PHẦN MỘT (D) PHẦN VỀ CÁC NHÀ PHÊ BÌNH
Họ quay về và thấy Amalfitano đang đợi họ cùng với con trai của Guerra, cậu ta mời họ đi ăn tối ở một quán chuyên phục vụ đồ miền Bắc Mexico. Chỗ này trông khá hay, nhưng đồ ăn không hợp với họ tí nào. Họ khám phá ra, hay tin rằng họ khám phá ra, mối ràng buộc giữa vị giáo sư Chile và con trai của trưởng khoa mang tính thầy trò hơn là một mối quan hệ đồng tính, và điều này trong chừng mực nào đó khiến họ nhẹ lòng, vì ba người bọn họ đã mang lòng yêu mến Amalfitano mà không thể giải thích được tại sao.
♣ ♣ ♣Ba ngày liền họ sống như thể chìm trong một thế giới ngầm dưới đáy biển. Họ xem tivi, tìm kiếm những tin tức lạ lùng nhất và ngẫu nhiên nhất, họ đọc lại các tiểu thuyết của Archimboldi mà đột nhiên họ không hiểu, họ ngủ những giấc trưa dài, họ là những người cuối cùng rời quán buổi đêm, họ trò chuyện về thời thơ ấu của mình vì trước đây họ chưa bao giờ nói tới. Lần đầu tiên, ba người cảm thấy mình như anh chị em hay như những cựu binh của một đoàn quân xung kích nào đó chẳng còn quan tâm đến hầu hết mọi thứ trên thế giới. Họ say sưa và dậy muộn, chỉ thỉnh thoảng mới đoái hoài tới việc đi ra ngoài cùng Amalfitano dạo quanh thành phố, thăm viếng những địa điểm có thể thu hút một du khách người Đức cao niên giả định.
♣ ♣ ♣Và phải, họ đi dự tiệc BBQ thịt cừu, và những cử động của họ đều đầy cân nhắc và thận trọng, như thể họ là ba phi hành gia vừa mới đến một hành tinh nơi mà họ không biết rõ. Trên bãi đất tổ chức tiệc họ nhìn chằm chằm vào các lò nướng. Các giáo sư Đại học Santa Teresa biểu diễn các ngón nghề địa phương bằng một tài năng tuyệt vời. Hai người đua ngựa. Một người khác hát một bản corrido từ năm 1915. Trong một sới tập đấu bò mấy người thử ném dây thòng lọng, với kết quả khác nhau. Khi hiệu trưởng Negrete, vốn bị nhốt trong gian nhà chính với một người hình như là quản lý trại, xuất hiện, họ xới các lò nướng lên, mùi thịt cùng mùi đất nóng lan khắp sân trong một màn khói mỏng vây phủ họ như màn sương bồng bềnh trước mặt một tên sát nhân và biến mất đầy bí ẩn khi cánh phụ nữ mang đĩa đến bàn, nhưng quần áo và làn da đã kịp thấm đẫm mùi thơm ấy.
♣ ♣ ♣Đêm đó, có lẽ do bữa tiệc BBQ và do tất cả bọn họ đều phải uống rượu, cả ba đều gặp ác mộng, nhưng không thể nhớ gì khi thức dậy, mặc dù gắng đến mấy. Pelletier mơ thấy một trang sách, một trang anh cố gắng đọc tới đọc lui, bằng mọi cách, xoay tới xoay lui, thỉnh thoảng xoay cả đầu, mỗi lúc một nhanh hơn, nhưng không giải mã được gì. Norton mơ thấy một cái cây, một cây sồi Anh cô nhổ lên và chuyển từ chỗ này đến chỗ nọ ở thôn quê, mà không có điểm nào làm cô hoàn toàn thỏa mãn. Đôi khi cây sồi không có rễ, đôi khi rễ nó dài như rắn hay những bím tóc của một trong ba chị em Gorgon. Espinoza mơ thấy một cô gái bán thảm. Anh muốn mua một tấm thảm, thảm nào cũng được, và cô gái chỉ cho anh rất nhiều thảm, hết cái này đến cái kia, không dừng lại. Đôi cánh tay mỏng mảnh, sẫm màu của cô không bao giờ yên và ngăn không cho anh nói, ngăn anh kể cô nghe một chuyện quan trọng gì đó, ngăn anh tóm lấy cánh tay cô và đưa cô ra khỏi chỗ này.
♣ ♣ ♣Sáng hôm sau Norton không xuống ăn sáng. Họ gọi cô, nghĩ rằng cô ốm, nhưng Norton đảm bảo với họ rằng cô chỉ muốn ngủ nướng, và họ nên đi mà không có cô. Rầu rĩ, họ đợi Amalfitano tới rồi lái xe ra hướng Đông Bắc thành phố, nơi một gánh xiếc đang dựng rạp. Theo Amalfitano, có một nhà ảo thuật người Đức đi cùng gánh xiếc tên là tiến sĩ Koenig. Đêm hôm trước ông nghe nói tới gánh xiếc, trên đường từ bữa tiệc về thì ông thấy mấy tờ rơi ai đó đã cố công rải khắp các sân trong khu phố. Ngày hôm sau, ở góc phố nơi ông đón xe buýt đến trường đại học, ông nhìn thấy một bích chương màu dán trên bức tường xanh da trời quảng cáo các ngôi sao của gánh xiếc. Trong đó có nhà ảo thuật người Đức, và Amalfitano nghĩ tiến sĩ Koenig này có thể là Archimboldi giả trang. Tỉnh táo xem xét lại, ông nhận ra đó là một ý nghĩ ngốc nghếch, nhưng hai nhà phê bình tinh thần đang xuống thấp đến nỗi ông nghĩ gợi ý một chuyến đi đến thăm gánh xiếc cũng không phương hại gì. Khi ông bảo họ, họ nhìn ông theo kiểu các sinh viên nhìn thằng ngốc của lớp học.
“Archimboldi sẽ làm gì tại một gánh xiếc?” Pelletier nói khi họ đã lên xe.
“Tôi không biết,” Amalfitano nói, “các cậu mới là chuyên gia, tôi chỉ biết đây là người Đức đầu tiên chúng ta bắt gặp.”
♣ ♣ ♣Gánh xiếc có tên là Circo Internacional; mấy người đàn ông đang dựng tấm dù to bằng một hệ thống dây thừng và ròng rọc phức tạp (hay có vẻ như vậy đối với hai nhà phê bình) chỉ đường cho họ ra chỗ toa xe kéo nơi người chủ sống. Ông chủ gánh xiếc là một người Mỹ gốc Mexico trạc ngũ tuần từng làm việc một thời gian dài tại các gánh xiếc châu Âu xuyên lục địa từ Copenhagen cho đến Malaga, biểu diễn trong các thị trấn nhỏ với thành công tầm tầm, cho đến khi quyết định quay về Earlimart, California, quê hương ông, và xây dựng gánh xiếc của riêng mình. Ông đặt tên nó là Circo Internacional bởi vì một trong những ý tưởng ban đầu của ông là tuyển dụng các nghệ sĩ trình diễn khắp thế giới, mặc dù rốt cuộc hầu hết họ là người Mexico và người Mỹ, ngoại trừ đôi khi có vài người Trung Mỹ đến tìm việc và một lần ông có một chuyên gia dạy sư tử người Canada ngoài bảy mươi tuổi không được gánh xiếc nào khác ở Hoa Kỳ thuê. Gánh xiếc của ông không hào nhoáng, ông nói, nhưng đó là gánh xiếc đầu tiên do một người Mỹ gốc Mexico làm chủ.
Khi không lưu diễn có thể thấy họ ở Bakersfield, không xa Earlimart mấy, ở đó ông có trụ sở mùa đông của mình, mặc dù thỉnh thoảng ông hạ trại ở Sinaloa, Mexico, không lâu lắm, chỉ để ông có thể đi Mexico City và ký kết các hợp đồng thuê địa điểm ở miền Nam, suốt tới biên giới Guatemala, và từ đó họ có thể ngược về Bakersfield. Khi những người ngoại quốc hỏi ông về tiến sĩ Koenig, ông bầu muốn biết liệu có phải họ có tranh chấp hay rắc rối gì về tiền bạc với nhà ảo thuật của ông không, khiến Amalfitano nhanh chóng đáp rằng không, chắc chắn không, những quý ông đây là các giáo sư đại học rất đáng kính từ Tây Ban Nha và Pháp, và bản thân ông, không nói quá và xin lỗi chứ, cũng là giáo sư Đại học Santa Teresa.
“Ồ, vậy thì,” ông bầu gánh xiếc nói, “nếu thế thì tôi sẽ đưa các vị đến gặp tiến sĩ Koenig. Tôi nghĩ ông ta cũng từng là giáo sư.”
Nghe ông nói vậy tim các nhà phê bình nhộn nhạo. Rồi họ đi theo ông bầu đi ngang qua các toa xe của gánh xiếc và những cái lồng có gắn bánh xe đến nơi, về bản chất, là rìa của khu trại. Xa hơn ngoài kia chỉ là dải đất vàng và một hai túp lều đen đen và hàng rào dọc biên giới Mỹ-Mexico.
“Ông ta thích yên tĩnh,” ông bầu nói, tuy họ không hỏi.
Ông gõ lên cánh cửa toa xe nhỏ của nhà ảo thuật. Có người mở cửa và một tiếng nói từ bóng tối vọng ra hỏi ông cần gì. Ông bầu gánh xiếc nói là ông đây, có vài người bạn châu Âu đi cùng muốn chào một câu. Mời vào, giọng nói lên tiếng, và họ bước lên bậc thang duy nhất vào trong toa xe, ở đó rèm được kéo ra ở cả hai cửa sổ, vốn chỉ to hơn lỗ cửa sổ ở thành tàu thủy một tí.
“Tôi không biết làm sao chúng ta có thể ngồi vừa trong đây,” ông bầu nói, và ngay lập tức kéo rèm lại.
Họ thấy nằm trên chiếc giường duy nhất một ông hói đầu da nâu vận độc cái quần đùi rộng thùng thình nhìn họ nheo nheo mắt đầy khó khăn. Ông ta không thể nào hơn sáu mươi tuổi được, cùng lắm cũng chỉ sáu mươi, điều này loại trừ ông ngay tức khắc, nhưng họ quyết định ở lại một chút và ít nhất cảm ơn ông ta vì đã gặp họ. Amalfitano, tâm trạng tốt hơn hai người kia, giải thích rằng họ đang đi tìm một người bạn Đức, một nhà văn, và họ không tìm thấy ông ấy.
“Vậy các vị nghĩ rằng các vị sẽ tìm thấy ông ta trong gánh xiếc của tôi?” ông bầu nói.
“Không phải ông ấy, mà ai đó có thể biết ông ấy,” Amalfitano nói.
“Tôi không bao giờ thuê nhà văn,” ông bầu nói.
“Tôi không phải người Đức,” tiến sĩ Koenig nói. “Tôi là người Mỹ. Tôi tên là Andy Lopez.”
Vừa nói những lời này ông ta vừa rút ví ra khỏi một cái túi treo đầu giường và chìa bằng lái ra.
“Trò ảo thuật của ông là gì?” Pelletier hỏi ông ta bằng tiếng Anh.
“Tôi khởi đầu bằng cách làm bọ chét biến mất,” tiến sĩ Koenig nói, và cả năm người bọn họ bật cười.
“Đó là sự thật,” ông bầu nói.
“Rồi tôi làm biến mất bồ câu, rồi tôi làm một con mèo biến mất, rồi một con chó, và tôi kết màn diễn bằng cách làm biến mất một đứa trẻ.”
♣ ♣ ♣Ra khỏi gánh xiếc Circo Internacional, Amalfitano mời họ đến nhà ăn trưa.
Espinoza đi ra sân sau và thấy một cuốn sách treo trên một dây phơi quần áo. Anh không muốn lại xem thử đó là sách gì, nhưng khi quay lại vào trong nhà anh hỏi Amalfitano.
“Đó là cuốn Kinh thánh hình học của Rafael Dieste,” Amalfitano nói.
“Rafael Dieste, thi sĩ người Galicia,” Espinoza nói.
“Đúng rồi,” Amalfitano nói, “nhưng đây là một cuốn sách về hình học, không phải thơ, là những ý tưởng đến với Dieste trong thời gian ông là giáo viên trung học.”
Espinoza dịch lời Amalfitano cho Pelletier.
“Và nó được treo ngoài trời?” Pelletier mỉm cười hỏi.
“Ừ,” Espinoza nói trong khi Amalfitano ngó vào tủ lạnh xem có gì để ăn không, “như phơi áo ngoài trời cho khô.”
“Các cậu có thích ăn đậu?” Amalfitano hỏi.
“Gì cũng được. Tới giờ bọn tôi quen với mọi thứ rồi,” Espinoza nói.
Pelletier đi lại cửa sổ và nhìn cuốn sách, các trang sách se sẽ xao động trong làn gió chiều nhè nhẹ. Rồi anh đi ra sân ngắm nghía nó một lúc lâu.
“Đừng lấy nó xuống,” anh nghe Espinoza nói sau lưng mình.
“Cuốn sách này không phải là để ngoài cho khô, nó đã ở đây lâu rồi,” Pelletier nói.
“Tớ cũng nghĩ vậy,” Espinoza nói, “nhưng tốt hơn ta cứ để yên nó đó và đi về nhà.”
Amalfitano dõi theo họ từ cửa sổ, bậm môi, mặc dù vẻ mặt ông (ít nhất vào lúc đó) không có gì tuyệt vọng hay bất lực mà có vẻ buồn thăm thẳm, vô hạn.
Ngay khi các nhà phê bình vừa có dấu hiệu quay lại, Amalfitano rút lui, nhanh chóng quay lại bếp, vờ chăm chú chuẩn bị bữa trưa.
♣ ♣ ♣Khi họ về lại khách sạn, Norton bảo họ ngày hôm sau cô sẽ ra về, họ thản nhiên đón nhận tin này, như thể lâu nay họ đã chờ đợi điều ấy. Chuyến bay Norton tìm được là bay ra từ Tucson, và mặc dù cô phản đối - cô đã định đi taxi - họ quyết chở cô ra sân bay. Đêm đó họ trò chuyện đến tận khuya. Họ kể với Norton về chuyến đi thăm gánh xiếc và hứa nếu không có gì thay đổi, họ sẽ ở đó tối đa ba ngày nữa. Rồi Norton đứng dậy định về đi ngủ, Espinoza gợi ý họ trải qua đêm cuối ở Santa Teresa cùng nhau. Norton hiểu nhầm và nói chỉ duy có cô đi về thôi, họ còn ở lại thành phố thêm mấy đêm nữa.
“Ý anh là ba chúng ta cùng nhau,” Espinoza nói.
“Lên giường ư?” Norton hỏi.
“Ừ, lên giường,” Espinoza nói.
“Em không nghĩ đó là ý hay,” Norton nói, “em muốn ngủ một mình hơn.”
Vậy là họ đưa cô đến thang máy rồi ra quầy bar gọi hai ly Bloody Mary và ngồi chờ trong im lặng.
“Lần này thì tớ dại mồm rồi,” Espinoza nói khi người pha rượu mang đồ uống đến cho họ.
“Có vẻ như vậy,” Pelletier nói.
“Cậu có nhận thấy,” Espinoza nói, sau một quãng im lặng nữa, “rằng trong cả chuyến đi này bọn mình chỉ lên giường với cô ấy có một lần?”
“Dĩ nhiên tớ nhận thấy,” Pelletier nói.
“Và đó là lỗi của ai,” Espinoza nói, “của cô ấy hay bọn mình?”
“Tớ không biết,” Pelletier nói, “sự thật là những ngày này tớ không có tâm trạng làm tình lắm. Cậu thì sao?”
“Tớ cũng không,” Espinoza nói.
Họ lại im lặng một đỗi.
“Có lẽ cô ấy ít nhiều cũng có cảm giác tương tự,” Pelletier nói.
♣ ♣ ♣Sớm tinh mơ, họ rời khỏi Santa Teresa. Đầu tiên họ gọi cho Amalfitano bảo ông rằng họ sắp sửa đi Mỹ và có lẽ cả ngày sẽ không quay lại. Ở biên giới hải quan Mỹ muốn xem giấy tờ xe trước khi cho họ qua. Theo chỉ dẫn của lễ tân khách sạn, họ đi theo con đường đất và suốt một lúc lâu họ lái xe băng qua một dải rừng và những con suối, như thể tình cờ gặp phải một nhà vòm với hệ sinh thái riêng của nó. Có lúc họ ngỡ mình không bao giờ đến được sân bay, hay bất cứ nơi đâu khác. Nhưng con đường đất kết thúc ở Sonoita và từ đó họ theo lộ 83 và theo đường xuyên bang 10 mà đưa thẳng đến Tucson. Ở sân bay họ vẫn còn đủ thời gian uống cà phê và nói về những việc sẽ làm khi gặp lại nhau ở châu Âu. Rồi Norton phải đi tới cửa khởi hành và nửa giờ sau máy bay cô cất cánh bay đi New York, ở đó cô sẽ bay nối chuyến về London.
Vòng về họ đi theo đường xuyên bang 19 đến Nogales, nhưng họ ra khỏi đường này một chút xíu sau khi qua khỏi thành phố Rio Rico và men theo biên giới ở phía bang Arizona, đến Lochiel, ở đó họ lại vào đất Mexico. Họ đói và khát nhưng không dừng ở thị trấn nào. Năm giờ chiều họ về lại khách sạn, tắm xong họ xuống nhà ăn một cái sandwich và gọi cho Amalfitano. Ông bảo họ đừng ra khỏi khách sạn, ông sẽ đón taxi và đến đó trong vòng mười phút. Chúng tôi không vội, họ nói.
♣ ♣ ♣Sau thời khắc đó, thực tại đối với Pelletier và Espinoza dường như rách bươm như cảnh quan bằng giấy, và khi bóc đi rồi những thứ đằng sau lộ ra: một phong cảnh bốc khói, như thể ai đó, có thể một thiên thần, đang chăm chút hàng trăm lò nướng BBQ cho một đám đông gồm những sinh thể vô hình. Họ thôi không dậy sớm, họ thôi ăn ở khách sạn, giữa các du khách Mỹ, và chuyển vào trung tâm thành phố, chọn những quán bar tôi tối để ăn sáng (bia và món chilaquiles cháy họng) và những quán bar có cửa sổ lớn để ăn trưa, ở đó những người phục vụ bàn viết món đặc biệt bằng mực trắng trên kính. Bữa tối họ tiện đâu ăn đó.
Họ nhận lời mời của hiệu trưởng tới giảng bài về văn học Pháp và Tây Ban Nha đương đại, những bài giảng giống những vụ thảm sát hơn và ít ra còn có cái hay là gây ra hoảng sợ cho người nghe, hầu hết là thanh niên, những độc giả của Michon và Rolin hay Marias và Vila-Matas. Sau đó, và lần này cùng nhau, họ giảng một lớp cao học về Benno von Archimboldi, cảm thấy giống du côn hay kẻ moi ruột hơn là đồ tể, nhưng có gì đó bên trong họ hối thúc họ kiềm chế, cái gì đó thoạt tiên không thể phát hiện ra, rồi, lặng lẽ, họ cảm nhận được một cuộc chạm trán định mệnh: trong số thính giả, không tính Amalfitano, có ba độc giả Archimboldi trẻ gần như khiến họ phát khóc. Một người trong số họ có thể nói tiếng Pháp, thậm chí còn có một trong những cuốn sách do Pelletier dịch. Như vậy sau rốt các phép lạ là có thể xảy ra. Các tiệm sách trên Internet không phải là vô nghĩa. Văn hóa, bất chấp những biến mất và tội lỗi, vẫn còn sống, trong một trạng thái chuyển hóa thường trực, như họ mau chóng khám phá ra khi, sau bài giảng và theo đề nghị công khai của Pelletier và Espinoza, các độc giả Archimboldi trẻ tuổi theo họ đến sảnh đón tiếp của trường đại học, ở đó có một lễ hội tình yêu, hay đúng hơn là giờ dành để ăn nhẹ, hay nửa giờ để ăn nhẹ, hay có thể chỉ là một cái gật đầu lịch sự trước hai giảng viên châu Âu xuất sắc, và ở đó, vì không có đề tài nào hay hơn, mọi người nói về việc người Đức là những cây bút cự phách, tất tần tật bọn họ, và về tầm quan trọng lịch sử của những trường đại học như Sorbonne hay Đại học Salamanca, nơi mà, trước sự ngạc nhiên của hai nhà phê bình, hai trong số các giáo sư của trường (một dạy luật La Mã và người kia dạy luật hình sự thế kỷ hai mươi) đã theo học. Lát sau, trưởng khoa Guerra và một trong các thư ký hành chính kéo họ ra một bên và đưa séc cho họ, và một lát sau nữa, nhờ một cơn ngất xỉu của một trong số các bà vợ của các giáo sư, họ chuồn về.
♣ ♣ ♣Đi cùng với họ là Amalfitano, ông vốn cũng ghét những bữa tiệc thế này nhưng không có lựa chọn nào khác ngoài việc thỉnh thoảng phải chịu đựng, và ba độc giả Archimboldi. Đầu tiên họ ăn tối trong khu trung tâm rồi lái xe ngược xuôi các con phố không bao giờ ngủ. Chiếc xe thuê khá lớn, nhưng họ vẫn phải gần như ngồi lên người nhau và những người đi trên vỉa hè nhìn họ đầy vẻ hiếu kỳ, kiểu nhìn họ dành cho mọi người trên đường, cho đến lúc nhìn thấy Amalfitano và ba sinh viên bó rọ ở băng sau thì họ nhanh chóng liếc mắt sang chỗ khác.
Họ vào một quán bar mà một trong số các chàng trai biết. Quán bar khá lớn, ở phía sau là một khoảnh sân có cây và một khoảng đất nhỏ rào lại để chọi gà. Cậu trai nói cha cậu từng đưa cậu đến đây một lần. Họ nói chuyện chính trị, và Espinoza phiên dịch lời các cậu thanh niên cho Pelletier. Họ đều chưa tới hai mươi tuổi, đều trông tươi tắn, khỏe khoắn. Họ có vẻ háo hức học hỏi. Ngược lại, đêm hôm đó Amalfitano dường như mệt mỏi và uể oải hơn bao giờ hết. Pelletier thấp giọng hỏi ông có chuyện gì ư. Amalfitano lắc đầu nói không, nhưng khi về khách sạn, hai nhà phê bình nhận xét rằng từ cái kiểu người bạn của họ rít thuốc liên tù tì và suốt tối gần như không mở miệng, hẳn ông ấy cực kỳ trầm cảm hoặc bị suy nhược.
Hôm sau khi thức dậy, Espinoza thấy Pelletier ngồi ở sân khách sạn, vận quần soóc đi xăng đan da, đọc báo Santa Teresa ngày hôm ấy, lăm lăm một cuốn từ điển Tây Ban Nha-Pháp mà có lẽ anh mới mua sáng hôm ấy.
“Mình có vào trung tâm ăn sáng không?” Espinoza hỏi.
“Không,” Pelletier nói, “ngần ấy cồn và đồ ăn rẻ tiền là đủ rồi. Tớ muốn tìm hiểu xem cái gì đang xảy ra ở thành phố này.”
Rồi Espinoza chợt nhớ ra tối hôm trước một trong các chàng trai kể chuyện về những người phụ nữ bị giết. Tất cả những gì anh còn nhớ là chàng trai nói rằng hơn hai trăm người đã bị giết và cậu ta phải lặp lại hai hay ba lần vì cả Espinoza lẫn Pelletier đều không tin vào tai mình. Tuy vậy, không tin vào tai mình, Espinoza nghĩ, là một hình thức phóng đại. Bạn thấy cái gì đó xinh đẹp và bạn không thể tin vào mắt mình. Ai đó kể bạn nghe điều gì đó… vẻ đẹp tự nhiên của Iceland… người ta tắm suối nước nóng… thật ra bạn đã thấy trong hình, nhưng bạn vẫn nói bạn không thể tin được… Mặc dù rõ ràng là bạn tin điều đó… Phóng đại là một hình thức ngưỡng mộ lịch sự… Bạn dựng lên để người đối thoại với bạn có thể nói: thật mà… Và rồi bạn nói: thật đáng kinh ngạc. Đầu tiên bạn không tin rồi bạn lại nghĩ nó thật đáng kinh ngạc.
Đó chắc là điều mà anh và Pelletier nói đêm hôm trước. Khi chàng trai, khỏe mạnh và trong sáng, kể họ nghe rằng hơn hai trăm phụ nữ đã chết. Nhưng lại không phải trong một thời gian ngắn, Espinoza nghĩ. Từ 1993 hay 1994 đến hiện tại… Và nhiều nhiều phụ nữ nữa có thể đã bị giết. Có lẽ hai trăm năm mươi hay ba trăm. Sẽ không bao giờ có ai biết chắc, chàng trai nói bằng tiếng Pháp. Chàng trai này đã đọc một cuốn sách của Archimboldi do Pelletier dịch và mua nó từ một tiệm sách trên Internet. Cậu ta không nói được tiếng Pháp mấy, Espinoza nghĩ. Nhưng người ta có thể nói một ngôn ngữ rất tồi hay không nói được chút nào mà vẫn có thể đọc được. Dù sao đi nữa, rất nhiều phụ nữ đã chết.
“Vậy ai là kẻ thủ ác?” Pelletier hỏi.
“Có mấy người đã ngồi tù được một thời gian rồi, nhưng phụ nữ vẫn tiếp tục chết,” một trong các chàng trai nói.
Amalfitano, Espinoza nhớ lại, đã im lặng, vẻ mặt trống vắng, có lẽ say. Ở bàn kế bên có ba người đàn ông cứ nhìn họ chằm chằm như thể quan tâm đến những chuyện họ nói. Mình còn nhớ gì nữa? Espinoza tự hỏi. Ai đó, một trong số các chàng trai, nói về dịch giết người. Ai đó nói gì về hội chứng bắt chước. Ai đó nói tới cái tên Albert Kessler. Có một lúc Espinoza đứng dậy vào nhà vệ sinh để nôn. Trong lúc đang nôn anh nghe ai đó bên ngoài, có lẽ đang rửa tay hay rửa mặt hay chỉnh quần áo trước gương, nói với anh:
“Không sao đâu, anh bạn, cứ nôn đi.”
Giọng nói làm mình thấy nhẹ nhàng, Espinoza nghĩ, nhưng thế tức là mình cảm thấy bất an, và tại sao mình lại có thể bất an? Khi anh rời khỏi ngăn, không có ai ở đó, chỉ có tiếng nhạc từ quán bar vẳng vào và tiếng đường ống nước, sâu hơn và lục cục. Ai đưa bọn mình về khách sạn? anh băn khoăn.
“Ai lái xe đây?” anh hỏi Pelletier.
“Cậu chứ ai,” Pelletier nói.
♣ ♣ ♣Hôm đó mặc Pelletier đọc báo ở khách sạn, Espinoza đi ra ngoài một mình. Tuy lúc đó đã muộn giờ ăn sáng, anh vẫn vào một quán bar trên phố Arizpe lúc nào cũng vắng và yêu cầu thứ gì đó để tỉnh rượu.
“Bị say uống cái này là tốt nhất ạ,” cậu đứng quầy nói và đặt trước mặt anh một ly bia lạnh.
Từ bên trong vọng ra tiếng chiên xào. Anh nói muốn gọi đồ ăn.
“Bánh quesadilla nhé, thưa ngài?”
“Một cái thôi,” Espinoza nói.
Cậu đứng quầy nhún vai. Quán bar vắng hoe, không tối bằng các quán bar anh thường ghé vào buổi sáng. Cánh cửa vào nhà vệ sinh bật mở và một người đàn ông lênh khênh bước ra. Mắt Espinoza phát đau và anh lại bắt đầu thấy khó ở, nhưng diện mạo của người đàn ông cao lênh khênh kia làm anh giật mình. Trong bóng tối anh không thấy mặt ông ta hay đoán được ông ta bao tuổi. Nhưng người đàn ông cao kều này ngồi xuống cạnh cửa sổ, và ánh đèn xanh đèn vàng soi rõ các đường nét của ông ta.
Espinoza nhận ra đó không thể là Archimboldi. Ông ta trông giống một nông dân hay chủ trại chăn nuôi ghé thăm thành phố. Cậu bồi đặt một chiếc bánh quesadilla trước mặt anh. Cầm bánh lên, anh bị bỏng tay và đòi một chiếc khăn giấy. Rồi anh bảo cậu bồi mang thêm cho anh ba chiếc bánh nữa. Ra khỏi quán anh đi thẳng về phía chợ thủ công. Có mấy người bán hàng đang thu dọn hàng và xếp bàn gấp lại. Đang là giờ ăn trưa và ở đây không có mấy người. Thoạt tiên anh loay hoay mãi mới tìm được quầy cô gái bán thảm. Những con đường trong chợ bẩn thỉu, cứ như ở đó bán đồ ăn hay rau trái chứ không phải đồ thủ công. Anh thấy cô gái lúc cô đang bận rộn cuốn thảm và buộc lại. Những tấm nhỏ nhất, những tấm dệt tay, cô đặt trong một thùng các tông dài. Vẻ mặt cô trống vắng, như thể cô ở chốn nào xa xăm. Espinoza tiến lại gần sờ một tấm thảm. Anh hỏi cô có nhớ anh là ai không. Cô gái không tỏ ra ngạc nhiên. Cô nhướng mắt, nhìn anh, và nói với một vẻ tự nhiên khiến anh mỉm cười.
“Anh là ai?” Espinoza hỏi.
“Ông người Tây Ban Nha mua thảm của em,” cô gái nói, “chúng ta có nói chuyện một lúc.”
♣ ♣ ♣Sau khi giải mã tờ báo, Pelletier thấy muốn tắm rửa cho sạch những chất bẩn bám vào da mình. Anh thấy Amalfitano đang từ xa đi lại. Anh nhìn ông đi vào khách sạn và nói chuyện với lễ tân. Trước khi bước ra hàng hiên, Amalfitano giơ một bàn tay yếu ớt ra hiệu nhận thấy anh. Pelletier đứng dậy bảo ông muốn gọi đồ ăn gì thì gọi, anh định đi tắm. Trong lúc rời khỏi đó anh nhận thấy mắt Amalfitano đỏ và có quầng, như thể ông không ngủ. Ngang qua sảnh anh đổi ý và bật một trong hai chiếc máy tính khách sạn dành cho khách trong căn phòng nhỏ cạnh quán bar. Kiểm tra email anh thấy một thư dài của Norton trong đó kể ra điều cô tin là lý do thật của việc cô bỏ đi đột ngột như thế. Anh đọc thư mà như còn say. Anh nghĩ về các cậu độc giả Archimboldi trẻ trung ngày hôm trước, và anh mơ hồ muốn mình giống như họ, trao đổi cuộc đời anh với họ. Mong ước này, anh tự nhủ, là một dạng suy nhược. Rồi anh bấm nút thang máy và đi lên cùng một phụ nữ Mỹ tầm bảy mươi đang đọc một tờ báo Mexico, một trong những tờ mà anh đọc sáng hôm ấy. Trong lúc cởi đồ anh nghĩ xem mình sẽ nói thế nào với Espinoza. Chắc cậu ấy cũng có một lá thư từ Norton. Mình có thể làm gì? anh tự hỏi.
Cảm giác ớn lạnh từ bồn cầu vẫn còn đó và anh nhìn chằm chằm nó mất mấy giây rồi cho nước ấm chảy qua người. Làm gì là hợp lý? anh nghĩ. Điều hợp lý nhất là quay trở lại và trì hoãn bất cứ kết luận nào càng lâu càng tốt. Chỉ khi xà phòng vào mắt anh mới có thể không nhìn bồn cầu nữa mà nhìn ra chỗ khác. Anh xoay mặt vào trong dòng nước và nhắm mắt lại. Mình không buồn như mình đã nghĩ, anh tự nhủ. Chuyện này toàn là phi thực, anh tự nói với chính mình. Rồi anh tắt nước, mặc quần áo rồi xuống nhà ngồi cùng Amalfitano.
♣ ♣ ♣Anh đi cùng với Espinoza kiểm tra email. Anh đứng sau lưng Espinoza cho đến khi anh có thể biết chắc là có thư từ Norton, và khi đã thấy rồi, chắc chắn thư đó sẽ nói cùng nội dung với thư cho anh, anh ngồi xuống một chiếc ghế bành cách máy tính vài bước chân và giở qua một tạp chí du lịch. Thỉnh thoảng anh ngước mắt lên nhìn Espinoza, trông không có vẻ gì là sắp đứng dậy. Anh muốn vỗ lưng bạn mình, nhưng anh lựa chọn không nhúc nhích. Khi Espinoza xoay lại nhìn anh, anh bảo mình cũng nhận được một email y như vậy.
“Tớ không thể tin nổi,” Espinoza nói giọng yếu ớt.
Pelletier để lại tờ tạp chí trên chiếc bàn kính và đi lại máy tính, liếc qua thư của Norton. Rồi không ngồi xuống và gõ bằng một ngón tay, anh tìm thấy email của mình và cho Espinoza xem thư mình nhận được. Anh bảo Espinoza, rất nhẹ nhàng, đọc đi. Espinoza quay lại màn hình đọc thư của Pelletier nhiều lần.
“Gần như y chang,” anh nói.
“Thì sao?” Pelletier nói.
“Ít ra cô ấy nên tỏ ra biết điều hơn một chút về chuyện này,” Espinoza nói.
“Trong những trường hợp thế này, biết điều tức là báo tin cho mọi người,” Pelletier nói.
Khi họ ra ngoài hàng hiên, gần như không có ai ở đó.
Một người phục vụ, mặc áo vét trắng và quần đen, đang thu dọn ly và chai ở một bàn trống. Ở một đầu phòng, gần bao lơn, một cặp tầm hai mấy tuổi nhìn ra con phố im lặng, xanh thẳm, tay trong tay. Espinoza hỏi Pelletier đang nghĩ gì.
“Về cô ấy,” Pelletier nói, “dĩ nhiên.”
Pelletier cũng nói thêm rằng thật kỳ lạ, hay ít ra là kỳ khôi, khi họ ở đây, trong khách sạn này, trong thành phố này, thì Norton rốt cuộc đi đến quyết định của cô ấy. Espinoza nhìn anh thật lâu rồi nói trong kinh tởm rằng anh muốn ói.
♣ ♣ ♣Hôm sau Espinoza quay trở lại chợ thủ công hỏi tên cô gái. Cô gái nói tên Rebeca, và Espinoza mỉm cười, vì anh nghĩ cái tên phù hợp hoàn hảo với người. Anh đứng ở đó ba tiếng đồng hồ, nói chuyện với Rebeca, trong khi khách du lịch và những người đi ngắm hàng đi loanh quanh nhìn hàng hóa đầy hờ hững, cứ như bị bắt buộc. Chỉ có hai lần khách đến quầy hàng của Rebeca, nhưng cả hai lần họ rời đi mà không mua gì, điều này khiến Espinoza cảm thấy có lỗi bởi vì trong chừng mực nào đó anh trách mình mang đến xui xẻo cho cô gái, vì sự hiện diện dai dẳng của anh ở gian hàng. Anh quyết định đền bù bằng cách mua những thứ mà anh nghĩ người khác lẽ ra đã mua. Anh chọn một tấm thảm to, hai tấm thảm nhỏ, một khăn choàng vai gần như xanh lục, một chiếc khác gần như đỏ, và một chiếc ba lô làm bằng cùng một thứ vải và có cùng hoa văn như mấy khăn choàng vai. Rebeca hỏi liệu anh có sớm về nước không và Espinoza mỉm cười nói anh không biết. Rồi cô gái gọi một thằng nhóc chất các món đồ Espinoza mua lên lưng nó và đi cùng anh tới chỗ anh đỗ xe.
Giọng Rebeca khi gọi thằng nhóc (thình lình xuất hiện hay chui ra từ đám đông, về cơ bản hai cái đó đều như nhau), âm sắc của cô, cái quyền lực trầm tĩnh toát ra từ cô, khiến Espinoza rùng mình. Khi đi cùng thằng nhóc anh để ý thấy hầu hết người bán hàng đang bắt đầu thu dọn. Tới xe, họ chất thảm vào cốp và Espinoza hỏi thằng nhóc đã làm cho Rebeca bao lâu. Đó là chị cháu, nó nói. Trông họ không giống nhau tẹo nào, Espinoza nghĩ. Rồi anh liếc nhìn thằng nhóc, người nó thấp đậm nhưng có vẻ khỏe, và cho nó một tờ mười đô la.
♣ ♣ ♣Khi anh về tới khách sạn, Pelletier đang ngồi ở hiên đọc Archimboldi. Espinoza hỏi cuốn nào và Pelletier mỉm cười trả lời là cuốn Thánh Thomas.
“Cậu đọc nó bao nhiêu lần rồi?” Espinoza hỏi.
“Tớ không đếm được nữa, nhưng đây là một trong mấy cuốn tớ đọc ít nhất.”
Y như mình, Espinoza nghĩ, y như mình.
♣ ♣ ♣Thay vì là hai lá thư, thật ra đó chỉ là một lá thư duy nhất với đôi chỗ khác nhau, những biến tấu cộc lốc cho phù hợp với từng người mở cánh cửa đến cùng một vực thẳm. Santa Teresa, thành phố kinh khủng đó, Norton nói, đã khiến cô suy nghĩ. Suy nghĩ theo nghĩa nghiêm nhặt, lần đầu tiên trong nhiều năm. Nói cách khác, cô đã bắt đầu nghĩ về những thứ thực tế, có thực, hữu hình, và cô cũng đã bắt đầu nhớ lại. Cô đã nghĩ về gia đình, bạn bè, công việc, và gần như cùng lúc cô đã nhớ lại những cảnh gia đình hay cảnh văn phòng, những cảnh mà ở đó bạn bè cô nâng cốc và chúc mừng, có thể cho cô, có thể cho ai đó cô đã quên mất. Mexico là nơi chốn không thể tin nổi (cô chuyển đề tài ở đây, nhưng chỉ trong thư của Espinoza, như thể Pelletier không thể hiểu hoặc như thể cô biết trước họ sẽ so thư với nhau), một nơi mà một trong những vị tai to mặt lớn trong cơ quan văn hóa, một người cứ cho là bảnh, một nhà văn đạt tới những cấp bậc cao trong chính quyền, lại được gán cho biệt danh là El Cerdo, và không ai buồn đặt câu hỏi về chuyện đó, cô nói, và cô nhìn thấy một mối liên hệ giữa điều này, tức biệt danh hay sự ác độc của biệt danh hay việc cam chịu biệt danh này, với những hành vi tội ác diễn ra bấy lâu ở Santa Teresa.
Hồi nhỏ, em từng thích một cậu bé. Em không biết tại sao em thích cậu ta, nhưng chắc chắn em thích. Em tám tuổi và cậu ta cũng vậy. Cậu ta tên là James Crawford. Em nghĩ đó là một cậu bé rất nhút nhát. Cậu ta chỉ nói chuyện với những đứa con trai khác và giữ khoảng cách với đám con gái. Tóc cậu ta sẫm, mắt thì nâu. Cậu ta luôn vận quần soóc, ngay cả khi những đứa con trai khác đã mặc quần dài. Lần đầu tiên em nói chuyện với cậu ta - em mới nhớ lại chuyện này - em gọi cậu ta là Jimmy thay vì James. Không ai khác gọi cậu ta như vậy. Chỉ mình em. Hai đứa em đều tám tuổi. Mặt cậu ta nghiêm túc. Em lấy cớ gì nói chuyện với cậu ta? Em nghĩ cậu ta để quên cái gì trên bàn, tẩy hay bút chì gì đó, bây giờ em không nhớ ra, và em nói: Jimmy, cậu quên tẩy kìa. Em nhớ rõ mình mỉm cười. Em nhớ rõ tại sao em gọi cậu ta là Jimmy mà không phải James hay Jim. Vì yêu mến. Bởi vì việc ấy làm em vui sướng. Bởi vì em thích Jimmy và em nghĩ cậu ta rất đẹp trai.
♣ ♣ ♣Sáng hôm sau mới mở mắt ra Espinoza đã đến chợ hàng thủ công. Những người bán hàng và thợ thủ công mới vừa bắt đầu dựng quầy và con đường lát đá hãy còn sạch sẽ lắm. Tim anh đập nhanh hơn bình thường. Rebeca đang sắp thảm lên một chiếc bàn xếp và cô mỉm cười khi thấy anh. Vài người bán hàng đang đứng quanh uống cà phê hay soda tán gẫu từ quầy nọ với sang quầy kia. Sau các quầy, trên vệ đường, dưới các mái vòm cũ và mái hiên của mấy cửa hàng truyền thống hơn, người ta đi lại láo nháo cãi nhau về những mẻ hàng đồ gốm đổ buôn đảm bảo bán được ở Tucson hay Phoenix. Espinoza chào Rebeca và giúp cô bày những tấm thảm cuối cùng ra. Rồi anh hỏi cô có muốn đi ăn sáng cùng anh không, cô gái nói cô không đi được vả lại cô cũng đã ăn sáng rồi. Không chịu bỏ cuộc, Espinoza hỏi em trai cô đâu.
“Ở trường,” Rebeca nói.
“Vậy ai giúp em mang mọi thứ ra đây?”
“Mẹ em,” Rebeca nói.
Espinoza im lặng một hồi, mắt nhìn xuống đất, không biết nên mua một tấm thảm nữa hay đi về mà không nói lời nào.
“Ăn trưa với anh nhé,” rốt cuộc anh nói.
“Cũng được,” cô gái nói.
♣ ♣ ♣Trở về khách sạn Espinoza thấy Pelletier đang đọc Archimboldi. Nhìn từ xa, gương mặt của Pelletier, và thật ra không chỉ gương mặt anh mà toàn bộ cơ thể, phát xạ vẻ điềm tĩnh đáng ganh tị. Lại gần hơn một chút anh thấy cuốn sách không phải là Thánh Thomas mà là Người đàn bà mù, và anh hỏi Pelletier liệu Pelletier có kiên nhẫn đọc lại cuốn sách kia từ đầu tới cuối không. Pelletier ngẩng lên nhìn anh không trả lời. Thay vào đó anh nói rằng thật ngạc nhiên, hay chưa bao giờ thôi làm anh ngạc nhiên, cái cách Archimboldi khắc họa nỗi đau và sự hổ thẹn.
“Tinh tế,” Espinoza nói.
“Đúng vậy,” Pelletier nói. “Tinh tế.”
♣ ♣ ♣Ở Santa Teresa, trong thành phố kinh khủng đó, thư của Norton viết, em nghĩ về Jimmy, nhưng chủ yếu em nghĩ về em, em ra làm sao hồi tám tuổi, và thoạt tiên những ý tưởng chuồi đi, những hình ảnh chuồi đi, như có một trận động đất trong đầu, em không thể tập trung rõ ràng hay chính xác về bất cứ mẩu ký ức đơn nhất nào, nhưng khi cuối cùng em có thể tập trung được nó còn tệ hơn, em thấy mình gọi tên Jimmy, em thấy nụ cười của em, gương mặt nghiêm túc của Jimmy Crawford, lũ trẻ con, lưng chúng, chúng đột ngột trồi lên trong vũng nước lặng của sân trường, em thấy môi mình mấp máy thông báo với cậu bé cậu ta quên cái gì đó, em thấy cái tẩy, hoặc có thể là cái bút chì, em thấy ánh mắt mình khi ấy, thấy bằng cặp mắt em có hiện giờ, và em nghe tiếng mình lại vang lên, âm sắc giọng của em, điệu bộ cực kỳ lịch thiệp của một đứa con gái tám tuổi gọi với theo một đứa con trai tám tuổi nhắc nó đừng quên tẩy nhưng không thể gọi cậu ta bằng tên, James, hay Crawford, như vẫn gọi ở trường, và hữu thức hay vô thức, chọn cái tên Jimmy thân mật, thể hiện niềm trìu mến, một sự trìu mến bằng lời, một sự trìu mến riêng tư, bởi vì chỉ có cô, trong khoảnh khắc đầy chứa chan ấy, gọi cậu ta như thế, một cái tên chừng như tỏa một luồng sáng mới soi rọi nỗi niềm trìu mến hay quan tâm ngấm ngầm trong cử chỉ báo cho cậu bé rằng cậu ta quên cái gì đó, rằng đừng quên tẩy, hay bút chì, mặc dù rốt cuộc đó đơn giản chỉ là một biểu hiện, bất kể là giàu hay nghèo về mặt từ ngữ, của hạnh phúc.
♣ ♣ ♣Họ ăn ở một quán ăn rẻ tiền gần chợ, trong khi em trai út của Rebeca trông chiếc xe đẩy mỗi sáng dùng để chở thảm và bàn xếp. Espinoza hỏi Rebeca liệu có thể để mặc chiếc xe không cần trông coi cho cậu bé có thể ăn cùng họ, nhưng Rebeca bảo anh đừng lo lắng. Nếu bỏ xe đó không trông, thế nào cũng có người lấy mất. Từ cửa sổ quán ăn Espinoza có thể nhìn thấy cậu bé ngồi trên chóp đống thảm như một con chim, trông về phía chân trời.
“Để anh mang cái gì đó lại cho nó,” anh nói, “em trai em thích cái gì?”
“Kem,” Rebeca nói, “nhưng ở đây người ta không có kem.”
Espinoza thoáng nghĩ tới chuyện đi ra ngoài tìm kem ở chỗ khác, nhưng anh bỏ ý định này vì sợ cô gái sẽ bỏ đi trước khi anh quay về. Cô hỏi anh Tây Ban Nha như thế nào.
“Khác,” Espinoza nói, vẫn nghĩ về kem.
“Khác với Mexico?” cô hỏi.
“Không,” Espinoza nói, “khác theo nghĩa mỗi nơi một khác, tạo nên sự đa dạng.”
Đột nhiên Espinoza nảy ra ý mang cho cậu bé một chiếc bánh mì kẹp.
“Ở Mexico người ta gọi là tortas,” Rebeca nói, “và em em thích thịt nguội.”
Nàng như một công chúa hay nữ đại sứ, Espinoza nghĩ. Anh gọi cô hầu bàn mang đến một bánh mì thịt nguội và một soda. Cô hầu bàn hỏi anh muốn bánh mì được làm thế nào.
“Bảo cô ấy anh muốn bánh mì kẹp đủ thứ,” Rebeca nói.
“Kẹp đủ thứ,” Espinoza nói.
Lát sau anh đi ra ngoài mang theo bánh mì và soda, và đưa nó cho cậu bé, lúc đó vẫn vắt vẻo trên nóc xe đẩy. Thoạt tiên cậu bé lắc đầu nói cậu không đói. Espinoza thấy có ba thằng bé to con hơn một tí ở góc phố đang nhìn họ, cố nín cười.
“Nếu em không đói, thì uống soda và giữ lại cái bánh mì,” anh nói, “hay cho chó ăn cũng được.”
Khi ngồi xuống lại cùng Rebeca, anh cảm thấy vui vui. Thực tế, anh cảm thấy no nê.
“Thế này không ổn,” anh nói, “không hay lắm. Lần tới, ba chúng ta sẽ ăn cùng nhau.”
Rebeca nhìn vào mắt anh, chiếc nĩa của cô dừng lại giữa chừng, một nụ cười nhoẻn hiện ra trên gương mặt cô và cô đưa thức ăn vào miệng.
♣ ♣ ♣Ở khách sạn, nằm duỗi người trên chiếc ghế dài cạnh hồ bơi vắng hoe, Pelletier đang đọc sách, và Espinoza biết, ngay cả trước khi nhìn thấy tên sách, đó không phải là Thánh Thomas hay Người đàn bà mù, mà một cuốn khác của Archimboldi. Ngồi xuống cạnh Pelletier anh mới thấy đó là Lethaea, không phải một trong những cuốn yêu thích nhất của anh, nhưng bằng vào vẻ mặt Pelletier, việc đọc lại cuốn sách là bổ ích và đầy hứng thú. Ngồi xuống trên chiếc ghế dài bên cạnh, anh hỏi Pelletier cả ngày đã làm gì.
“Tớ đọc,” Pelletier đáp, rồi hỏi lại anh cùng câu hỏi đó.
“Không có gì mấy,” Espinoza nói.
Đêm đó, khi ăn cùng nhau ở nhà hàng của khách sạn, Espinoza bảo bạn anh đã mua một ít đồ lưu niệm, có cả vài thứ cho Pelletier. Pelletier vui vẻ khi nghe nói vậy và hỏi Espinoza đã mua quà lưu niệm gì cho anh.
“Một tấm thảm Anh điêng,” Espinoza nói.
♣ ♣ ♣Khi về tới London sau chuyến đi rã rời, Norton viết trong thư, em bắt đầu nghĩ về Jimmy Crawford, hoặc có thể em bắt đầu nghĩ về cậu ta khi đang chờ chuyến bay New York-London, nhưng dầu sao thì Jimmy Crawford và giọng nói tám tuổi của em gọi theo cậu ta đã ở cùng em vào lúc em tìm ra chìa khóa căn hộ mình và bật đèn lên để vali trên sàn giữa nhà. Em vào bếp pha trà. Rồi em tắm và lên giường. Em có cảm giác mình sẽ không ngủ được, nên đã uống một viên thuốc ngủ. Em nhớ mình bắt đầu lật qua một tạp chí, em nhớ mình nghĩ về hai anh, lang thang trong thành phố kinh khủng ấy, em nhớ mình nghĩ về khách sạn ấy. Trong phòng em ở khách sạn có hai tấm gương cũ mèm làm em hãi hùng cả mấy ngày vừa rồi. Khi cảm thấy mình sắp thiếp đi, em hầu như không còn sức thò tay tắt đèn.
Em ngủ không mơ mộng gì. Thức dậy em không biết mình ở đâu, nhưng cảm giác đó chỉ kéo dài một hai giây vì ngay tức khắc em nhận ra tiếng ồn đường sá quen thuộc. Mọi sự đã qua rồi, em nghĩ. Em cảm giác được nghỉ ngơi. Mình đã về nhà, mình có nhiều việc phải làm. Nhưng khi ngồi dậy trên giường, em chỉ khóc như một đứa ngốc, chẳng vì lý do gì rõ rệt. Cả ngày em cứ như thế. Có lúc em ước gì mình chưa rời khỏi Santa Teresa, ước gì em còn ở đó với các anh đến giờ chót. Hơn một lần em cảm thấy thôi thúc lao ra sân bay bắt chuyến bay đầu tiên đi Mexico. Những thôi thúc này theo sau bằng những thôi thúc khác, càng lúc càng nặng tính hủy diệt hơn: muốn đốt nhà, rạch tay, không bao giờ quay lại trường đại học và sống ngoài đường mãi mãi.
Nhưng ít nhất ở Anh, đàn bà sống ngoài đường thường bị xúc phạm khủng khiếp, em mới đọc một bài báo về chuyện đó trong một tạp chí nào đó. Ở Anh phụ nữ sống ngoài đường bị hiếp dâm tập thể, bị đánh đập, và không phải chuyện bất thường nếu thấy họ chết bên ngoài bệnh viện. Những người làm những việc này với họ không phải là, như em có lẽ đã nghĩ hồi mười tám, cảnh sát hay các băng đảng phát xít mới, mà là những kẻ bụi đời khác, điều này khiến chuyện thậm chí tồi tệ hơn. Hoang mang, em đi ra ngoài, hy vọng sẽ vui lên và nghĩ rằng mình có thể gọi điện rủ vài người bạn gặp nhau ăn tối. Làm thế nào em cũng không biết, nhưng đột nhiên em thấy mình đứng trước một phòng tranh đang trưng bày tác phẩm của Edwin Johns, ông họa sĩ tự chặt tay phải mình để phô diễn nó trong một bức chân dung tự họa.
♣ ♣ ♣Lần ghé thăm kế tiếp, Espinoza thuyết phục được cô gái để anh đưa về nhà. Họ để chiếc xe đẩy trong căn phòng phía sau quán ăn nơi họ ăn lần trước, giữa đám chai lọ rỗng và đống thịt và ớt hộp, sau khi Espinoza trả một khoản tiền thuê khiêm tốn cho một bà béo mặc chiếc tạp dề công nhân xí nghiệp cũ kỹ. Rồi họ chất thảm và khăn choàng vào sau xe ô tô rồi ba người họ rúc người vào hàng ghế trước. Cậu bé rất vui và Espinoza bảo nó có thể quyết định họ đi ăn ở đâu hôm đó. Rốt cuộc họ vào một cửa hàng McDonald’s trong trung tâm thành phố.
Nhà cô gái nằm ở một trong các khu dân cư phía Tây, khu vực xảy ra nhiều vụ phạm tội nhất, theo những gì anh đọc trên báo chí, nhưng khu nhà và con đường nơi Rebeca sống dường như chỉ là một khu phố nghèo và một con đường nghèo, không có vẻ gì đáng ngại. Anh để chiếc xe đỗ trước nhà. Có một khu vườn bé tí đằng trước, với ba thùng trồng cây làm từ sợi mây và dây, và đầy những chậu hoa và cây cảnh. Rebeca bảo cậu em ở ngoài trông chừng xe. Căn nhà làm bằng gỗ, khi có ai đó bước trên sàn nhà nó phát ra âm thanh ộp oạp, tưởng như có con mương, hay một căn phòng bí mật phía dưới.
Trái với suy nghĩ của Espinoza, mẹ Rebeca tiếp đón anh thân thiện và mời anh uống soda. Rồi đích thân bà giới thiệu mấy đứa con còn lại. Rebeca có hai anh em trai và ba chị em gái, cô lớn nhất không ở nhà nữa vì đã lấy chồng. Một em gái khác trông giống như Rebeca nhưng trẻ hơn. Tên cô là Cristina và ai cũng bảo cô thông minh nhất nhà. Ngồi trong nhà một lúc khá lâu, Espinoza mới rủ Rebeca ra ngoài đi dạo với anh quanh khu phố. Khi ra khỏi nhà họ thấy cậu bé ở trên nóc xe. Nó đang đọc một cuốn truyện tranh và có gì đó trong mồm, chắc là kẹo. Lúc đi dạo về thằng bé vẫn ở đó, nhưng không còn đọc nữa và kẹo cũng đã hết.
♣ ♣ ♣Khi anh trở về khách sạn, Pelletier đang đọc lại Thánh Thomas. Khi anh ngồi xuống bên cạnh Pelletier ngước lên nhìn, nói có những thứ anh vẫn không hiểu và có thể không bao giờ hiểu. Espinoza bật cười, không nói gì.
“Hôm nay Amalfitano ở đây,” Pelletier nói.
Theo anh, thần kinh của vị giáo sư Chile bị chập. Pelletier đã mời ông xuống hồ bơi. Vì ông không có quần bơi Pelletier lấy một chiếc cho ông ở bàn lễ tân. Mọi thứ dường như diễn ra ổn thỏa. Nhưng khi Amalfitano xuống hồ, ông đông cứng, như thể ông đột ngột nhìn thấy quỷ dữ. Rồi ông chìm lỉm. Trước khi ông chìm xuống, Pelletier nhớ, ông lấy cả hai tay che miệng. Dù sao đi nữa, ông hoàn toàn không cố bơi. May thay, Pelletier ở đó và dễ dàng lặn xuống đưa ông lên mặt nước. Rồi cả hai uống một ly whiskey, và Amalfitano giải thích rằng lâu lắm rồi ông không bơi.
“Bọn tớ nói chuyện về Archimboldi,” Pelletier nói.
Rồi Amalfitano mặc đồ vào, trả lại quần bơi rồi về.
“Còn cậu làm gì?” Espinoza hỏi.
“Tớ tắm, mặc quần áo, xuống ăn, và tiếp tục đọc sách.”
♣ ♣ ♣Trong giây lát, Norton viết trong thư, em thấy mình như một kẻ tứ cố vô thân bất thần bị ánh đèn của nhà hát làm lóa mắt. Em không trong tâm trạng tốt nhất để bước vào một phòng tranh, nhưng cái tên Edwin Johns hút em như nam châm. Em bước tới cánh cửa phòng tranh, bằng kính, và bên trong em nhìn thấy nhiều người và những người phục vụ mặc đồ trắng gần như không thể nhúc nhích nổi, nâng những chiếc khay đầy các ly sâm banh hay vang đỏ. Em quyết định chờ và đi ngược lại băng qua đường. Phòng tranh vắng dần, đến một lúc em nghĩ mình có thể vào và ít nhất xem một phần của triển lãm.
Khi mở cánh cửa kính em cảm thấy cái gì đó là lạ, như thể mọi thứ em nhìn thấy hay cảm thấy từ giây phút đó sẽ quyết định phương hướng đời em sắp tới. Em dừng lại trước một bức dường như vẽ phong cảnh, một bức phong cảnh Surrey thuộc giai đoạn đầu của Johns, trông có vẻ vừa buồn bã vừa dịu ngọt với em, sâu lắng mà không hề khoa trương, một phong cảnh nước Anh mà chỉ người Anh mới vẽ được. Ngay lập tức em quyết rằng xem một bức tranh này thôi là đủ và nhớm bước định ra về thì một người phục vụ, có thể là người phục vụ cuối cùng của công ty dịch vụ ăn uống, đến chỗ em với một ly vang duy nhất trên khay, một ly đặc biệt dành cho em. Anh ta không nói gì. Anh ta chỉ chìa khay và em mỉm cười với anh ta và cầm lấy ly. Rồi em thấy bích chương của triển lãm ở bên kia phòng, một bích chương in bức tranh với bàn tay bị chặt, kiệt tác của Johns, và những con số màu trắng ghi ngày sinh và ngày mất của ông.
Em không biết ông ấy đã mất, Norton viết trong thư, em nghĩ ông vẫn còn sống ở Thụy Sĩ, trong một viện tâm thần tiện nghi, tự cười nhạo mình và trên hết cười chúng ta. Em nhớ là ly rượu vang rơi khỏi tay em. Em nhớ một cặp, cả hai cao và gầy, ngoảnh khỏi một bức tranh và nhìn chòng chọc qua như thể em có thể là tình nhân cũ hay một bức tranh sống (và chưa hoàn thành) vừa mới được tin họa sĩ mất. Em biết em đã bước ra ngoài không quay lại nhìn và tiếp tục đi một lúc lâu cho đến khi nhận ra mình không khóc, mà đó là mưa và em ướt sũng. Đêm đó em không ngủ chút nào.
♣ ♣ ♣Vào các buổi sáng Espinoza thường đón Rebeca ở nhà cô. Anh đậu xe ngay trước nhà, uống một cốc cà phê, và rồi, không nói năng gì, chất thảm lên băng ghế sau và loay hoay chải mép thảm. Nếu thạo máy móc ắt anh đã giở nắp xe lên ngó máy xe, nhưng anh không thạo, và dù sao đi nữa thì chiếc xe đang chạy hoàn hảo. Rồi cô gái và cậu em trai sẽ ra khỏi nhà và Espinoza sẽ mở cửa bên kia cho họ, không cần một lời, như thể họ đã quen thói này bao năm rồi, và rồi anh sẽ ngồi vào ghế tài, cất giẻ lau bụi vào ngăn để găng tay, rồi hướng ra chợ. Khi tới nơi anh giúp dựng quầy và khi xong rồi anh sẽ tới quán ăn gần đó mua hai ly cà phê và một Coca-Cola mang đi, họ đứng uống, nhìn những quầy hàng khác hay dãy tòa nhà phong cách thực dân bè bè nhưng kiêu hãnh quanh họ. Đôi khi Espinoza mắng cậu em trai, bảo nó rằng uống Coca-Cola buổi sáng là một thói quen xấu, nhưng cậu bé, tên là Eulogio, cười phá lên và mặc kệ anh bởi nó biết cơn giận của Espinoza hết chín mươi phần trăm là giả vờ. Thời gian còn lại của buổi sáng Espinoza ngồi ở một quán cà phê ngoài trời trong khu, khu dân cư duy nhất ở Santa Teresa mà anh thích, nếu không kể khu của Rebeca, đọc báo địa phương, uống cà phê và hút thuốc. Khi vào nhà vệ sinh và nhìn mình trong gương, anh nghĩ vẻ ngoài của mình đang thay đổi. Mình trông như một quý ông, đôi khi anh tự nhủ. Mình trông trẻ hơn. Mình trông như ai đó khác.
♣ ♣ ♣Ở khách sạn, khi anh về, Pelletier lúc nào cũng ở hàng hiên hoặc hồ bơi hay nằm dài trên ghế bành ở một trong các phòng khách, đọc lại Thánh Thomas, Người đàn bà mù hay Lethaea, dường như là ba cuốn duy nhất của Archimboldi mà anh mang theo tới Mexico. Espinoza hỏi anh có đang chuẩn bị bài báo hay tiểu luận nào về ba cuốn sách cụ thể đó không nhưng câu trả lời của Pelletier thì mơ hồ. Đầu tiên thì có. Bây giờ thì không. Anh đọc mấy cuốn đó bởi vì đó là những cuốn anh có. Espinoza nghĩ tới việc cho bạn mượn một trong những cuốn của mình, và ngay lập tức hoảng hốt nhận ra anh đã quên bẵng các cuốn sách của Archimboldi cất trong vali của mình.
♣ ♣ ♣Đêm đó em không chợp mắt tí nào, Norton viết trong thư, em nảy ra ý gọi cho Morini. Lúc đó rất khuya, thật thô lỗ khi quấy rầy anh ấy vào giờ đó, em thật liều, một sự quá đáng kinh khủng, nhưng em đã gọi cho anh ấy. Em nhớ mình quay số và ngay lập tức tắt đèn trong phòng, như thể chừng nào còn trong bóng tối thì Morini không thể nhìn thấy mặt em. Em ngạc nhiên khi anh ấy bắt máy ngay tức khắc.
“Piero, là em, Liz đây,” em nói. “Anh có biết Edwin Johns đã mất?”
“Có,” giọng Morini từ Turin nói. “Ông ấy mất cách đây vài tháng.”
“Nhưng em chỉ mới biết, tối nay,” em nói.
“Tôi tưởng em đã biết,” Morini nói.
“Ông ấy chết như thế nào?” em hỏi.
“Đó là một tai nạn,” Morini nói, “ông ấy ra ngoài đi dạo, ông ấy muốn phác thảo một thác nước nhỏ gần viện an dưỡng, ông trèo lên một tảng đá và trượt chân. Người ta tìm thấy xác ông dưới đáy khe, sâu một trăm năm mươi bộ.”
“Không thể nào,” em nói.
“Có thể đấy,” Morini nói.
“Ông ấy đi dạo một mình? Không ai trông chừng ông ấy?”
“Ông ấy không đi một mình,” Morini nói, “một y tá đi cùng, cùng một trong những chàng trai trẻ khỏe mạnh của viện, những người có thể tóm một gã khùng lảm nhảm trong tích tắc.”
Em cười - lần đầu tiên - khi nghe cụm từ gã khùng lảm nhảm, và Morini, ở đầu dây bên kia cũng cười với em, mặc dù chỉ trong một khắc.
“Từ dùng để chỉ mấy người đó là hộ lý,” em nói.
“Ừ thì, có một y tá và một hộ lý đi cùng ông ấy,” anh nói. “Johns trèo lên trên một tảng đá và anh hộ lý cũng trèo lên theo. Cô y tá ngồi bên một gốc cây, vì Johns yêu cầu cô ngồi đó, và giả vờ đọc một cuốn sách. Rồi Johns bắt đầu vẽ bằng tay trái, mà ông đã dùng khá thạo. Ông vẽ thác, núi, những tảng đá trồi lên, khu rừng, và cô y tá đọc sách, khá xa chỗ ông. Rồi tai nạn xảy ra. Johns đứng trên tảng đá rồi trượt chân, và mặc dù anh hộ lý cố tóm lấy ông, ông vẫn rơi xuống vực.”
Mọi chuyện là như vậy.
Bọn em im lặng một lúc, Norton viết trong thư, đến lúc Morini phá tan sự im lặng và hỏi mọi chuyện ở Mexico thế nào.
“Tệ,” em nói.
Anh ấy không hỏi thêm câu nào. Em lắng nghe hơi thở đều đặn của anh ấy, và anh ấy lắng nghe hơi thở của em, đang dần bình tĩnh đều đặn hơn.
“Mai em sẽ gọi anh,” em bảo anh ấy.
“Cũng được,” anh ấy nói, nhưng cả mấy giây không ai có thể gác máy.
Đêm đó em nghĩ về Edwin Johns, em nghĩ về bàn tay ông ấy, không nghi ngờ gì là đang bày ở triển lãm, bàn tay mà hộ lý của viện điều dưỡng không thể tóm lấy để ngăn ông không ngã, mặc dù cái ý nghĩ này quá cụ thể, một tái hiện sai lạc, không liên quan gì đến những gì thực sự là Johns. Thực hơn rất nhiều là phong cảnh Thụy Sĩ, phong cảnh mà hai anh đã thấy và em chưa bao giờ nhìn thấy, với núi với rừng, những phiến đá và thác nước óng ánh ngũ sắc, những khe núi chết người và những y tá đọc sách.
♣ ♣ ♣Một đêm nọ Espinoza đưa Rebeca đi khiêu vũ. Họ tới một hộp đêm ở trung tâm Santa Teresa nơi cô gái chưa bao giờ đến nhưng các bạn của cô nồng nhiệt giới thiệu. Trong lúc uống Cuba Libre, Rebeca kể với anh rằng hai trong số các cô gái sau này người ta tìm thấy xác đã bị bắt cóc trên đường ra khỏi hộp đêm này. Xác họ bị quăng trong sa mạc.
Espinoza nghĩ thật là điềm xấu khi cô kể cho anh kẻ sát nhân có thói quen thường lui tới hộp đêm. Khi đưa cô về nhà anh hôn cô. Rebeca toát mùi như mùi cồn và làn da cô rất lạnh. Anh hỏi cô có muốn yêu nhau không, cô gật đầu nhiều lần, không nói năng gì. Rồi họ chuyển từ ghế trước ra ghế sau và làm chuyện đó. Đó là một cú làm tình chóng vánh. Nhưng rồi cô ngả đầu vào ngực anh, không nói một lời, và anh vuốt tóc cô thật l