← Quay lại trang sách

PHẦN MỘT (C) PHẦN VỀ CÁC NHÀ PHÊ BÌNH

Họ quyết định không nói với ai khác về những gì mình biết. Bằng cách giữ im lặng, họ lý luận, họ không phản bội ai cả, chỉ hành xử thận trọng và dè dặt, vì con người ấy đáng được như vậy. Họ nhanh chóng tự thuyết phục mình tốt nhất là đừng nuôi dưỡng những hy vọng hão. Theo Borchmeyer, năm nay Archimboldi lại là ứng viên giải Nobel. Năm ngoái tên ông cũng nằm trong danh sách những người có thể đoạt giải. Toàn hy vọng hão. Theo Dieter Hellfeld, một thành viên của Viện Hàn lâm Thụy Điển hoặc thư ký của một thành viên của viện đã liên lạc với nhà xuất bản của Archimboldi để tìm hiểu xem nhà văn sẽ phản ứng thế nào nếu ông ấy được trao giải. Một người đã trên tám mươi tuổi có thể nói gì? Giải Nobel có ý nghĩa gì với một người như vậy, một người không có gia đình, không người nối dõi, không một lần hiện diện trước công chúng? Bà Bubis nói ông ấy sẽ vui lắm. Chắc hẳn bà nói vậy để bảo lãnh thôi, khi xét đến doanh số. Nhưng liệu nữ nam tước có bận lòng về doanh số, về đống sách chất chồng trong các nhà kho của nhà xuất bản Bubis ở Hamburg? Không, chắc chắn không, Dieter Hellfeld nói. Nữ nam tước đã gần chín mươi, và nhà kho chẳng phải là mối quan tâm của bà. Bà đi lại khá nhiều, Milan, Paris, Frankfurt. Đôi khi người ta có thể thấy bà nói chuyện với Signora Sellerio ở gian hàng Bubis ở Frankfurt. Hoặc ở đại sứ quán Đức ở Moskva, vận bộ vét của Chanel, trong nhóm người đi theo có hai nhà thơ Nga, diễn thuyết về Bulgakov và vẻ đẹp (không gì bì được) của những dòng sông nước Nga mùa thu, trước khi băng giá của mùa đông đến. Đôi khi, Pelletier nói, cứ như thể là bà Bubis đã quên béng mất Archimboldi từng tồn tại. Ở Mexico cái kiểu nó luôn như thế, Alatorre trẻ tuổi nói. Dù sao đi nữa, theo Schwarz, Archimboldi nằm trong danh sách vòng cuối, nên giải Nobel hoàn toàn có khả năng. Và có thể các viện sĩ Thụy Điển muốn một sự thay đổi. Một gương mặt kỳ cựu, một kẻ đào ngũ trong Thế chiến thứ hai vẫn còn đang trốn chạy, một nhắc nhở về quá khứ cho châu Âu lúc này đang trong quãng thời gian tối tăm. Một nhà văn cánh tả mà đến cả các tay theo chủ nghĩa tình huống cũng kính trọng. Một người không thèm giả vờ hòa giải với cái không thể hòa giải, như thói đời ngày nay vẫn thế. Tưởng tượng xem, Pelletier nói, Archimboldi đoạt giải Nobel và chính tại thời khắc đó chúng ta xuất hiện, cầm tay dẫn ông ấy.

♣ ♣ ♣

Họ không thể luận ra Archimboldi đang làm gì ở Mexico. Tại sao một người trong độ tuổi tám mươi như ông lại đi đến một đất nước ông chưa từng đến? Một mối quan tâm bất thình lình? Nghiên cứu bối cảnh cho một cuốn tiểu thuyết viết dở? Không có khả năng đó lắm, họ nghĩ, bởi vì bốn người không mấy tin Archimboldi sẽ viết thêm sách.

Họ ngầm ngả theo hướng câu trả lời đơn giản nhất nhưng cũng lạ lùng nhất: Archimboldi tới Mexico để đi du lịch, như nhiều người Đức và châu Âu về hưu khác. Nhưng giải thích này chả có nghĩa lý gì. Họ hình dung một ông già Phổ ghét người một sáng nọ thức dậy, bỗng phát điên. Họ cân nhắc các khả năng mất trí vì tuổi già. Họ xé bỏ các giả thuyết của mình và bám chặt vào những gì El Cerdo đã kể. Nếu Archimboldi đang trốn chạy thì sao? Nếu Archimboldi thình lình tìm ra một lý do mới để trốn chạy thì sao?

Ban đầu Norton là người ít háo hức nhất trong việc truy theo dấu vết ông. Với cô, hình ảnh họ trở về châu Âu dắt theo Archimboldi giống như hình ảnh của một đám bắt cóc. Dĩ nhiên, không ai có kế hoạch bắt cóc Archimboldi. Hay thậm chí dồn dập đặt câu hỏi cho ông. Espinoza chỉ nhìn thấy ông là thỏa mãn rồi. Pelletier sẽ thỏa mãn nếu anh có thể hỏi ông chiếc mặt nạ da trong tiểu thuyết cùng tên của ông làm từ da của ai. Morini sẽ thỏa mãn nếu anh có thể xem những tấm ảnh người ta chụp ông ở Sonora.

Không ai hỏi ý kiến của Alatorre, nhưng cậu sẽ thỏa mãn được tạo dựng quan hệ bằng hữu qua thư từ với Pelletier, Espinoza, Morini và Norton, và có lẽ, nếu không quá phiền hà, thường xuyên đến thăm họ tại thành phố của từng người. Chỉ Norton hơi ngần ngại. Nhưng rốt cuộc cô quyết định đi. Tôi nghĩ Archimboldi sống ở Hy Lạp, Dieter Hellfeld nói, và tác giả chúng ta biết dưới tên Archimboldi thật ra là bà Bubis.

“Vâng, tất nhiên,” bốn người bạn của chúng ta nói, “bà Bubis.”

♣ ♣ ♣

Giờ chót, Morini quyết định không đi. Anh nói thể trạng ốm yếu của anh khiến điều này bất khả. Marcel Schwob, một người có sức khỏe mong manh như anh, năm 1901 khởi hành một chuyến đi khó khăn hơn thế này đến thăm mộ của Stevenson trên một hòn đảo ở Thái Bình Dương. Chuyến đi của Schwob kéo dài nhiều ngày, thoạt tiên trên con tàu Ville de la Ciotat, rồi Polynesienne, và rồi đến tàu Manapouri. Tháng Một 1902 ông bị viêm phổi và suýt chết. Schwob du hành cùng một người hầu Trung Hoa, Ting, anh này vừa đặt chân lên tàu đã say sóng. Hoặc có thể anh ta say sóng chỉ khi biển động. Dù sao đi nữa biển động và chứng say sóng đã trút lên chuyến đi ấy. Có một lúc, Schwob lúc ấy đang nằm trên giường trong phòng ngủ riêng tin rằng mình sắp từ giã cõi đời, cảm thấy có ai đó nằm xuống cạnh mình. Khi ông quay sang để xem kẻ xâm phạm là ai thì phát hiện ra đó là người hầu châu Á của mình, xanh mét như tàu lá chuối. Chỉ khi đó ông mới nhận ra mình đã cất chân đi trên một chuyến đi mạo hiểm như thế nào. Sau nhiều gian nan tới được Samoa, ông không đi viếng mộ Stevenson. Một phần bởi vì ông quá ốm, phần vì đi thăm mộ một người chưa chết thì có ý nghĩa gì? Stevenson - và Schwob mang ơn chuyến đi vì mặc khải giản đơn này - sống bên trong ông.

Morini, vốn ngưỡng mộ Schwob (hoặc chính xác hơn, rất yêu mến ông), thoạt tiên nghĩ rằng chuyến đi của mình tới Sonora có thể là một dạng tưởng niệm nhà văn Pháp kia và cả nhà văn Anh mà ông nhà văn Pháp định đến thăm mộ, nhưng khi trở về Turin anh nhận thấy chuyến đi là quá sức mình. Nên anh gọi các bạn và nói dối rằng bác sĩ nghiêm cấm mọi sự đi lại. Pelletier và Espinoza chấp nhận giải thích của anh và hứa sẽ gọi anh thường xuyên để cập nhật về chuyến tìm kiếm họ đang thực hiện, chuyến tìm kiếm dứt điểm.

Với Norton thì khác. Morini lặp lại rằng anh sẽ không đi. Rằng bác sĩ đã cấm. Rằng anh dự định viết thư cho họ hằng ngày. Anh thậm chí cười và kể một chuyện tiếu lâm ngớ ngẩn mà Norton không hiểu. Một chuyện tiếu lâm về người Ý. Một người Ý, một người Pháp và một người Anh trên một chiếc máy bay chỉ có hai cái dù. Norton nghĩ rằng đó là chuyện tiếu lâm chính trị. Thực ra, đó là chuyện tiếu lâm trẻ con, mặc dù vì cái cách Morini kể, người Ý trên máy bay (đầu tiên hỏng một động cơ rồi tới cái kia rồi lộn nhào xuống) giống hệt Berlusconi. Norton hầu như không mở miệng. Cô chỉ ừm, ừm, ừm. Và rồi cô nói chúc ngủ ngon, Piero, bằng tiếng Anh, một cách rất ngọt ngào, hay ít nhất theo một cách dường như đối với Morini là ngọt ngào không chịu nổi, rồi cô gác máy.

Norton cảm thấy có phần bị sỉ nhục vì Morini quyết định không đi cùng họ. Họ không gọi điện cho nhau nữa. Morini có thể đã gọi cho Norton, nhưng trước khi các bạn của anh bắt đầu cuộc tìm kiếm Archimboldi, anh, theo cách của riêng mình, như Schwob ở Samoa, đã bắt đầu một hành trình, một hành trình không kết thúc ở ngôi mộ một người dũng cảm mà là ở một dạng quy hàng, có thể được gọi là một trải nghiệm mới, bởi vì đây không phải là sự quy hàng theo bất cứ nghĩa thông thường nào của từ này, hay thậm chí là sự kiên nhẫn hay tuân phục, mà đúng hơn là một tình trạng nhu mì, một sự nhún nhường nhã nhặn và không thể hiểu được khiến anh khóc chẳng vì lý do gì và trong trạng thái ấy hình ảnh của riêng anh, cái mà Morini thấy là Morini, tan biến trong từ từ và vô vọng, như một dòng sông không còn là một dòng sông hay một cái cây sắp cháy tới nơi, không biết rằng nó đang cháy.

♣ ♣ ♣

Pelletier, Espinoza và Norton đi từ Paris đến Mexico City, El Cerdo chờ họ ở đó. Họ qua đêm trong một khách sạn, và sáng hôm sau họ bay đi Hermosillo. El Cerdo, vốn không hiểu lắm chuyện gì đang xảy ra, hào hứng đóng vai trò chủ nhà trước các nhà học giả châu Âu ưu tú mặc dù họ làm anh ta thất vọng khi từ chối giảng bài ở Bellas Artes hay UNAM hay Colegio de Mexico.

Cái đêm họ ở Mexico City, Espinoza và Pelletier đi cùng El Cerdo đến khách sạn nơi Archimboldi đã ở. Lễ tân thoải mái cho họ xem máy tính. El Cerdo dùng chuột cuộn qua những cái tên xuất hiện trên cái màn hình rực sáng trong cái ngày anh gặp Archimboldi. Pelletier để ý thấy móng tay anh ta bẩn và hiểu ra vì sao anh ta được gán cho tên lóng ấy.

“Ông ấy đây,” El Cerdo nói, “đây là tên ông ấy.”

Pelletier và Espinoza nhìn vào tên mà El Cerdo đang trỏ tới. Hans Reiter. Một đêm. Thanh toán bằng tiền mặt. Ông không dùng thẻ tín dụng hay dùng bất cứ thứ gì trong mini bar. Rồi họ trở về khách sạn, mặc dù El Cerdo hỏi họ có muốn tham quan điểm du lịch nào không. Không, Espinoza và Pelletier nói, bọn tôi không quan tâm.

Norton, trong khi đó, ở lại khách sạn, và tuy không mệt cô vẫn tắt đèn và chỉ để mở tivi ở âm lượng nhỏ. Qua các cửa sổ để mở của phòng vọng đến tiếng rì rì xa xa, như thể ngoài kia, cách đó nhiều dặm, trong một khu dân cư ở ngoại ô thành phố, người ta đang di tản. Cô nghĩ đó là tiếng tivi và tắt nó đi, nhưng tiếng ồn vẫn còn đó. Cô ngồi trên bệ cửa sổ nhìn ra thành phố. Một biển những ánh đèn nhấp nháy trải dài về phía Nam. Nếu cô chồm nửa người ra ngoài cửa sổ, tiếng ì ì ngừng lại. Không khí lành lạnh và dễ chịu.

Ở lối ra vào khách sạn có hai người gác cửa đang cãi nhau với một vị khách và một tài xế taxi. Vị khách kia say. Một người gác cửa đỡ ông ta bằng một tay còn người kia đang lắng nghe anh tài xế taxi, nhìn vào cử chỉ của anh tài xế, rõ là anh ta càng lúc càng bực mình. Một chốc sau một chiếc ô tô dừng trước khách sạn và Norton nhìn thấy Espinoza và Pelletier leo ra, theo sau là tay Mexico. Từ trên cao cô không chắc một trăm phần trăm họ là các bạn mình. Dù sao, nếu đúng là họ, trông họ khác, kiểu họ đi khác, hùng dũng hơn, nếu một chuyện như vậy là có thể, mặc dù từ hùng dũng, đặc biệt áp dụng để chỉ một dáng đi, nghe có vẻ dị hợm đối với Norton, hoàn toàn phi lý. Người Mexico nọ trao chìa khóa xe cho một người gác cửa và rồi ba người đi vào khách sạn. Người gác cửa cầm chìa khóa của El Cerdo lên xe, rồi anh tài xế taxi vung vẩy tay về phía người gác cửa đang đỡ vị khách say. Norton đoán rằng anh tài xế taxi đòi thêm tiền và vị khách say của khách sạn không muốn trả. Từ nơi cô đứng, Norton nghĩ rằng vị khách say có thể là người Mỹ. Anh ta mặc sơ mi trắng bỏ ngoài quần ka ki, màu cappuccino hay cà phê sữa đá. Cô không đoán được tuổi anh ta. Khi người gác cửa kia quay lại, anh tài xế taxi thối lui hai bước và nói gì đó.

Anh ta có thái độ hăm dọa, Norton nghĩ. Rồi một trong hai người gác cửa, người đang đỡ vị khách say, chồm tới nắm cổ anh ta. Tay tài xế taxi không trông đợi phản ứng này và hầu như chỉ kịp bước lui, nhưng anh ta không thể giằng được tay người gác cửa ra. Trên trời có lẽ đầy mây đen nặng trĩu vì ô nhiễm, ánh đèn của một chiếc máy bay xuất hiện. Norton ngước nhìn, ngạc nhiên, bởi vì tất cả không trung dường như kêu rì rì, như hàng triệu con ong đang bao vây khách sạn. Trong giây lát ý tưởng về một vụ đánh bom tự sát hay một tai nạn máy bay lướt ngang qua tâm trí của cô. Ở cửa khách sạn, hai người gác cửa đang đánh tay tài xế taxi nằm trên mặt đất. Họ không đánh liên tục. Họ có lẽ đá anh ta bốn hay sáu cú, rồi dừng lại và cho anh ta cơ hội nói hoặc bỏ đi, nhưng tay tài xế taxi, gập người lại, mở mồm và chửi rủa họ, thế là lãnh thêm một trận đấm.

Chiếc máy bay hạ xuống thêm một chút trong bóng tối và Norton nghĩ cô có thể nhìn thấy những gương mặt trông đợi của hành khách qua các ô cửa sổ. Rồi nó xoay đầu và lại bò lên, và vài giây sau biến mất vào giữa những cụm mây. Ánh đèn đuôi, lấp lóe xanh đỏ, là thứ cuối cùng cô nhìn thấy trước khi nó biến mất. Khi cô nhìn xuống, một nhân viên lễ tân khách sạn bước ra đỡ người khách say, lúc này gần như không đi nổi, như thể anh ta bị thương, trong khi hai người gác cửa lôi tay tài xế taxi không phải về phía chiếc taxi mà là về phía hầm xe.

♣ ♣ ♣

Thoạt tiên cô định chạy xuống quầy bar, ở đó cô sẽ thấy Pelletier và Espinoza nói chuyện với tay Mexico, nhưng rốt cuộc cô quyết định đóng cửa sổ và lên giường. Tiếng ì ì tiếp tục và Norton nghĩ đó chắc phải là tiếng máy lạnh.

♣ ♣ ♣

“Đang có chiến tranh giữa tài xế taxi và gác cửa,” El Cerdo nói. “Một cuộc chiến tranh ngầm, có lúc lên lúc xuống, có những thời khắc căng thẳng và thời khắc đình chiến.”

“Vậy bây giờ sẽ có chuyện gì?” Espinoza hỏi.

Họ ngồi ở quán bar của khách sạn, bên cạnh một khung cửa sổ lớn nhìn ra đường. Bên ngoài không khí sệt lại. Sền sệt, đen thẫm, khiến người ta muốn thò ra và vuốt ve lưng nó.

“Đám gác cửa sẽ dạy cho tay tài xế taxi một bài học và còn lâu hắn mới quay trở lại khách sạn,” El Cerdo nói. “Một bài học về tiền boa.”

Rồi El Cerdo lấy ra chiếc máy sắp xếp công việc điện tử và họ chép số điện thoại của hiệu trưởng Đại học Santa Teresa vào sổ địa chỉ của mình.

“Hôm nay tôi đã nói chuyện với ông ấy,” El Cerdo nói, “và tôi yêu cầu ông ấy hỗ trợ các anh hết sức.”

“Ai sẽ đưa tay tài xế taxi ra khỏi đây?” Pelletier hỏi.

“Hắn sẽ đi ra bằng hai giò của hắn thôi,” El Cerdo nói. “Bọn kia đã đánh hắn phọt cứt trong gara và sẽ giội cho hắn mấy xô nước lạnh cho tỉnh dậy đặng còn chui vào xe và cúp đuôi ra khỏi đây.”

“Nhưng nếu đám gác cửa và tài xế taxi đang chiến tranh mà khách cần taxi thì sao?” Espinoza hỏi.

“Ồ, thì khách sạn gọi taxi qua đài. Đám đó thì hòa bình với mọi người mà,” El Cerdo nói.

Khi họ ra tiễn anh ta tại cổng khách sạn họ thấy tay tài xế taxi khập khiễng từ gara đi ra. Mặt anh ta không có vết tích gì và quần áo không có vẻ bị ướt.

“Chắc hắn đã giao kèo,” El Cerdo nói.

“Kèo?”

“Kèo với đám gác cửa. Tiền,” El Cerdo nói, “ắt hắn phải xùy tiền cho chúng.”

Trong giây lát, Pelletier và Espinoza tưởng El Cerdo sẽ rời đi bằng chiếc taxi đó, đậu cách đó vài mét, bên kia đường, trông có vẻ như bị bỏ không, nhưng El Cerdo gật đầu với một trong hai người gác cửa, và anh này đi lấy xe cho anh ta.

♣ ♣ ♣

Sáng hôm sau họ bay tới Hermosillo và từ sân bay họ gọi cho hiệu trưởng trường Đại học Santa Teresa, rồi họ thuê một chiếc xe và lên đường đi về phía biên giới. Khi rời khỏi sân bay, ba người bọn họ để ý thấy ở Sonora trời thật sáng làm sao. Cứ như thể ánh sáng bị chôn vùi trong Thái Bình Dương, tạo ra một không gian cong khổng lồ. Nó khiến người ta thèm thuồng muốn du hành trong ánh sáng đó, mặc dù nó cũng, một cách cương quyết hơn, Norton nghĩ, khiến bạn muốn chịu đựng cơn thèm thuồng của mình cho đến tận cùng.

♣ ♣ ♣

Họ lái xe vào Santa Teresa từ phía Nam, thành phố với họ trông như một trại khổng lồ của dân Digan hay dân tị nạn sẵn sàng dỡ trại và di chuyển ngay khi có chút thôi thúc nhỏ nhất. Họ lấy ba phòng trên tầng bốn của Khách sạn Mexico. Ba phòng giống nhau, nhưng chúng cũng có đầy những đặc điểm khác biệt nho nhỏ. Trong phòng của Espinoza có một bức tranh khổng lồ vẽ sa mạc, có một nhóm người trên lưng ngựa ở bên trái, mặc áo vải thô, như thể họ là người của quân đội hay câu lạc bộ cưỡi ngựa. Trong phòng của Norton có hai cái gương thay vì một cái. Gương thứ nhất bên cạnh cửa, giống như trong các phòng khác. Cái thứ hai trên vách đối diện, gần cửa sổ trông ra đường, treo theo một kiểu mà nếu ta đứng ở một điểm nhất định, thì hai tấm gương phản chiếu lẫn nhau. Trong phòng vệ sinh của Pelletier bồn cầu mất một mảnh. Mới nhìn qua thì không thấy nó, nhưng khi nhấc nắp bồn cầu lên, chỗ bị thiếu thình lình đập vào mắt, gần giống như một miếng vỏ cây. Thế quái nào mà không ai để ý thấy cái này nhỉ? Pelletier băn khoăn. Norton chưa bao giờ nhìn thấy một cái bồn cầu nào trong hình dạng tệ hại như thế. Chỗ bị thiếu dài gần một gang tay. Bên dưới lớp sứ trắng là một chất liệu màu đỏ, như lớp gạch có quết vữa. Mảng bị thiếu có hình trăng khuyết. Nhìn nó như ai đó đã đập ra bằng búa. Hay như thể ai đó đã tóm lấy một người khác đang nằm trên sàn và nện đầu người đó vào bồn cầu, Norton nghĩ.

♣ ♣ ♣

Hiệu trưởng Đại học Santa Teresa có vẻ ngoài dễ mến, rụt rè. Ông cao lênh khênh, da hơi rám nắng, như thể ngày nào ông cũng có những cuộc đi bộ ngẫm ngợi ở vùng quê. Ông mời họ uống cà phê, lắng nghe câu chuyện của họ với vẻ kiên nhẫn và quan tâm giả vờ. Rồi ông cho họ đi xem quanh trường đại học, chỉ các tòa nhà và nói với họ khoa nào nằm trong tòa nhà nào. Khi Pelletier, để thay đổi chủ đề, nói về ánh sáng ở Sonora, vị hiệu trưởng nổi cơn thơ thẩn về hoàng hôn sa mạc và nhắc tới vài họa sĩ, tên thì họ không nhận ra, đã đến và sống ở Sonora hoặc gần Arizona.

Quay lại văn phòng, ông mời họ uống thêm cà phê và hỏi họ ở khách sạn nào. Họ bảo ông tên khách sạn và ông viết xuống một mẩu giấy rồi nhét vào ngực túi áo khoác, rồi ông mời họ đến nhà ăn tối. Một chốc sau họ ra về. Ngang qua văn phòng hiệu trưởng trên đường ra bãi đỗ xe, họ thấy một tốp sinh viên cả trai lẫn gái đang băng qua bãi cỏ thì vòi phun nước tự động bật lên. Đám sinh viên ré lên và chạy tản ra.

♣ ♣ ♣

Trước khi quay về khách sạn họ đánh xe một vòng quanh thành phố. Thành phố có vẻ rất hỗn độn khiến cho họ bật cười. Trước đó tinh thần họ không được ổn. Họ đã để ý xem xét và lắng nghe những người có thể giúp đỡ, nhưng tất cả dường chỉ là một góc của bức tranh tổng thể. Trên đường về lại khách sạn, họ mất đi cảm giác hiện hữu trong một môi trường thù nghịch, mặc dù thù nghịch không phải là từ đúng, một môi trường mà ngôn ngữ của nó họ từ chối ghi nhận, một môi trường tồn tại trên một mặt phẳng song song nào đó nơi họ không thể khiến sự hiện diện của mình được cảm thấy, không thể để lại dấu ấn của mình, trừ phi họ lên tiếng, trừ phi họ cãi cọ, điều mà họ không có ý định làm.

Ở khách sạn họ thấy có tin nhắn của Augusto Guerra, trưởng khoa Nghệ thuật và Văn chương. Tin nhắn đề gửi “các đồng nghiệp” Espinoza, Pelletier và Norton. Các Đồng nghiệp thân mến, ông ta viết không chút hàm ý châm biếm nào. Điều này khiến họ cười còn dữ hơn, mặc dù sau đó ngay lập tức họ buồn, bởi vì sự kỳ khôi của chữ “đồng nghiệp” bằng cách nào đó đã dựng nên những cây cầu bê tông cốt thép giữa châu Âu và chuyến thoái ẩn của những kẻ phiêu dạt này. Như nghe tiếng một đứa trẻ khóc, Norton nói. Trong tin nhắn, sau khi chúc họ một kỳ nghỉ dễ chịu và vui vẻ ở thành phố của mình, Augusto Guerra nói về một giáo sư Amalfitano nào đó, “một chuyên gia về Benno von Archimboldi,” ông giáo sư sẽ, không thể mẫn cán hơn, có mặt tại khách sạn ngay chiều hôm đó để giúp họ trong tận cùng khả năng có thể. Với kiểu cách đầy chất thơ, đoạn kết hoa hòe hoa sói so sánh sa mạc với một khu vườn hóa thạch.

Họ quyết định không ra khỏi khách sạn trong lúc chờ vị chuyên gia về Archimboldi. Theo những gì có thể thấy ngoài cửa sổ quán bar, đây cũng là quyết định của một nhóm du khách người Mỹ đang chủ định uống đến say xỉn ngoài hiên, chỗ được trang trí bằng nhiều loại xương rồng lạ, vài bụi cao đến mười bộ. Thỉnh thoảng một người trong nhóm du khách đứng dậy khỏi bàn và đi đến chỗ lan can được phủ bằng những thứ cây dở sống dở chết và ngó ra đường. Rồi anh ta sẽ lảo đảo quay về với nhóm bạn và một chốc sau họ đều phá ra cười, như thể người vừa mới đứng dậy kể cho họ một chuyện tiếu lâm bậy bạ nào đó rất buồn cười. Không ai trong đám còn trẻ, nhưng cũng không ai già. Họ là một nhóm du khách tầm bốn mươi, năm mươi tuổi chắc hẳn sẽ quay về Mỹ trong ngày hôm đó. Hiên ngoài khách sạn dần dần có thêm khách, cho đến lúc không còn bàn nào trống. Khi màn đêm bắt đầu từ phương Đông lẻn vào cũng là lúc những nốt nhạc đầu tiên của một bài hát của Willie Nelson vang lên trên loa của quán.

Khi một trong những người say nhận ra bài hát, anh ta reo lên và đứng dậy. Espinoza, Pelletier và Norton nghĩ anh ta sắp sửa nhảy, nhưng thay vào đó anh ta đi lại chỗ lan can của quán và nhìn ngược nhìn xuôi con phố, vươn cổ lên, rồi bình tĩnh quay về ngồi với vợ và các bạn. Mấy người này khùng khùng, Espinoza và Pelletier nói. Nhưng Norton nghĩ điều gì đó lạ lùng đang diễn ra, ngoài đường, trong quán, trong phòng khách sạn, ngay cả tại Mexico City với những tài xế taxi và người gác cửa phi thực, phi thực hay ít ra không thể nắm bắt về mặt logic, và thậm chí ở châu Âu điều gì đó lạ lùng đã và đang diễn ra, điều gì đó cô không hiểu nổi, ở sân bay Paris nơi ba người bọn họ gặp nhau, và có thể trước đó, với Morini khi anh từ chối đi cùng bọn họ, với chàng thanh niên hơi đáng ghét mà họ gặp ở Toulouse, với Dieter Hellfeld và tin tức đột ngột của ông về Archimboldi. Và điều gì đó lạ lùng đang diễn ra thậm chí với Archimboldi và mọi thứ Archimboldi đã viết về, và với Norton, chính bản thân cô cũng không thể nhận ra, kể cả chỉ thi thoảng, người đọc và ghi chép và diễn giải những cuốn sách của Archimboldi.

♣ ♣ ♣

“Có phải cậu bảo bồn cầu trong phòng cậu cần được sửa?” Espinoza hỏi.

“Tớ có bảo họ làm gì đó đi,” Pelletier nói. “Nhưng ở quầy họ đề nghị tớ đổi phòng. Họ muốn đưa tớ xuống tầng ba. Nên tớ bảo họ không sao, tớ định ở trong phòng của mình và khi nào tớ đi rồi họ có thể sửa bồn cầu. Tớ muốn bọn mình ở gần nhau,” Pelletier mỉm cười nói.

“Cậu làm vậy là đúng,” Espinoza nói.

“Lễ tân bảo tớ họ định thay bồn cầu nhưng họ không tìm được đúng mẫu đó. Cậu ta không muốn mình đi khỏi đây mang theo ấn tượng không tốt về khách sạn. Dù sao cậu ta cũng dễ thương,” Pelletier nói.

♣ ♣ ♣

Ấn tượng đầu tiên của các nhà phê bình về Amalfitano hầu như tiêu cực, ăn khớp hoàn hảo với sự xoàng xĩnh của nơi này, ngoại trừ việc nơi này, thành phố trải rộng trong sa mạc, có thể được xem là chân thực, đầy màu sắc địa phương, lại một bằng chứng nữa về sự phong phú đến kinh khủng của cảnh quan con người, trong khi Amalfitano chỉ có thể được coi là một kẻ lưu lạc, một con người ăn vận cẩu thả, một giáo sư không hiện hữu ở một đại học không hiện hữu, tên lính vô danh trong trận chiến cầm chắc thất bại chống lại bọn rợ, hay, một cách ít mê lô hơn, như đúng bản chất của ông, một giáo sư văn chương u sầu bị đẩy ra để chăn thú trên cánh đồng của chính mình, trên lưng con quái vật thất thường tính khí trẻ con ắt đã nuốt chửng Heidegger bằng một cú táp nếu Heidegger xui xẻo sinh ra ở biên giới Mỹ-Mexico. Espinoza và Pelletier xem ông như một kẻ thất bại, thất bại trên hết bởi vì ông đã sống và dạy học ở châu Âu, từng cố tự vệ bằng bề ngoài xù xì nhưng sự hiền lành bẩm sinh đã nộp mạng ông giữa chừng. Nhưng ấn tượng của Norton về ông là một người buồn bã mà cuộc đời đang nhanh chóng lụi tàn và thà làm bất cứ việc gì còn hơn làm hướng dẫn viên cho họ ở Santa Teresa.

♣ ♣ ♣

Đêm đó ba nhà phê bình đi ngủ sớm. Pelletier nằm mơ thấy cái bồn cầu của mình. Một tiếng động nghèn nghẹt khiến anh thức giấc và anh trần truồng ngồi dậy nhìn thấy từ dưới cửa ai đó đã bật đèn phòng tắm. Đầu tiên anh nghĩ đó là Norton, thậm chí Espinoza, nhưng khi lại gần anh biết không thể là một trong hai người. Anh mở cửa thấy phòng tắm trống rỗng. Trên sàn anh thấy những vệt máu to. Bồn tắm và màn tắm được trét một chất chưa khô hẳn và đầu tiên Pelletier nghĩ là bùn hay bãi nôn mửa, nhưng anh mau chóng phát hiện ra là cứt. Anh ghê tởm cứt nhiều hơn là sợ máu. Vừa bắt đầu nôn ọe thì anh tỉnh giấc.

Espinoza mơ về bức tranh sa mạc. Trong mơ Espinoza ngồi dậy trên giường, và từ đó, như thể đang xem tivi trên một màn hình không quá năm bộ vuông, anh có thể nhìn thấy sa mạc lạnh ngắt, sáng chói, một màu vàng rực đến nỗi làm anh đau mắt, và những hình thù trên lưng ngựa, chuyển động của họ - chuyển động của ngựa và người cưỡi - hầu như không thể nhìn ra, như thể họ sống trong một thế giới khác với chúng ta, nơi tốc độ khác, một dạng tốc độ mà với Espinoza trông như sự chậm rãi, mặc dù anh biết sự chậm rãi ấy là thứ khiến cho bất cứ ai nhìn vào bức tranh không bị mất trí. Và rồi có những tiếng nói. Espinoza lắng nghe. Những tiếng nói hầu như không thể nghe được, ban đầu chỉ là những âm, những tiếng rên rỉ ngắn bắn đi như thiên thạch qua sa mạc và không gian đóng khung của căn phòng khách sạn và giấc mơ. Anh nhận ra vài từ rải rác. Nhanh chóng, khẩn cấp, tốc độ, lẹ làng. Những từ ngữ xuyên qua không khí đã loãng đi của căn phòng như rễ độc xuyên qua thịt chết. Văn hóa của chúng ta, một giọng nói cất lên. Tự do của chúng ta. Từ tự do với Espinoza nghe như tiếng roi vụt trong một lớp học trống không. Anh thức giấc đầm đìa mồ hôi.

Trong giấc mơ của Norton cô thấy chính mình phản ánh chiếu trong cả hai tấm gương. Từ phía trước trong một tấm và từ sau lưng trong tấm kia. Dáng cô hơi liêu xiêu. Không thể nói chắc được cô sắp bước tới hay bước lui. Ánh sáng trong phòng mờ mờ yếu ớt, như ánh sáng của hoàng hôn nước Anh. Không ngọn đèn nào sáng. Hình ảnh của cô trong hai tấm gương ăn vận để đi chơi, một bộ vét may đo màu xám và, thật kỳ quặc, vì Norton hiếm khi nào vận những thứ như thế, một chiếc mũ xám nhỏ gợi nhớ những trang báo thời trang của những năm thập niên năm mươi. Có lẽ cô mang giày cao gót đen, mặc dù không thể nhìn thấy, vẻ bất động của cơ thể cô, một cái gì đó gợi nhớ sự trì trệ và bất lực, khiến cô tự hỏi, cô đang đợi chờ gì để ra đi, đâu là dấu hiệu cô đang chờ đợi để bước ra khỏi vùng nằm giữa hai tấm gương soi và mở cửa rồi biến mất. Cô có nghe thấy tiếng ồn trong hành lang? Có ai đi ngang cố mở cửa phòng cô? Một vị khách của khách sạn nhầm lẫn? Một công nhân, ai đó được lễ tân đưa lên, một hầu phòng? Tuy vậy sự yên lặng là tuyệt đối, và nó chứa đựng một vẻ tĩnh tại nào đó, vẻ tĩnh tại của những quãng dài yên lặng đầu buổi tối. Đột ngột Norton nhận ra thiếu phụ phản chiếu trong gương không phải là cô. Cô cảm thấy sợ và tò mò, nhưng cô không nhúc nhích, ngắm hình dáng trong gương thậm chí còn kỹ càng hơn. Khách quan mà nói, cô tự nhủ, cô ta trông giống hệt như mình và không có lý do gì mình lại không nghĩ như vậy. Cô ta là mình. Nhưng rồi cô nhìn vào cổ thiếu phụ: một mạch máu, sưng phồng như thể sắp bục ra, chạy từ tai xuống rồi biến mất ở xương bả vai. Một mạch máu trông không thực lắm, dường như được vẽ lên. Rồi Norton nghĩ: mình phải thoát ra khỏi đây. Và cô rà mắt khắp căn phòng, cố gắng xác định điểm chính xác nơi thiếu phụ đứng, nhưng không thể nhìn thấy cô ta. Để cho cô ta được phản chiếu trong cả hai tấm gương, cô tự nhủ, cô ta phải ở ngay giữa cái lối vào nhỏ và căn phòng. Nhưng cô không thể nhìn thấy cô ta. Khi nhìn cô ta trong gương cô để ý thấy một thay đổi. Đầu của thiếu phụ đang xoay rất khẽ, gần như không thể nhận thấy. Mình cũng đang được phản chiếu trong gương, Norton tự nhủ. Và nếu cô ta cứ tiếp tục nhúc nhích, cuối cùng ta sẽ nhìn thấy nhau. Mỗi chúng ta sẽ nhìn thấy mặt người kia. Norton nắm tay lại và chờ đợi. Thiếu phụ trong gương cũng nắm tay lại, như thể cô ta đang phải nỗ lực ở mức siêu nhân. Ánh sáng lọt vào căn phòng thật nhợt nhạt. Norton có cảm tưởng rằng ở ngoài kia, ngoài đường, một đám cháy đang cuồng nộ bốc lên. Cô bắt đầu toát mồ hôi. Cô cúi đầu xuống và nhắm mắt lại. Nhìn vào gương lần nữa, cô thấy mạch máu sưng phồng của thiếu phụ đã lớn lên và gương mặt nhìn nghiêng bắt đầu xuất hiện. Mình phải trốn thoát, cô nghĩ. Cô cũng nghĩ: Jean-Claude và Manuel ở đâu? Cô nghĩ về Morini. Tất cả những gì cô thấy là một chiếc xe lăn trống không và sau nó là khu rừng khổng lồ, không thể xâm nhập, xanh thẫm đến nỗi gần như đen kịt, mất một lúc cô mới nhận ra đó là Công viên Hyde. Khi mở mắt ra, tia nhìn của thiếu phụ trong gương và tia nhìn của cô giao nhau ở một điểm không xác định nào đó trong phòng. Mắt người thiếu phụ giống như hệt mắt cô. Gò má, môi, trán, mũi. Norton bắt đầu khóc trong lo sợ hay nghĩ rằng cô đang khóc. Cô ta giống hệt mình, cô tự nhủ, nhưng cô ta chết rồi. Thiếu phụ mỉm cười và rồi, gần như không có sự chuyển tiếp, mặt cô ta chợt méo mó vì sợ hãi. Kinh ngạc, Norton nhìn ra phía sau cô, nhưng không có ai ở đó, ngoài bức vách. Thiếu phụ cười với cô lần nữa. Lần này nụ cười nở ra không từ vẻ nhăn nhó mà từ nét tuyệt vọng. Và rồi thiếu phụ mỉm cười với cô lần nữa và gương mặt cô ta trở nên lo âu, rồi trống rỗng, rồi run rẩy, rồi cam chịu, và rồi mọi biểu hiện của điên rồ trôi qua gương mặt cô ta và sau mỗi biểu hiện cô ta luôn mỉm cười. Trong khi đó, Norton, lấy lại được bình tĩnh, đã lấy ra một cuốn sổ nhỏ và ghi tháu về mọi thứ diễn ra, như thể số mệnh của cô hay phần hạnh phúc của cô trên trái đất tùy thuộc vào đó, và điều này tiếp diễn cho đến khi cô thức dậy.

♣ ♣ ♣

Khi Amalfitano bảo họ ông đã dịch Đóa hồng bất tận cho một nhà xuất bản Argentina năm 1974, quan niệm của các nhà phê bình về ông thay đổi. Họ muốn biết ông học tiếng Đức ở đâu, làm thế nào ông khám phá ra Archimboldi, ông đã đọc cuốn nào của ông ấy, ông nghĩ gì về ông ấy. Amalfitano nói ông học tiếng Đức ở Chile, tại Trường Đức, ông học trường đó từ khi còn nhỏ, nhưng năm mười lăm tuổi thì ông chuyển trường, chẳng vì lý do nào ra đầu ra đũa, sang một trường công. Ông bắt đầu tiếp xúc với tác phẩm của Archimboldi, trong chừng mực còn nhớ, ở tuổi hai mươi, khi ông đọc Đóa hồng bất tận, Chiếc mặt nạ da và Những dòng sông châu Âu bằng tiếng Đức, mượn của một thư viện ở Santiago. Thư viện chỉ có ba cuốn ấy và Bifurcaria Bifurcata, nhưng cuốn này ông thì ông không đọc hết. Đó là một thư viện công cộng, sách vở dồi dào thêm nhiều nhờ một người Đức tặng bộ sưu tập sách tiếng Đức mà ông tích lũy trước khi chết, cho thành phố tự trị Nuñoa, thuộc Santiago.

Dĩ nhiên, Amalfitano ngưỡng mộ Archimboldi, mặc dù tình cảm của ông đối với Archimboldi không giống như lòng yêu mến của ba nhà phê bình. Ví dụ, Amalfitano nghĩ rằng Günter Grass hoặc Arno Schmidt cũng hay ho ngang như vậy. Các nhà phê bình muốn biết dịch Đóa hồng bất tận là ý tưởng của ông hay ai nhờ làm, Amalfitano nói theo như ông còn nhớ đó là ý của nhà xuất bản. Hồi ấy, ông nói, tôi dịch tất tần tật mọi thứ có thể dịch, tôi còn phụ trách đọc soát lỗi chính tả nữa. Theo như ông biết, đó là một bản in lậu, mặc dù mãi về sau ông mới đâm nghi và ông không dám chắc.

Khi các nhà phê bình, giờ đã nghĩ về ông tử tế hơn nhiều, hỏi năm 1974 ông làm gì ở Argentina, Amalfitano nhìn họ và rồi nhìn ly margarita của mình và nói, cứ như ông đã lặp đi lặp lại điều này nhiều lần rồi, rằng năm 1974 ông ở Argentina vì cuộc đảo chính ở Chile khiến ông phải chọn con đường lưu vong. Và rồi ông xin lỗi vì đã dùng từ khoa trương quá. Mọi thứ đã trở thành thói quen, ông nói, nhưng các nhà phê bình không quan tâm lắm đến nhận xét cuối cùng này.

“Lưu vong ắt phải là chuyện kinh khủng,” Norton nói tỏ vẻ thông cảm.

“Thực ra,” Amalfitano nói, “bây giờ thì tôi xem đó như một chuyển dịch tự nhiên, một cái gì đó, theo kiểu của nó, giúp xóa bỏ số mệnh, hay cái vẫn nhìn chung được cho là số mệnh.”

“Nhưng lưu vong,” Pelletier nói, “đem lại quá nhiều sự bất tiện, cả những bỏ lỡ và gián đoạn về căn bản không ngừng lặp lại, can thiệp vào bất cứ điều gì quan trọng anh cố gắng làm.”

“Đó chính là ý tôi khi nói tới xóa bỏ số mệnh,” Amalfitano nói. “Nhưng một lần nữa tôi xin lỗi.”

♣ ♣ ♣

Sáng hôm sau Amalfitano chờ họ ở sảnh khách sạn. Nếu ông giáo sư Chile không có ở đó chắc chắn họ đã kể cho nhau nghe ác mộng đêm hôm trước của mình và ai mà biết được chuyện gì đã có thể trở nên sáng tỏ. Nhưng có Amalfitano đó, nên bốn người cùng đi ăn sáng và lên kế hoạch cho các hoạt động trong ngày. Họ duyệt qua các tình huống có thể xảy ra. Trước hết, rõ ràng Archimboldi không ghé qua trường đại học. Ít ra không ghé qua khoa Nghệ thuật và Văn chương. Ở Santa Teresa không có lãnh sự quán Đức, nên có thể loại trừ ngay từ đầu hướng đó. Họ hỏi Amalfitano có bao nhiêu khách sạn trong thành phố. Ông nói ông không biết, nhưng ông có thể tìm ra tức thì, ngay khi họ ăn sáng xong.

“Bằng cách nào?” Espinoza muốn biết.

“Hỏi quầy tiếp tân,” Amalfitano nói. “Họ phải có danh sách tất cả khách sạn và nhà nghỉ trong vùng.”

“Tất nhiên rồi,” Pelletier và Norton nói.

Ăn sáng xong họ lại đoán già đoán non về các động cơ có thể buộc Archimboldi đi tới Santa Teresa. Tới lúc đó Amalfitano mới biết không ai từng gặp Archimboldi trực tiếp cả. Chuyện này khiến ông buồn cười, tuy không thể nói chính xác tại sao, và ông hỏi tại sao họ muốn tìm ông ấy trong khi rõ ràng là Archimboldi không muốn bị nhìn thấy. Bởi vì chúng tôi nghiên cứu tác phẩm của ông ấy, các nhà phê bình nói. Bởi vì ông ấy đang hấp hối và thật là không phải khi nhà văn Đức lớn nhất thế kỷ hai mươi chết đi mà không được trao cơ hội nói với những độc giả hiểu tác phẩm của ông nhất. Bởi vì, họ nói, chúng tôi muốn thuyết phục ông ấy quay trở lại châu Âu.

“Tôi nghĩ,” Amalfitano nói, “Kafka mới là nhà văn Đức lớn nhất thế kỷ hai mươi.”

À, vậy thì, nhà văn Đức hậu chiến lớn nhất hoặc nhà văn Đức lớn nhất của nửa sau thế kỷ hai mươi, ba nhà phê bình nói.

“Các anh chị đọc Peter Handke chưa?” Amalfitano hỏi họ. “Còn Thomas Bernhard thì sao?”

Hử, các nhà phê bình nói, và tới lúc ăn sáng xong thì Amalfitano đã bị tấn công cho đến khi ông giống như con chim trong cuốn Con vẹt xơ xác của Azuela, bị mổ xẻ và vặt tận cái lông cuối cùng.

♣ ♣ ♣

Ở quầy tiếp tân họ được đưa cho danh sách mọi khách sạn trong thành phố. Amalfitano đề nghị họ gọi điện từ trường đại học, vì dường như Guerra và các nhà phê bình có quan hệ rất tốt với nhau, hay dường như Guerra dành cho họ một sự kính trọng gần như tôn sùng và thậm chí sợ hãi, một nỗi sợ, đến lượt nó, không phải không có thành tố phù phiếm hay đỏm dáng, mặc dù sự xảo trá, công bằng mà nói, ẩn sau sự đỏm dáng và sợ hãi kia, bởi vì ngay cả nếu sự hợp tác của Guerra là do mong muốn của hiệu trưởng Negrete, đối với Amalfitano việc Guerra dự định kiếm chác từ chuyến viếng thăm của các giáo sư châu Âu uy tín không phải là bí mật, vì như chúng ta đều biết tương lai là bí ẩn và chúng ta không bao giờ biết khi nào chúng ta có thể đến một khúc quanh trên đường hay bước chân có thể đưa ta đến những nơi chốn không ngờ nào. Nhưng các nhà phê bình không muốn sử dụng điện thoại của trường đại học và họ đã gọi điện từ phòng của mình. Để tiết kiệm thời gian, Espinoza và Norton gọi từ phòng của Espinoza còn Amalfitano và Pelletier gọi từ phòng của Pelletier. Sau một tiếng đồng hồ kết quả không thể nào thảm hơn. Không có bất kỳ Hans Reiter nào đăng ký ở bất cứ khách sạn nào. Sau hai tiếng đồng hồ họ quyết định bỏ cuộc và xuống quán bar uống một chầu. Tất cả những gì họ còn lại là vài khách sạn và nhà nghỉ ở ngoại ô thành phố. Nhìn danh sách cẩn thận một lần nữa, Amalfitano nói hầu hết các nhà nghỉ trong danh sách đều được cho thuê phòng theo giờ hay thật ra là nhà thổ, những chỗ khó mà tưởng tượng có một du khách Đức.

“Chúng ta không tìm một du khách Đức, chúng ta tìm Archimboldi,” Espinoza đáp.

“Đúng thế,” Amalfitano nói, và sự thật là ông có thể hình dung ra Archimboldi tại một trong các nhà nghỉ.

♣ ♣ ♣

Câu hỏi là, Archimboldi đến thành phố này để làm gì, Norton nói. Tranh luận một chút, ba nhà phê bình kết luận, và Amalfitano đồng ý, rằng ông có thể đã đến Santa Teresa chỉ để gặp một người bạn hay thu thập thông tin cho một cuốn tiểu thuyết đang viết dở hay vì cả hai lý do cùng lúc. Pelletier thiên về khả năng gặp bạn.

“Một người bạn cũ,” anh phỏng đoán. “Nói cách khác, một người Đức giống như ông ấy.”

“Một người Đức nhiều năm ông ấy chưa gặp, có lẽ từ khi kết thúc chiến tranh,” Espinoza nói.

“Một người bạn lính, ai đó rất có ý nghĩa đối với Archimboldi và biến mất ngay khi chiến tranh kết thúc, thậm chí có thể trước khi kết thúc,” Norton nói.

“Nhưng đó phải là người biết rằng Archimboldi là Hans Reiter,” Espinoza nói.

“Không nhất thiết. Có thể bạn của Archimboldi không hề biết Hans Reiter và Archimboldi là cùng một người. Ông ấy chỉ biết Reiter và cách liên lạc với Reiter vậy thôi,” Norton nói.

“Chuyện đó không nhiều khả năng đâu,” Pelletier nói.

“Không, đúng là không nhiều khả năng bởi vì điều ấy giả định rằng Reiter ở nguyên một nơi kể từ khi ông ấy gặp bạn mình lần cuối, cứ cho là năm 1945,” Amalfitano nói.

“Về mặt thống kê, không có bất cứ người Đức nào sinh năm 1920 mà chưa đổi địa chỉ ít nhất một lần trong đời,” Pelletier nói.

“Vậy có thể không phải người bạn này liên lạc với Archimboldi mà chính Archimboldi chủ động liên lạc với ông ấy,” Espinoza nói.

“Ông hay bà,” Norton nói.

“Mình thiên về đàn ông hơn đàn bà,” Pelletier nói.

“Trừ phi đó chẳng phải đàn ông cũng chẳng phải đàn bà và bọn mình chỉ đang mò mẫm trong bóng tối,” Espinoza nói.

“Nếu vậy thì Archimboldi đến đây làm gì?” Norton hỏi.

“Đó phải là một người bạn, một người bạn thân thiết, thân thiết đến mức Archimboldi cảm thấy mình phải thực hiện chuyến đi,” Pelletier nói.

“Nếu mình sai thì sao? Nếu Almendro nói dối chúng ta hay nhầm lẫn, hay ai đó nói dối anh ta?” Norton nói.

“Almendro nào? Hector Enrique Almendro?” Amalfitano nói.

“Đúng thế. Ông biết anh ta?” Espinoza hỏi.

“Không quen trực tiếp, nhưng nếu là anh thì tôi sẽ không tin mấy mách nước của Almendro đâu,” Amalfitano nói.

“Vì sao?” Norton hỏi.

“À, vì anh ta là trí thức Mexico điển hình, mối quan tâm chính của anh ta là kiếm sống,” Amalfitano nói.

“Đó chẳng phải là quan tâm chính của mọi trí thức Mỹ La tinh sao?” Pelletier hỏi.

“Không hẳn thế. Ví dụ như có những người quan tâm đến viết lách hơn,” Amalfitano nói.

“Ý anh là sao,” Espinoza nói.

“Tôi không biết phải giải thích thế nào,” Amalfitano nói. “Chuyện cũ sì mà, mối quan hệ giữa trí thức Mexico và quyền lực. Tôi không nói rằng họ cùng một giuộc. Có vài ngoại lệ đáng chú ý. Tôi cũng không nói rằng mấy người đầu hàng là người có gian ý. Cũng không bảo rằng họ đầu hàng hoàn toàn. Anh có thể nói đó chỉ là một công việc mà thôi. Nhưng họ làm cho nhà nước. Ở châu Âu, cánh trí thức làm việc cho các nhà xuất bản, làm báo, hay được vợ nuôi, hay có cha mẹ giàu có trợ cấp cho họ hằng tháng, hoặc họ lao động chân tay hay là tội phạm và họ kiếm sống thật thà từ công việc của mình. Ở Mexico, và điều này có thể đúng khắp Mỹ La tinh, trừ Argentina, giới trí thức làm việc cho nhà nước. Tình hình là như vậy dưới thời Đảng Cách mạng Thể chế và nó sẽ y như vậy dưới thời Đảng Hành động Quốc gia. Bản thân trí thức có thể là người bảo vệ nhiệt thành cho nhà nước hoặc là kẻ phê phán nhà nước. Nhà nước không quan tâm. Nhà nước nuôi anh ta và theo dõi anh ta trong im lặng. Và nhà nước sử dụng đám đông các cây bút về căn bản là vô dụng này. Bằng cách nào? Họ xua đuổi quỷ tà, họ thay đổi khí hậu quốc gia hay ít ra cố gắng làm nó dao động. Họ thêm những lớp vôi vào một cái hố có thể hoặc không thể tồn tại, không ai biết chắc. Không phải lúc nào cũng thế này, dĩ nhiên. Trí thức có thể làm việc ở trường đại học, hoặc tốt hơn, làm cho một đại học ở Mỹ, nơi mà các khoa văn cũng chỉ tồi như ở Mexico, nhưng điều đó không có nghĩa là họ không nhận những cú điện thoại đêm khuya của ai đó phát biểu nhân danh nhà nước, ai đó đề nghị với họ một công việc tốt hơn, thu nhập cao hơn, một cái gì đó mà người trí thức nghĩ mình xứng đáng, và người trí thức luôn luôn nghĩ mình xứng đáng được đối xử tốt hơn. Cơ chế này xem như cắt mất tai của các nhà văn Mexico. Nó khiến họ phát điên. Ví dụ, một số người sẽ bắt tay vào dịch thơ Nhật Bản tuy không hề biết tiếng Nhật và một số khác chỉ biết nhậu nhẹt qua ngày. Lấy ví dụ Almendro - theo như tôi biết anh ta làm cả hai. Văn chương ở Mexico như một trường mẫu giáo, một vườn trẻ, một sân chơi, một câu lạc bộ dành cho trẻ con, hy vọng các anh hiểu tôi nói gì. Thời tiết thì đẹp, trời nắng ráo, anh có thể đi ra ngoài và ngồi trong công viên giở một cuốn sách của Valéry ra, Valéry chắc là tác giả mà các nhà văn Mexico đọc nhiều nhất, và rồi anh lân la sang nhà một người bạn tán chuyện. Tuy nhiên bóng của anh không còn đi theo anh nữa. Vào một lúc nào đó bóng của anh đã lặng lẽ chuồn đi. Anh vờ không nhận thấy, nhưng thật ra anh biết, anh nhớ cái bóng chết tiệt của anh, mặc dù có ti tỉ cách để giải thích, chẳng hạn như góc chiếu của mặt trời, sự mê muội sinh ra do mặt trời giội xuống những quả đầu không mũ, lượng cồn hấp thụ, chuyển động của cái gì đó như những bể ngầm của nỗi đau, nỗi lo sợ về những thứ thời vụ hơn, một bệnh tật bắt đầu trở nên hiển hiện, lòng tự cao bị tổn thương, hay nỗi khao khát chỉ một lần trong đời có mặt đúng lúc. Nhưng vấn đề là, bóng của anh đã mất, và anh, chẳng mấy chốc, lãng quên nó. Và như thế anh lên một nơi giống như sân khấu, mà không có bóng, và bắt đầu phiên dịch thực tại hoặc diễn dịch lại nó hoặc cất tiếng hát về thực tại. Sân khấu thật ra chỉ gồm phần phía trước màn sân khấu, và phía trên sân khấu có một đường ống khổng lồ, trông giống như một ống hầm mỏ hay cửa một hầm mỏ khổng lồ. Cứ gọi đó là một cái hang. Nhưng gọi là hầm mỏ cũng được. Từ cửa hầm vọng ra những tiếng động không thể nghe ra nổi. Những tiếng động tượng thanh, những âm tiết của thịnh nộ hay quyến rũ, hay thịnh nộ quyến rũ, hay có thể chỉ là những rì rầm, thì thầm và rên rỉ. Vấn đề là, không ai thấy, thực sự thấy, cửa vào hầm mỏ. Máy móc của sân khấu, cách sử dụng ánh sáng và bóng, kỹ xảo thời gian, che giấu hình dạng thật của cửa hầm từ góc nhìn khán giả. Thật ra, chỉ những khán giả gần sân khấu nhất, ngay sát chỗ của dàn nhạc, mới có thể nhìn thấy hình dạng của cái gì đó đằng sau tấm màn ngụy trang dày, không phải hình dạng đích thực, nhưng dù sao đi nữa thì cũng là hình dạng của một cái gì đó. Những khán giả khác không thấy gì ngoài phần trước màn sân khấu, và công bằng mà nói họ thà không thấy. Trong khi đó, các nhà trí thức không có bóng luôn luôn đối diện khán giả, nên trừ phi họ có mắt sau gáy, họ không nhìn thấy gì cả. Họ chỉ nghe được những âm thanh dội ra từ sâu trong lòng mỏ. Họ phiên dịch hoặc diễn dịch lại hoặc tái tạo những âm thanh ấy. Tác phẩm của họ, khỏi phải nói, có tiêu chuẩn rất thấp. Họ sử dụng kỹ thuật tu từ khi cảm nhận thấy một cơn bão, họ cố hùng biện khi cảm thấy một cơn thịnh nộ bùng phát, họ cố duy trì trật tự của vần điệu khi chỉ có một im lặng điếng người và vô vọng. Họ kêu chíp chíp, gâu gâu, meo meo, bởi vì họ không có khả năng tưởng tượng một con vật có kích cỡ khổng lồ, hay sự vắng mặt của một con vật như thế. Trong khi đó, họ đứng trên một sân khấu rất đẹp, thiết kế rất hay, rất duyên dáng, nhưng thời gian trôi qua thì nó cứ nhỏ dần. Việc sân khấu thu nhỏ lại không làm hỏng nó chút nào. Nó chỉ đơn giản nhỏ lại, nhỏ lại dần và hội trường cũng nhỏ dần lại, và tự nhiên dần dần sẽ có ít người xem hơn. Dĩ nhiên bên cạnh sân khấu này có những sân khấu khác. Các sân khấu mới theo thời gian đâm chồi nảy lộc. Có một sân khấu vẽ, khổng lồ, và khán giả thì bé tí, tuy tất cả đều lịch lãm, vì tôi không nghĩ được từ gì hay hơn. Có sân khấu điện ảnh và sân khấu truyền hình. Ở đây sức chứa thì rất lớn, hội trường lúc nào cũng đông nghịt, và năm này sang năm nọ phần trước màn sân khấu phát triển cực kỳ nhanh. Đôi khi những người trình diễn ở sân khấu nơi các nhà trí thức diễn thuyết được mời tới diễn trên sân khấu truyền hình. Trên sân khấu này cửa hầm mỏ cũng giống như ở kia, góc độ hơi điều chỉnh một chút, và mặc dù màn ngụy trang có thể dày hơn, và nghịch lý là, gợi ra một cái hài hước bí ẩn, nhưng nó vẫn thối. Màn ngụy trang hài hước này, hiển nhiên, gợi ra nhiều cách diễn dịch, rốt cuộc giảm xuống còn hai để thuận tiện cho công chúng và thuận tiện cho con mắt tập thể của công chúng. Đôi khi các nhà trí thức thường trú trên phần trước tấm màn sân khấu truyền hình. Những tiếng gầm vẫn vang ra từ miệng hầm mỏ và các nhà trí thức cứ tiếp tục diễn dịch sai. Thực ra, về lý thuyết họ là các bậc thầy ngôn ngữ, nhưng thậm chí không thể làm cho ngôn ngữ phong phú thêm. Những từ hay nhất của họ là những từ vay mượn mà họ nghe các khán giả ngồi ở hàng ghế đầu nói. Những khán giả này được gọi là những kẻ tự hành xác. Họ bệnh hoạn, và đôi khi họ bịa ra những từ gớm guốc và tỷ lệ tử vong của họ tăng đột biến. Hết ngày làm việc, các nhà hát đóng cửa và người ta che chắn các cửa hầm mỏ bằng những phiến thép to. Các nhà trí thức nghỉ đêm. Mặt trăng béo tốt và không khí ban đêm thật tinh khiết đến nỗi dường như có thể ăn được. Trong mấy quán bar nghe vang lên những bài ca, những nốt nhạc bay ra tận đường. Đôi khi một nhà trí thức đi chệch hướng, lạc vào một trong những chỗ này và uống rượu mezcal. Rồi anh ta nghĩ điều gì sẽ xảy ra nếu một ngày nào đó anh ta… Nhưng không. Anh ta chẳng nghĩ gì. Anh ta chỉ uống và ca hát. Đôi khi anh ta nghĩ anh ta gặp một nhà văn Đức huyền thoại. Nhưng tất cả những gì anh ta thực sự nhìn thấy chỉ là một cái bóng, đôi khi tất tật những gì anh ta nhìn thấy là cái bóng của chính anh ta, vốn về nhà hằng đêm để cho nhà trí thức không nổ tung ra hay treo cổ trên rầm cửa. Nhưng anh ta thề anh ta đã gặp một nhà văn Đức và niềm vui của chính anh ta, cảm quan về trật tự của anh ta, sự tất bật của anh ta, tinh thần vui chơi chè chén của anh ta dựa vào niềm tin đó. Sáng hôm sau trời đẹp. Những tia nắng sáng rỡ ràng nhưng không bỏng cháy. Người ta có thể đi chơi tương đối thoải mái, với bóng bám theo gót mình, dừng lại trong một công viên và đọc vài trang Valéry. Và cứ như thế cho đến khi kết thúc.”

“Anh nói gì tôi không hiểu lấy một chữ,” Norton nói.

“Thật ra tôi chỉ nói nhảm,” Amalfitano nói.

♣ ♣ ♣

Sau đó họ gọi cho các khách sạn và nhà nghỉ còn lại nhưng Archimboldi không ở chỗ nào trong số đó. Trong vài tiếng đồng hồ, họ nghĩ Amalfitano đúng, rằng chỉ dẫn của Almendro chắc hẳn là sản phẩm của trí tưởng tượng quá tăng động, rằng chuyến đi của Archimboldi tới Mexico tồn tại chỉ trong các xó xỉnh của bộ não El Cerdo. Thời gian còn lại trong ngày họ dành cho đọc sách và uống rượu, và cả ba đều không tìm đâu ra năng lượng để ra khỏi khách sạn.

♣ ♣ ♣

Đêm hôm đó, kiểm tra email trên máy tính khách sạn, Norton thấy có thư của Morini. Trong thư Morini nói về thời tiết, làm như anh chẳng có gì hay hơn để nói, về làn mưa chênh chếch đã bắt đầu rơi ở Turin lúc tám giờ mà đến tận một giờ sáng mới ngớt, và anh chân thành chúc Norton được thời tiết tốt hơn ở miền Bắc Mexico, nơi anh tin trời không bao giờ mưa và chỉ lạnh về đêm, và chỉ ở trong sa mạc. Cũng đêm hôm đó, sau khi trả lời vài tin nhắn (không phải của Morini), Norton lên phòng, chải tóc, đánh răng, thoa kem dưỡng ẩm lên mặt, ngồi bên thành giường một lát, nghĩ ngợi, và rồi đi ra hành lang gõ cửa phòng Pelletier và kế đến cửa phòng Espinoza và chẳng nói năng gì dẫn họ vào phòng mình, làm tình với cả hai đến năm giờ sáng, tới giờ đó các nhà phê bình, theo yêu cầu của Norton, trở về phòng mình, họ nhanh chóng chìm vào giấc ngủ sâu, nhưng giấc ngủ lại lảng tránh Norton, cô trải ga giường ngay ngắn một chút rồi tắt đèn nhưng vẫn tỉnh như sáo.

♣ ♣ ♣

Cô nghĩ về Morini, hay đúng hơn cô thấy Morini ngồi trên xe lăn bên cửa sổ trong căn hộ của anh ở Turin, nơi cô chưa bao giờ tới, nhìn ra đường và mặt tiền các tòa nhà xung quanh ngắm mưa rơi miên man. Những tòa nhà bên kia đường xám xịt. Con đường rộng và tối, một đại lộ, nhưng không có bất cứ chiếc xe hơi nào chạy ngang, với hàng cây khẳng khiu, mỗi cây trồng cách nhau đều đặn sáu mươi bộ, như một trò đùa dở tệ của thị trưởng hay sở quy hoạch thành phố. Bầu trời như tấm chăn trùm lên một tấm chăn, với một tấm chăn khác phủ lên trên đó nữa, thậm chí còn dày hơn và ướt át hơn. Cửa sổ Morini nhìn ra là một khung cửa to, gần như một cửa ra vào kiểu Pháp, hẹp chứ không rộng, nhưng rất cao, và sạch tươm đến nỗi khi có những giọt mưa trượt qua kính cửa giống như tinh thể tinh khiết. Khung cửa sổ bằng gỗ, sơn trắng. Đèn trong phòng sáng. Sàn gỗ bóng loáng, các kệ sách trông có vẻ được sắp xếp tỉ mỉ, và trên tường có một vài bức tranh, có gu không chê vào đâu được. Căn phòng không có thảm, còn đồ đạc - một ghế sofa bằng da màu đen, và hai ghế bành da trắng - hoàn toàn không choán đường đi của xe lăn. Qua cánh cửa hai lớp, khép hờ, một hành lang tối om trải dài.

Còn Morini thì sao? Tư thế của anh trên xe lăn biểu lộ một chừng mực nào đó của buông xuôi, như thể chỉ cần ngắm mưa đêm và khu phố đang thiếp ngủ với anh là đủ. Đôi khi anh gác hai cánh tay trên ghế, đôi khi anh ngả đầu trên một cánh tay và chống khuỷu tay lên tay ghế. Cặp chân vô dụng của anh, như chân một thiếu niên cận tử, được vận một chiếc quần jean có lẽ quá to đối với anh. Anh mặc sơ mi trắng không cài nút trên, và trên cổ tay trái của anh dây đồng hồ cài quá lỏng, tuy không lỏng đến độ đồng hồ sẽ tuột ra. Anh không đi giày mà mang đôi dép khá cũ, bằng vải đen và bóng như màn đêm. Mọi thứ anh mặc đều thoải mái, là đồ để mặc ở nhà, và bằng vào thái độ của Morini, có vẻ anh không có ý định đi làm ngày hôm sau, hoặc anh định đi làm trễ.

Bên ngoài cửa sổ, như anh nói trong email, mưa rơi chênh chếch, và trong sự mệt nhọc của Morini, vẻ tĩnh tại và chấp nhận của anh, việc anh không hề ta thán mà hoàn toàn quy phục chứng mất ngủ người ta nghĩ đến một kẻ nông dân buông xuôi.

♣ ♣ ♣

Ngày hôm sau họ đi tham quan chợ thủ công, vốn là nơi buôn bán trao đổi cho dân cư sống gần Santa Teresa, nơi thợ thủ công và nông dân khắp vùng chở hàng hóa đến bằng xe kéo hay lừa, có cả đám chăn trâu bò