, rằng không thể nào xác định được các đường dây liên lạc giữa giám mục với gã nguyên là thủ tướng Bờ-riu-ninh, và căn cứ vào thái độ Sê-len-béc, mình thấy y đã thôi chú ý tới Sơ-lắc. Nhưng mình lại càng chú ý đến ông ta hơn, nhất là sau khi nhận được lệnh của Trung tâm”.

Lập luận chung của Sơ-tiếc-lít tỏ ra tuyệt đối chính xác. Anh chỉ sai lầm một điều là Sê-len-béc vẫn chưa quên vị giám mục. Ngược lại, bây giờ mới chính là lúc y bắt đầu thực sự chú ý đến ông ta...

༺༒༻

Muyn-lơ gọi trung tá Ai-xơ-man đến vào lúc ba giờ sáng.

Y đã ngủ được một lúc sau hai ly rượu cô-nhắc của Can-ten-bơ- ru-ne và cảm thấy khỏe ra.

“Loại cô-nhắc ấy quả là đặc biệt, - Muyn-lơ nghĩ. Y dùng ngón cái và ngón trỏ của bàn tay phải day day sau gáy. - Rượu cô-nhắc ở chỗ mình làm cho đầu óc choáng váng, còn loại cô-nhắc ở chỗ lão ta khiến đầu óc nhẹ hẳn đi”.

Ai-xơ-man nhìn Muyn-lơ bằng cặp mắt sưng tấy và mở một nụ cười ngây thơ bất lực của mình.

- Tôi cũng thấy đầu đau như búa bổ, - gã nói, - Tôi ước gì được ngủ một giấc bảy tiếng liền cho đã mắt. Chưa bao giờ tôi nghĩ rằng mất ngủ lại là thứ cực hình đáng sợ đến thế.

- Ông nghe đây, - Muyn-lơ nói, - hiện có một câu chuyện rắc rối. Lúc nãy, ông sếp có gọi tôi lên. Các ông sếp của chúng ta toàn là những vị hay tưởng tượng hão huyền... Các ông ấy tha hồ mà bày đặt ra mọi chuyện vì các ông ấy có công việc cụ thể nào đâu, còn chỉ thị với hướng dẫn thì đến con khỉ ở rạp xiếc cũng làm được... Ông hiểu không, ngài Can-ten-bơ-ru-ne nghi ngờ Sơ-tiếc- lít đấy...

- Nghi ngờ ai kia ạ?!

- Nghi ngờ Sơ-tiếc-lít. Người duy nhất trong tổ chức tình báo của Sê-len-béc mà tôi có cảm tình. Một người bình tĩnh, không nịnh bợ, không điên khùng, không cố tỏ ra vẻ hăng hái. Tôi không tin những kẻ xoắn xuýt với cấp trên và chẳng cần gì cũng cứ đăng đàn diễn thuyết trong các cuộc mít-tinh của chúng ta... Toàn một bọn bất tài, vô công rồi nghề, tán róc... Còn Sơ-tiếc-lít là một người ít nói. Tôi rất mến những người ít nói... Nếu bạn anh ít nói, thì đó là một người bạn thực sự. Nếu kẻ thù ít nói thì đó cũng là một kẻ thù nguy hiểm thật sự. Tôi kính trọng loại kẻ thù đó. Họ có những cái ta có thể học hỏi được…

- Tôi quen biết Sơ-tiếc-lít đã tám năm, - Ai-xơ-man nói, - tôi đã cùng anh ấy có mặt ở ngoại ô thành phố Xmô-len-xcơ và đã thấy anh ấy dưới làn bom đạn. Đó là một con người gang thép...

Muyn-lơ cau mày:

- Sao anh ăn nói văn vẻ thế?.. Làn bom đạn, người gang thép… Anh mệt mỏi hả? Để các từ ngữ văn vẻ ấy cho các lãnh tụ của đảng ta. Còn dân mật vụ chúng ta thì phải suy nghĩ bằng các danh từ và động từ như: “thằng cha ấy đã gặp”, “mụ ta nói”, “hắn đã giao”... Anh làm sao thế, anh không nghĩ rằng...

- Không ạ, - Ai-xơ-man trả lời. - Tôi không thể tin vào sự giả dối của Sơ-tiếc-lít.

- Tôi cũng vậy.

- Rõ ràng phải khéo léo làm cho Can-ten-bơ-ru-ne tin điều đó.

- Để làm gì? - Muyn-lơ hỏi sau một phút im lặng. - Lỡ ông ấy muốn rằng Sơ-tiếc-lít là một kẻ giả dối thì sao? Thuyết phục ông ấy để làm gì? Cuối cùng, Sơ-tiếc-lít có phải là người thuộc văn phòng của chúng ta đâu. Anh ta ở Vụ VI. Kệ cho Sê- len-béc nhảy nhót...

- Sê-len-béc sẽ đòi hỏi chứng cớ… Và ngài thừa biết rằng thống chế SS sẽ ủng hộ ông ta.

- Anh nghĩ thế à?

- Tôi tin như vậy.

- Tại sao?

- Tôi rất khó chứng minh điều đó... Tôi tin như vậy thôi, thưa ngài thượng tướng.

Muyn-lơ lại lấy ngón trỏ và ngón cái của bàn tay phải xoa gáy.

- Vậy phải làm gì bây giờ?

Ai-xơ-man nhún vai:

- Riêng tôi cho rằng cần phải thành thật với chính bản thân mình từ đầu đến cuối; điều đó quyết định mọi hành động và hành vi sau đó của mình.

- Hành động với hành vi chỉ là một, - Muyn-lơ nhận xét. - Tôi thật phát ghen với những người thi hành mệnh lệnh và chỉ biết có việc ấy mà thôi! Tôi chỉ muốn làm người thi hành mệnh lệnh! Thành thật ư? Có thể nghĩ rằng bao giờ tôi cũng thử giả dối xem sao. Tôi xin dành cho anh đầy đủ khả năng để mà thành thật; anh hãy cầm lấy những tài liệu này, - Muyn-lơ đẩy mấy cặp giấy đầy chữ đánh máy lại phía Ai-xơ-man, - và hãy rút ra kết luận của mình. Anh hãy thành thật từ đầu đến cuối nhé. Tôi sẽ dựa vào đó khi báo cáo với ngài sếp về kết quả thẩm tra.

- Tại sao chính tôi phải làm việc này, thưa ngài thượng tướng?- Ai-xơ-man hỏi.

Muyn-lơ cười to:

- Thế sự thành thật của anh đâu rồi, anh bạn của tôi? Lòng thành thật ở đâu? Hãy thành thật đi! Khuyên người khác thành thật thì bao giờ cũng dễ. Nhưng riêng với mình, thì ai cũng chỉ tìm cách đem sự thành thật ra để che giấu sự giả dối của mình, để biện bạch cho bản thân, cho các hành động của mình. Tôi nói thế không đúng hay sao?

- Tôi sẵn sàng viết báo cáo.

- Báo cáo thế nào?

- Tôi sẽ viết trong báo cáo rằng tôi quen biết Sơ-tiếc-lít đã nhiều năm và tôi có thể bảo đảm hoàn toàn cho anh ấy.

Muyn-lơ im lặng, cựa quậy trên ghế, rồi đưa cho Ai-xơ-man một tờ giấy.

- Anh viết đi, - Muyn-lơ nói. - Viết đi.

Ai-xơ-man rút bút, suy nghĩ khá lâu câu mở đầu rồi đặt bút viết mấy câu dưới đây bằng nét chữ rất đẹp của mình:

“Kính gửi ngài thượng tướng Cục trưởng Muyn-lơ. Tôi coi đại tá SS phôn Sơ-tiếc-lít là một người Đức chân chính, trung thành với các lý tưởng của Quốc trưởng và của đảng Quốc xã. Tôi đề nghị cho phép tôi không phải thẩm tra các việc làm của anh ấy.

Trung tá SS Ai-xơ-man”.

Muyn-lơ thấm tờ giấy cho khô mực, đọc đi đọc lại hai lần rồi nói:

- Thôi được... Anh cừ lắm... Tôi luôn luôn tôn trọng và hoàn toàn tin cậy anh. Bây giờ tôi lại có dịp tin một lần nữa vào thái độ đúng đắn của anh, Ai-xơ-man ạ.

- Xin cảm ơn ngài thượng tướng.

- Tôi chẳng làm gì mà anh phải cảm ơn. Tôi cảm ơn anh thì có. Thôi được. Anh cầm lấy ba cặp giấy này. Căn cứ vào đó, anh hãy viết lời nhận xét thật tốt về hoạt động của Sơ-tiếc-lít. Tôi khỏi phải dạy anh: hãy nói đến nghệ thuật của một người tình báo, sự tinh tường của một viên thẩm tra và lòng dũng cảm của một đảng viên quốc xã chân chính. Anh cần bao nhiêu lâu để làm việc đó?

Ai-xơ-man giở cặp hồ sơ và đáp:

- Để mọi thứ được trình bày thật đẹp và được xác nhận tỉ mỉ bằng văn bản, tôi xin ngài cho tôi một tuần lễ.

- Năm ngày thừa sức xong.

- Cũng được ạ.

- Và anh hãy cố gắng viết thật hay về công việc mà Sơ-tiếc- lít tiến hành với lão giám mục này, - Muyn-lơ lấy ngón tay chỉ vào một cặp giấy, - Can-ten-bơ-ru-ne cho rằng hiện nay có kẻ muốn thông qua các cố đạo để liên hệ với phương Tây: Va-ti-căng và vân vân…

- Rõ.

- Thôi, chức anh may mắn. Và đi ngủ đi. Bảy giở liền thì tôi không cho được đâu. Năm giờ thôi. Ngon giấc nhé.

Khi Ai-xơ-man đã bước ra, Muyn-lơ cất tờ giấy Ai-xơ-man vừa viết vào một cặp giấy riêng và ngồi suy nghĩ rất lung. Sau đó, y gọi một cộng sự khác của mình là trung tá Khôn-tốp vào.

- Anh nghe đây, - y nói, thậm chí cũng không mời tên kia ngồi, vì Khôn-tốp thuộc loại sĩ quan trẻ. - Tôi muốn giao cho anh một việc tối mật và cực kỳ quan trọng…

- Xin tuân lệnh ngài thượng tướng.

“Thằng này vào loại ngựa non háu đá đây, - Muyn-lơ nghĩ. - Đang say trò đấu đá. Nó sẽ không từ một việc gì. Hay lắm… Thế là ta có cái để mặc cả với Sê-len-béc rồi…”

- Thế này nhé, - Muyn-lơ nói tiếp. - Anh cần nghiên cứu kỹ hồ sơ này: đây là những việc mà đại tá Sơ-tiếc-lít làm trong năm vừa qua. Vụ này liên quan đến loại vũ khí trừng phạt... Tức là vũ khí nguyên tử… đến nhà vật lý học Run-gơ... Nhìn chung, vụ này bê bối lắm, nhưng anh hãy cố khai thác nó... Nếu có điểm nào không rõ, cứ đến gặp tôi nhé.

Khôn-tốp do dự và hơi có phần lo ngại, nhưng cố giấu ý nghĩ đó của mình. Lúc hắn bước ra đến cửa phòng, Muyn-lơ còn gọi lại nói thêm:

- Anh hãy xem lại hồ sơ về những ngày đầu của Sơ-tiếc-lít, hồi ở mặt trận, và xem hai con đường của Sơ-tiếc-lít và Ai-xơ- man có cắt nhau không.

༺༒༻

Cả bọn ghét-xta-pô, cả bọn quân báo áp-ve lẫn cơ quan phản gián của Vi-si đều biết rằng, vào những ngày nóng bỏng của mùa hè năm 1942, sẽ có một người Mỹ đầy bí ẩn nào đấy đi qua nước Pháp. Cơ quan phản gián của nước Pháp, bọn ghét-xta-pô và Cục tình báo của đô đốc Ca-na-ri-xơ liền tìm cách săn đuổi con người đó.

Tại các nhà ga và trong những ngôi nhà kính của các sân bay, bọn điệp viên, mật vụ túc trực, nhìn chằm chằm vào tất cả những ai có nét gì đó giống một người Mỹ.

Bọn chúng không tóm được người đó. Hắn biến mất trong các khách sạn, rồi đột nhiên xuất hiện trong các chuyến máy bay. Thông minh, khôn ngoan, bình tĩnh và táo bạo, hắn đã đánh lừa cơ quan an ninh Đức, cơ quan phản gián của Vi-si và kỳ lạ thay, đã đặt chân an toàn lên đất Thụy Sĩ trung lập vào cuối năm 1942.

Người hắn cao lớn, cặp mắt hắn ẩn sau hai mắt kính lấp lánh của chiếc kính kẹp mũi, nhìn thế gian ra vẻ độ lượng, hiền lành, nhưng đồng thời rất nghiêm nghị. Lúc nào người ấy cũng ngậm chiếc tẩu thuốc Anh, hắn ít nói, hay mỉm cười, có khả năng chinh phục người tiếp chuyện bằng thái độ chăm chú lắng nghe, bằng những câu pha trò sắc sảo và, nếu như hắn không đúng, hắn lập tức nhận cái sai về mình một cách công khai.

Chắc rằng, nếu tổ chức của Him-le, Ca-na-ri-xơ và Pê-tanh biết rõ kẻ đó là ai, hẳn là họ sẽ cố gắng gấp hàng chục lần để tóm cổ hắn về tay mình ở ngay trên đất Pháp, nơi vào cuối năm 1942, quân đội Đức đã xâm chiếm và chấm dứt sự tồn tại của nước Pháp “có chủ quyền” với thủ đô ở Vi-si. Kẻ đó là A-len Đa-lét nhân viên cục tình báo chiến lược, được tướng Đô-nô-van phái đến Béc-nơ.

Chẳng bao lâu sau, ở Thụy Sĩ người ta đã coi hắn như đặc phái viên của tổng thống Ru-dơ-ven.

Đa-lét cho đăng lời phủ nhận trên mặt báo. Nội dung lời phủ nhận rất lạ lùng và bí ẩn. Hắn hiểu rằng, sự đồn đại và lời phủ nhận ấy trong trường hợp này là một thứ quảng cáo hai mặt có lợi cho hắn. Và hắn đã không lầm: ngay từ mấy tháng đầu tiên ở Béc-nơ, từ khắp nơi, đủ mọi hạng người từ các nước khác nhau đã đổ xô đến gặp hắn - các chủ nhà băng, các vận động viên, các nhà ngoại giao, các nhà ngữ văn, các hoàng thân, các diễn viên, tức là tất cả những nhân vật mà, qua đó, các cơ quan tình báo trên thế giới tuyển mộ những điệp viên, thường là có khả năng nhất, cho mình.

Trước khi triển khai chi nhánh tình báo chiến lược của mình ở Thụy Sĩ, Đa-lét đã nghiên cứu hết sức kỹ lưỡng những tài liệu nói về các cộng sự viên của hắn.

Một nhân, viên Cục điều tra trung ương Mỹ chuyên lo việc kiểm tra và hệ thống hóa hồ sơ tố giác các cộng sự viên của Đa-lét báo cáo với hẳn:

- Ở đây, trong chiếc cặp màu xanh này, ghi tên tất cả những ai có bà con họ hàng và bạn bè thân thiết tại các nước thuộc khối trục và các nước trung lập. Còn trong chiếc cặp này ghi những người đẻ ở Đức, ở châu Âu và những ai có bố mẹ là người Đức. Còn trong chiếc cặp kia ghi tên họ những người có quan hệ thư từ với các cộng sự viên của ngài... Còn đây là…

Đa-lét ngắt lời gã kia:

- Tất cả những cái đó có liên quan gì tới công việc đâu?

- Xin lỗi ngài...

- Tôi quan tâm đến những điểm sau đây: trong số các cộng sự viên của tôi, có ai là nhân vật tích cực của Viện Đức - Mỹ hay không? Nhân vật ấy có phải là đảng viên cộng sản hay không? Có phải là người, dù nam hay nữ, có tình dục đồng giới hay không? Hoàn cảnh gia đình của hắn ra sao? Vợ chồng sống với nhau có hòa hợp không, hay là vợ hắn bị bệnh tâm thần khiến người chồng vì thế mà say mê rượu chè và muốn đập phá gia đình tan nát cho xong? Còn về phần những người bà con họ hàng ở Đức hay Ý, thì trong số những người có họ xa với tôi, có một người sang làm ăn bên Đức từ thế kỷ trước kia đấy.

Tiếc thay, trong các tài liệu tra cứu “Who is who” chỉ nói rất ít về quá khứ của người Mỹ mang tên A-len Đa-lét này. Tiểu sử của hắn đáng để các cơ quan phản gián Đức biết rõ từ trước. Nhưng phải khá lâu sau chúng mới nắm được.

Khi cơ quan của Him-le gài được điệp viên của mình vào nhà Đa-lét (cô nấu bếp đáng yêu và chăm chỉ làm việc trong nhà Đa-lét là nhân viên Vụ Sáu thuộc cơ quan an ninh quốc xã), thì cả Sê-len-béc, cả Him-le lẫn Muyn-lơ bên ghét-xta-pô, và ít lâu sau là Can-ten-bơ-ru-ne, đều qua điệp viên của mình mà biết được nhiều điểm quan trọng và hấp dẫn từ những chi tiết tưởng chừng rất vụn vặt.

Chẳng hạn, điệp viên ấy báo về rằng, cuốn sách gối đầu giường, và rõ ràng là cuốn sách yêu thích nhất của A-len Đa-lét, là cuốn “Nghệ thuật chiến tranh” của Tôn Tử, một người Trung Quốc. Trong tác phẩm ấy, nhà lý luận Trung Quốc trình bày các nguyên tắc hoạt động gián điệp từng tồn tại ở Trung Quốc từ năm 400 trước công nguyên.

Đặc biệt A-len Đa-lét thường hay giở ra xem chương sách trong đó tác giả người Trung Quốc xác định những điệp viên nào có giá trị nhất trong hoạt động tình báo.

Tôn Tử chia các điệp viên ra làm năm loại: điệp viên địa phương, điệp viên nội địa, điệp viên kép, điệp viên bất hồi và điệp viên sống.

Đa-lét ghi những loại ấy ra từng tờ giấy nhỏ, và những tờ giấy này cũng rơi vào tay Sê-len-béc. Theo lời hắn viết, thì điệp viên địa phương và điệp viên nội địa tương ứng với loại điệp viên tại chỗ theo cách gọi của chúng ta bây giờ.

Điệp viên kép là điệp viên của kẻ địch bị ta bắt làm tù binh, rồi được ta tuyển mộ và phái ngược trở lại hàng ngũ địch, nhưng với tư cách là điệp viên của nước đã bắt được hắn.

A-len Đa-lét dùng chì đỏ gạch dưới thuật ngữ “điệp viên bất hồi”. Hắn rất thích lối diễn đạt tinh tế ấy của người Trung Quốc. “Điệp viên bất hồi” là từ mà Tôn Tử dùng để gọi những điệp viên đem các tin tức giả, trái ngược, tới cho kẻ thù. Tôn Tử gọi họ là “điệp viên bất hồi”, bởi vì hoàn toàn rõ ràng rằng, khi kẻ thù phát hiện ra đó là thông tin giả, nhất định chúng sẽ giết chết họ.

Theo cách nói của Tôn Từ, - và điều này được Đa-lét nhấn mạnh trong ghi chép của hắn, - thì điệp viên sống là loại điệp viên được cử đi hoạt động bí mật ở nước đối phương và sau đó trở về tổ quốc an toàn.

Tôn Tử khẳng định rằng người tình báo thực thụ phải đồng thời có cả năm loại điệp viên kể trên. Tác giả viết rằng người trùm tình báo nào có cả năm loại điệp viên ấy sẽ làm chủ một mạng lưới kiểu như “thiên la địa võng” hoặc một thứ lưới bắt cá đan bằng trăm nghìn sợi dây bền chắc nhưng vô hình.

Tôn Tử viết khá dài, và Đa-lét đã trích dẫn nhiều đoạn ra những tờ giấy riêng, như đoạn nói về hoạt động phản gián, về thông tin giả, về chiến tranh tâm lý, về chiến thuật an toàn đối với các điệp viên.

Hoạt động tình báo theo kiểu Tôn Tử là lời thách thức hoạt động tình báo của thời cổ Hy Lạp và La Mã. Ở đấy, người cổ chủ yếu nhờ cậy vào những chỉ dẫn của quỷ thần. Còn Tôn Tử thì cho rằng hoạt động tình báo không thể dựa vào quỷ thần hay thượng đế được. Trong hoạt động tình báo chỉ cần dựa vào con người - vào kẻ thù và bạn bè - mà thôi.

Ả điệp viên của ghét-xta-pô đã chụp ảnh được quyển Kinh thánh với vô số lời nhận xét của tên tình báo viên người Mỹ ở bên lề các trang sách. Trong quyển đó, Đa-lét có gạch dưới đoạn kể I-i-xút Na-vin cử hai người tới thành phố I-ê-ri-khôn để bí mật xem xét tình hình mọi mặt. Và hai người ấy đã tìm tới nhà một người phụ nữ lầm lạc tên là Ra-áp. Theo lời Đa-lét nói với bạn bè, thì hắn coi đây là ví dụ đầu tiên được ghi vào sử biên niên về cái mà các điệp viên chuyên nghiệp hiện nay gọi là nơi ẩn nấp. Ra-áp đã giấu hai điệp viên trong nhà ả, và sau đó dẫn chúng ra khỏi thành phố. Khi quân I-xra-en chiếm được I-ê-ri-khôn, chúng đã chém giết hết thẩy mọi người, chỉ chừa lại một mình ả Ra-áp và gia đình ả. Cái truyền thống khen thưởng những người đã giúp đỡ hoạt động tình báo bắt đầu chính là từ thời kỳ ấy.

Theo báo cáo của điệp viên từ nhà Đa-lét gửi về Trung tâm tình báo quốc xã, thì một trong những cuốn sách mà A-len Đa- lét thích là cuốn “Rô-bin-xơn Cơ-ru-dô” của Đa-ni-en Đê-phô. Hắn cũng rất hay giở xem quyển “Mô-li Phơ-len-đéc” và “Ghi chép về năm dịch hạch”. Những cuốn sách ấy là của Đa-ni-en Đê-phô, một trong những tình báo viên xuất sắc nhất. Đa-ni-en Đê-phô chẳng những đã có sáng kiến tự lập ra mạng lưới tình báo rộng lớn, mà còn là viên chỉ huy đầu tiên của ngành tình báo nước Anh. Nhiều năm sau khi ông ta chết, thế giới mới biết điều này.

Đa-lét cố tìm trong các trang sách của Đê-phô, xem có câu văn nào, dù chỉ nói một cách hết sức xa xôi, rằng tác giả của nó là người cầm đầu cơ quan tình báo Anh quốc hay không. Nhưng hắn chẳng tìm thấy một câu nói bóng gió nào về chuyện ấy cả.

Cũng theo báo cáo của nữ điệp viên kia, thì vào những lúc rỗi rãi, A-len Đa-lét thường chú trọng tìm hiểu hoạt động thực hành và phương pháp của các tổ chức tình báo lớn nhất tại châu Âu trong thế kỷ XIX.

Rất nhiều từ liệu khác nữa về A-len Đa-lét đã được tích lũy trong các tủ bọc sắt ở cơ quan Him-le. Song các trùm thủ lĩnh của nước Đức quốc xã vẫn chưa có tài nào xác định một cách tuần tự và chính xác tiểu sử của tên điệp viên sừng sỏ giữa thế kỷ XX ấy.

Lý lịch của A-len Đa-lét không có gì đáng chú ý lắm. Sau khi nhận bằng thạc sĩ nghệ thuật vào năm hai mươi ba tuổi, hắn đi làm giáo sĩ truyền đạo ở Ấn Độ và Trung Quốc. Tháng năm năm 1916, hắn nhận chức vụ ngoại giao đầu tiên của hắn ở Viên. Hắn từng là đoàn viên của phái đoàn do Vu-đờ-rô Uyn-xơn cầm đầu ở Pa-ri. Sau đó, hắn nhận một nhiệm vụ đặc biệt và tới Thụy Sĩ và Áo làm việc với mục đích duy trì đế quốc Áo - Hung. Tại đó, năm 1918, hắn đã chuẩn bị một âm mưu đầu tiên. Âm mưu này có thể dẫn đến kết quả to lớn, giá như hắn thực hiện đến cùng. Song cuộc cách mạng tháng mười một ở Đức do những người cộng sản lãnh đạo đã ngăn cản việc thực hiện âm mưu đó. Cái chế độ quân chủ tương lai của Gabx-bua mưu toan làm đội vệ binh và chiếc lá chắn vững chắc của phương Tây, nhằm ngăn chặn làn sóng bôn-sê-vích lan tràn ở châu Âu, đã bị phá sản thảm hại.

Một năm sau, năm 1919, A-len Đa-lét được cử làm bí thư thứ nhất đại sứ quán Hoa Kỳ ở Đức. Tại đây, trong ngôi nhà số 7, đại lộ Vin-hem, A-len Đa-lét đã tiếp xúc trực tiếp với những kẻ coi nhiệm vụ chủ yếu của mình là đối phó với chủ nghĩa bôn- sê-vích ở châu Âu. Chính tại đây, A-len Đa-lét đã giới thiệu Đờ- rét-xơn, đại biện lâm thời Hoa Kỳ tại Đức, với tướng Hốp-man, kẻ vạch kế hoạch đầu tiên cho quân Đức tần công Crem-lin.

Bấy giờ Hốp-man đã nói với Đa-lét và Đơ-rét-xơn: “Suốt đời tôi, tôi chỉ tiếc một điều. Tôi tiếc rằng trong thời kỳ Brét-Li-tốp- xcơ, tôi đã không xé bỏ hiệp ước và không tiến quân sang Mát- xcơ-va. Hồi ấy, tôi có thể dễ dàng làm việc đó”.

Chính dạo đó và chính Hốp-man trong lúc trò chuyện với Đa-lét đã khôn khéo biện hộ cho cái học thuyết về sau được gọi là thuyết “Đơ-răng nắc ô-xten” 1.

Ở Béc Lanh về, A-len Đa-lét tới làm việc hai năm ở Côn- stăng-ti-nô-pôn, thủ đô của một nước nằm ngay bên cạnh nước Nga Xô-viết, thủ đô của một nước vừa là chiếc chìa khóa mở cửa tới Biển Đen và Địa Trung Hài, vừa là đầu cầu trên con đường dẫn đến các nguồn dự trữ dầu lửa của thế giới.

Từ nơi ấy, A-len Đa-lét trở về Oa-sinh-tơn. Hắn trở thành Vụ trưởng Vụ Cận Đông ở Bộ Ngoại giao. Cận Đông là một trong những điểm nóng nhất trên thế giới lúc bấy giờ. Cận Đông, đó là dầu lửa, là nguồn nuôi dưỡng chiến tranh. Bọn trùm tư bản công nghiệp Mỹ trong ngành dầu lửa hồi ấy rất lo sợ trước những thắng lợi to lớn của lối cạnh tranh Anh quốc trên thị trường thế giới.

Chính dạo đó Bét-pho, giám đốc công ty “Stăng-đa ôi-lơ ốp Niu - Giéc-xi” đã tuyên bố: “Đối với Hoa Kỳ lúc này, điều quan trọng là phải thi hành chính sách xâm lược”.

Và Đa-lét ra sức hoạt động. Thắng lợi đầu tiên đối với nước Anh mà phía Mỹ giành được là nhớ tài điều khiển của hắn. Đó là vào năm 1937, khi công ty của Rốc-phe-lơ giành được hai  mươi lăm phần trăm cổ phần trong Công ty dầu lửa “I-rắc pét- rô-lê-um com-pa-ni”.

Cùng trong năm ấy, nghiệp đoàn dầu lửa “Gal-phơ ôi-lơ” thuộc nhóm Mê-lơn giành được quyền ưu tiên nhượng địa ở quần đảo Bác-rên.

Giành xong những thắng lợi đó, A-len Đa-lét quyết định về hưu. Nhưng việc tìm hiểu hoạt động tình báo trong nhà băng của tập đoàn Rốt-sin-đơ đã khiến hắn nghĩ rằng cương vị ở Bộ Ngoại giao mới chỉ là nấc thang đầu tiên trên bậc thang danh vọng đáng kể sau này của hắn.

A-len Đa-lét nhận làm việc cho hãng luật “Xa-li-vên ên Cờ- rôm-vên”, một trong những hãng lớn nhất ở phố U-ôn, một hãng gắn bó mật thiết với tập đoàn Rốc-phe-lơ và Moóc-gang. Chính ở đây, tại hãng luật này, A-len Đa-lét đã tiến hành một chiến dịch rộng lớn nhằm giành cho Hoa Kỳ các nhượng địa dầu lửa ở nước Cộng hòa Cô-lôm-bi-a.

Chính hãng “Xa-li-vên ên Cờ-rôm-vên” đã làm việc với chính phủ Pa-na-ma trong thời kỳ xây dựng kênh đào. Chính hồi ấy hãng “Xa-li-vên ên Cờ-rôm-vên” đã đặt những quan hệ mật thiết nhất với nước Đức, là nơi, sau hiệp ước Véc-xây, bọn tư bản công nghiệp Mỹ đã đầu tư vào rất nhiều đô-la.

Chính dạo đó A-len Đa-lét và anh hắn là Giôn Phô-xtơ Đa- lét đã cấu kết chặt chẽ với tờ-rớt “I. G. Phác-ben-in-đu-xtơ- ri” của Ti-xen và với công-xéc “Rô-béc Bô-sơ”. Hai anh em Đa-lét đã trở thành các điệp viên người Mỹ làm việc cho hai nghiệp đoàn đó của nước Đức.

Ngay trong thời kỳ đầu tiên của chiến tranh, A-len Đa-lét đã lâm vào tình trạng bị phá sản đến nơi. Công-xéc “Rô-béc Bô-sơ” có một chi nhánh ở Hoa Kỳ. Chi nhánh này gọi là “A-mê-ri-cơn Bô-sơ Coóc-pô-rây-sơn”. Trong thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, hãng này có nguy cơ bị liệt vào sổ đen. Bọn chủ hãng vội vã ký hợp đồng với hai chủ nhà băng Thụy Điển là hai anh em Va-len-béc. Hợp đồng này quy định rằng nhà băng Thụy Điển sẽ kiểm tra trên danh nghĩa hãng “A-mê-ri-cơn Bô-sơ Coóc-pô-rây-sơn” với điều kiện chờ khi chiến tranh kết thúc mới chuyển giao hãng đó cho chủ nhân của nó. 

Anh em nhà Va-len-béc đồng ý, nhưng họ đòi bên ký hợp đồng phải là người Mỹ để làm tất cả những thủ tục cần thiết. Vai trò ấy được giành cho hai anh em Đa-lét, A-len Đa-lét đã đánh lừa được chính quyền Mỹ và che giấu tài sản của bọn Đức quốc xã dưới lá cờ Thụy Điền. Sau đó, A-len Đa-lét chẳng những trở thành đồng chủ nhân của hãng “Xa-li-ven ên Cờ-rôm-vên”, mà còn làm giám đốc “Sờ-rê-đe tờ-rốt Com-pa-ni” và đồng thời làm giám đốc “Gi. Hen-ri Sờ-rê-đe bên-kinh Coóc-pô-rây-sơn”.

Sờ-rê-đe là ai vậy?

Hắn là công dân Đức ở Đức, công dân Mỹ - ở Hoa Kỳ, công dân Anh ở Anh quốc. Vào những năm ba mươi, công-xéc nói trên do nam tước Cuốc phôn Sờ-rê-đe cầm đầu, Ngày 7 tháng giêng năm 1933, tại biệt thự của Sờ-rê-đe ở Ken-nơ, Hít-le đã gặp mặt phôn Pa-pen. Ở đó hắn đã phác ra kế hoạch cho bọn quốc xã giành lấy chính quyền. Nhờ thế, Cuốc phôn Sờ-rê-đe được phong chức trung tướng SS. Chính hắn trở thành chủ tịch của tổ chức bí mật “Phờ-ren-đen Cờ-rây-xơ”. Tổ chức này đã quyên tiền trong giới trùm tư bản vùng Rua cho các đơn vị SS của thống chế Hen-rích Him-le.

Chi nhánh của công-xéc Sờ-rê-đe ở Anh cấp tiền cho “Hội Anh - Đức” ở Luân Đôn. Chức năng của Hội này là tuyên truyền cho các tư tưởng của Quốc trưởng Hít-le ở nước Anh. Có thể đoán biết chức năng của hãng “Gi. Hen-ri Sờ-rê-đe bên-kinh Coóc-pô-rây-sơn” ở Hoa Kỳ. Giám đốc hãng ấy là A-len Đa-lét...

Chính con người ấy, cái kẻ hiểu biết châu Âu, nước Đức, đảng Quốc xã, giới tư bản dầu lửa hơn ai hết ấy đã trở thành kẻ cầm đầu cơ quan đại diện Cục tình báo chiến lược của Hoa Kỳ tại châu Âu.

Dĩ nhiên, Đa-lét không phải là đặc phái viên của tổng thống Ru-dơ-ven ở Béc-nơ. Việc hắn chuyển sang Cục tình báo chiến lược có liên quan tới một buổi nói chuyện giữa hắn với một đại biểu của giới tư bản, một tuần sau khi quân Nhật tấn công Piếch-lơ Ha-bo.

- Ngài hỏi triển vọng ra sao ư? - Đa-lét đăm chiêu nói, miệng vẫn ngậm chiếc tẩu thuốc nhãn hiệu Anh như thường lệ, - Tôi chưa thể trả lời cặn kẽ được. Muốn nhận rõ triển vọng đối với mình, cần phải nghiên cứu nền tài chính và những giai thoại lưu truyền trong nước, các vở diễn mới ở nhà hát và báo cáo về các hội nghị đảng quốc xã ở Nu-rem-be. Tôi thấy rõ một điều: nước Đức sẽ không im hơi lặng tiếng - tôi muốn nói đến nước Đức của những nhà tư bản tài chính cỡ lớn, loại như ông Sa-khơ đã về vườn, và của những nhà văn đang buộc phải kiếm ăn bằng cách dịch sách từ tiếng La-tinh.

- Ông Sa-khơ thì đáng chú ý đấy, còn các nhà văn thì...

- Thì cũng rất đáng chú ý, - Đa-lét phản đối, - thậm chí còn đáng chú ý hơn là ngài nghĩ kia. Từ năm 1934, Him-le đã phạm một sai lầm nghiêm trọng đầu tiên, khi ông ta tống phôn Ô-xét-xki, người được giải thưởng Nô-ben, vào trại tập trung. Ông ta đã dựng lên hình tượng một người bị hành hạ. Đối với cái người bị hành hạ ấy, lẽ ra không nên tống vào trại tập trung, mà phải mua chuộc ông ta bằng danh vọng, tiền và gái... Không ai dễ bị mua chuộc bằng diễn viên, nhà văn và nghệ sĩ. Phải biết khéo léo mua chuộc họ, bởi vì đó là hình thức tố giác tốt nhất.

- Ồ, điều đó không làm chúng tôi quan tâm, đó chỉ là những chi tiết nhỏ nhặt...

- Đó không phải là chi tiết, - Đa-lét khăng khăng phản đối, - Đó hoàn toàn không phái là các chi tiết nhỏ nhặt, Hít-le đã giáo dục bảy mươi triệu người mù quáng tuân lệnh ông ta. Sân khấu, phim ảnh và hội họa của ông ta đang giáo dục những người máy mù quáng. Điều này không thể làm chúng ta vừa lòng: người máy hoàn toàn không muốn buôn bán, tiếp xúc và nghĩ ra một chiến dịch sinh lời trong lĩnh vực của nhà tư bản. Những người máy mù quáng không cần đến Sa-khơ. Nhưng chúng tôi cần đến ông ấy. Bởi vậy, - Đa-lét kết luận, - ở đây tất cả mọi việc đều gắn bó mật thiết qua lại với nhau. Và sự tương tác ấy nhất định sẽ dẫn tới giới trí thức trong quân đội… Mà trí thức trong quân đội thì đó là những người có cấp bậc từ thiếu tá đến thống chế, chứ không thấp hơn. Thấp hơn là những người máy chỉ biết mù quáng thi hành bất kỳ mệnh lệnh nào, không cần suy nghĩ tí gì…

- Ôi, cách giải thích này đáng chú ý đây, - người tiếp chuyện với A-len Đa-lét nói, - Nó đáng chú ý vì nó có nhiều triển vọng lắm. Thế mà ông lại bảo rằng ông không thể trả lời câu hỏi của tôi...

༺༒༻

Khi Các-lơ Vôn-phơ bước ra khỏi phòng làm việc của Him-le, viên thống chế SS ngồi bất động khá lâu, tưởng chừng hắn đã hóa đá. Không phải hắn đang run sợ. Làm gì có chuyện ấy. Hay ít ra là hắn không nghĩ như vậy. Chẳng qua đây là lần đầu tiên trong đời hắn phải lùi bước. Hắn đã biết có những kẻ lùi bước, thậm chí hắn không làm phiền họ, trong khi theo dõi xem ai sẽ thắng trong tháng bảy năm một nghìn chín trăm bốn mươi tư. Nhưng giờ đây thì chính hắn đã có hành động phản bội quốc gia; chỉ có một hình phạt duy nhất dành cho việc đàm phán với kẻ thù, đó là xử bắn. Những cuộc trao đổi với Gơ-rinh thì bao giờ hắn cũng có thể bảo đảm an toàn; vì hắn đã thăm dò được tâm trạng của cái kẻ đã rời bỏ đời sống chính trị tích cực ấy. Giả sử có lộ việc hắn biết rõ âm mưu lật đổ tháng bảy năm ngoái, thì hắn cũng dễ dàng bác bỏ bằng cách chứng minh rằng, tất cả những kẻ chủ mưu và đồng mưu đều bị tóm cổ ngay: “Mình làm chủ trò chơi, tất cả bọn chúng đều ở trong nắm tay mình, còn Stau- phen-béc là một người cực đoan, lại có nhiều chuyện bất ngờ, hơn nữa, lúc xảy ra sự biến, mình có mặt ở hầm ngầm bên cạnh Quốc trưởng, đó chẳng phải là bằng chứng vô tội hay sao?”

Nhưng giờ đây Các-lơ Vôn-phơ đã lên đường sang Thụy Sĩ để trực tiếp đàm phán với Đa-lét - một sĩ quan cao cấp SS sẽ tiếp xúc với một điệp viên cỡ lớn của phe Đồng minh.

Theo thói quen thường ngày của mình, Him-le bỏ kính ra - hôm nay hắn đeo kính không gọng, các thầy giáo ở trường trung học hay dùng loại kính này - và chậm rãi lấy miếng da mỏng lau mắt kính. Hắn bỗng cảm thấy có điều gì thay đổi trong con người hắn. Hắn không hiểu ngay là có điều gì thay đổi, lát sau hắn mới mỉm cười: “Mình đã bắt đầu động đậy, - hắn hiểu ra. - Đáng sợ nhất là cảnh ngồi im bất động, vì như thế chẳng khác gì một cơn ác mộng”.

Hắn gọi Sê-len-béc tới. Chỉ một phút sau, viên Cục trưởng Cục tình báo chính trị đã bước vào phòng hắn, tựa hồ Sê-len- béc ngồi chực sẵn ở phòng đợi, chứ không phải ở phòng mình trên tầng ba.

- Các-lơ Vôn-phơ đã đáp máy bay đi gặp Đa-lét, - Him-le nói và bẻ ngón tay răng rắc.

- Như thế là sáng suốt...

- Như thế là điên rồ, ông Sê-len-béc ạ, như thế là điên rồ và mạo hiểm.

- Ngài nghĩ rằng có khả năng thất bại ư?

- Tôi muốn nói đến cả một loạt khả năng! Đó là ông, đó là công việc của ông. Ông đã đưa tôi đến bước đường ấy!

- Nếu Các-lơ Vôn-phơ thất bại, toàn bộ tài liệu sẽ thuộc về chúng ta.

- Chúng có thể rơi vào tay thằng cha người Viên trước tiên.

Sê-len-béc đưa mắt nhìn Him-le dò hỏi. Him-le cau có giải thích:

- Thằng cha người Viên tức là Can-ten-bơ-ru-ne. Và tôi không biết sau đó các tài liệu ấy sẽ bị gửi tới đâu, tới Boóc-man hay tới tay tôi. Ông còn lạ gì hành động của Boóc-man, một khi ông ta nhận được những tài liệu như thế nữa. Và ông cũng dễ hình dung phản ứng của Quốc trưởng, khi biết rõ mọi chuyện, nhất là lại qua lời giái thích của Boóc-man.

- Tôi cũng đã phân tích kỹ cả khả năng ấy.

Him-le cau mày khó chịu. Lúc này, hắn chỉ muốn triệu hối Vôn-phơ về, để ông ta ở đây và quên hoàn toàn cuộc nói chuyện với ông ta đi, loại bỏ cuộc nói chuyện đó ra khỏi ký ức của mình.

- Tôi cũng đã phân tích kỹ cả khả năng ấy, - Sê-len-béc nhắc lại. - Một là, Các-lơ Vôn-phơ có trách nhiệm nói chuyện với Đa-lét không phải thay mặt mình, cũng không phải thay mặt ngài, mà là thay mặt thống chế Két-xơ-rinh, vì ông ta thuộc quyền Két-xơ-rinh ở bên Ý. Ông ta là phó tổng tư lệnh quân đội tại Ý, ông ta không nằm dưới quyển chỉ huy trực tiếp của ngài...

Him-le liếc nhanh sang phía Sê-len-béc. “Thông minh thật, - hắn nghĩ. - Tất cả mọi chuyện đều rõ ràng! Và đều gắn liền với câu chuyện của mình ở nhà Gơ-rinh!”

Thống chế Két-xơ-rinh đã có thời làm trợ lý không quân của Gơ-rinh. Tất cả mọi người đều coi ông ta là người của Gơ-rinh.

- Hay đấy, - Him-le nói. - Ông nghĩ ra điều đó từ trước, hay nó vừa mới nảy ra trong đầu ông thế?

- Ý nghĩ đó nảy ra trong đầu tôi, khi tôi biết Vôn-phơ lên đường, - Sê-len-béc trả lời. - Ngài cho phép tôi hút thuốc được không ạ?

- Được, mời ông cứ tự nhiên, - Him-le đáp.

Sê-len-béc châm thuốc - từ năm một nghìn chín trăm ba mươi sáu, y chỉ hút thuốc “Kê-mên” chứ không dùng bất cứ loại thuốc lá nào khác, Một lần, vào năm bốn mươi hai, sau khi Mỹ bắt đầu tham chiến, người ta mới hỏi y: “Ông lấy đâu ra thuốc lá của kẻ thù thế?”, thì Sê-len-béc trả lời: “Quả thực là ai mua thuốc lá Mỹ đều coi như kẻ phản quốc”...

- Tôi đã tính hết mọi khả năng, - y nói tiếp, - thậm chí cả đến khả năng xấu nhất.

- Nghĩa là gì? - Him-le cảnh giác hỏi. Hắn đã bình tĩnh trở lại. Triển vọng rất sáng sủa. Làm gì còn khả năng xấu nhất, nếu mọi việc đã xếp đặt tốt như vậy?

- Chuyện gì sẽ xảy ra, nếu Két-xơ-rinh, và tệ hơn nữa là Gơ-rinh, người đỡ đầu của ông ta, có thể chứng minh bằng chứng vô tội của mình trong vụ này?

- Chúng ta có thể không gạt bỏ khả năng đó. Ông hãy lo từ trước đi.

- Chúng ta có thể không gạt bỏ thật, nhưng ngài đã xử lý rất đúng khi đẩy người phó của ngài là Can-ten-bơ-ru-ne ra khỏi chiến dịch này của chúng ta. Ông ta, và cả Muyn-lơ nữa, có thể chứng minh rằng Gơ-rinh là kẻ vô tội.

- Được rồi, được rồi, - Him-le uể oải nói, - thế ông đề nghị nên làm gì?

- Tôi đề nghị bắn một phát súng giết hai con chim dẽ gà.

- Đâu phải chuyện dễ, - giọng nói của Him-le càng uể oài, mệt mỏi hơn, - hơn nữa, tôi không phải là thợ săn...

- Quốc trưởng nói rằng khối Đồng minh sắp tan rã đến nơi, có phải thế không ạ? Vậy thì, làm cho chúng tan rã có phải là một trong những nhiệm vụ chủ yếu của chúng ta hay không? Xta-lin sẽ hành động ra sao, nếu ông ta biết những cuộc đàm phán riêng rẽ mà tướng SS Vôn-phơ đang tiến hành với các nước Đồng minh phương Tây? Tôi không đám khẳng định ông ta sẽ làm những việc cụ thể nào, nhưng chắc chắn ông ta sẽ ra tay - điều này thì tôi không nghi ngờ chút nào cả. Vậy thì, chuyến đi của ông Vôn-phơ, mà chúng ta gọi là chiến dịch thông tin giả cho Xta-lin, có lợi cho Quốc trưởng hay không? Nghĩa là câu chuyện huyền thoại của chúng ta - cuộc đàm phán - chỉ nhằm đánh lừa Xta-lin! Chúng ta sẽ giải thích với Quốc trưởng như vậy, nếu chiến dịch bị bại lộ.

Him-le đứng dậy khỏi ghế - hắn không thích ngồi ghế bành, mà chỉ ưa ngồi trên chiếc ghế văn phòng cũ kỹ, - đi lại cửa sổ và nhìn rất lâu cảnh đổ nát của Béc Lanh. Lác đác bên các hố bom, cây cỏ đã mọc xanh. Trẻ em đi học về đang nói cười vui vẻ. Hai người phụ nữ đẩy xe nôi đi dưới phố. Him-le nhìn thấy cảnh đó, liền trở nên bình tĩnh và chợt nghĩ: “Mình sẽ rất sung sướng nếu được vào rừng chơi và ngủ đêm bên cạnh đống lửa. Trời ơi, Van-te Sê-len-béc mới thông minh làm sao…”.

- Tôi sẽ suy nghĩ về điều ông vừa nói, - Him-le trả lời nhưng không ngoảnh lại. Hắn muốn giành về phần mình chiến thắng của Sê-len-béc, Sê-len-béc sẵn sàng dâng nó cho thống chế SS - bao giờ y cũng dâng lên hắn và Hây-đơ-rích các chiến thắng của y. Bởi vậy, y nói:

- Ngài có quan tâm đến các chi tiết không, hay để tôi tự lo liệu sắp đặt ạ?

- Ông hãy tự lo liệu lấy, - Him-le đáp, nhưng khi Sê-len- béc đi ra đến cửa thì hắn quay mặt lại - Nói đúng ra thì trong chuyện này không nên có chi tiết. Cụ thể, ý của ông là gì?

- Trước hết là chiến dịch che đỡ... Nghĩa là phải đưa một nhân vật nào đó, không phải người của chúng ta, vào cuộc đàm phán với phương Tây... Rồi chúng ta sẽ giao tài liệu về nhân vật đó cho Quốc trưởng... Trong trường hợp cần thiết… Đó chứng tỏ thắng lợi của cơ quan tình báo chúng ta: ta đã phá vỡ các âm mưu quỷ quyệt của kẻ thù, - theo cách nói của ông Gơ- ben. Hai là, ở Thụy Sĩ, Vôn-phơ sẽ bị hàng nghìn cặp mắt dõi theo, trong đó có thể có các điệp viên của chúng ta. Họ sẽ lập tức báo tin về đây. Tin sẽ rơi vào tay ai? Điệp viên của ai sẽ báo tin - của tôi hay của Muyn-lơ? Một nhà trí thức biết sáng suốt đánh giá tình hình, hay một kẻ cuồng tín mù quáng, kiểu như Can-ten- bơ-ru-ne? Do đó, tôi muốn rằng đằng sau hàng nghìn cặp mắt của đồng minh phương Tây, còn có năm, sáu cặp mắt theo dõi của tôi nữa, Vôn-phơ sẽ không biết về người của chúng ta - họ sẽ truyền tin thẳng về chỗ tôi. Cộng với hai điểm trên, đó sẽ là bằng chứng vô tội thứ ba. Nếu sự việc bại lộ, đành phải hy sinh Vôn-phơ, nhưng các tài liệu quan sát, theo dõi ông ta thì sẽ làm bằng chứng vô tội cho chúng ta.

- Cho ông thôi, - Him-le chữa lại, - cho ông thôi chứ.

“Mình lại làm cho lão sợ rồi, - Sê-len-béc nghĩ bụng. - Các chi tiết ấy làm cho lão run sợ. Lão sợ một chiến dịch táo bạo, nói chung, lão sợ hết thảy. Bao giờ cũng chỉ nên nhận lấy sự đồng ý của hắn trên nguyên tắc thôi, còn mọi chi tiết thì mình tự lo liệu cho xong”.

- Ông định cử ai đi Thụy Sĩ?

- Tôi đã nhắm được mấy người đáng tin cậy, - Sê-len-béc trả lời, - nhưng đó là các chi tiết mà tôi có thể tự giải quyết, để ngài khỏi bận tâm và có thì giờ lo những việc quan trọng hơn.

Trong danh sách mấy người y nhắm để thực hiện nhiệm vụ thứ nhất, có phôn Sơ-tiếc-lít với vị giám mục do anh “đỡ đầu”.

༺༒༻

1. Tiếng Đức, có nghĩa “tiến sang phía Đông”.