PHẦN BỐN (D) PHẦN VỀ CÁC TỘI ÁC
Tháng Sáu, Klaus Haas gọi vài cuộc điện thoại và triệu tập một cuộc họp báo ở nhà tù Santa Teresa, có sáu nhà báo tham dự. Luật sư của gã đã khuyên không nên họp báo, nhưng lúc này hình như Haas đã mất đi sự bình thản từ trước đến giờ nên không muốn nghe bất cứ lý lẽ nào đi ngược lại dự định của gã. Theo lời luật sư, gã cũng chẳng thèm nhờ bà tư vấn về chủ đề họp báo. Gã chỉ nói bây giờ gã đang có một thông tin lúc trước gã chưa nắm được và bây giờ gã muốn cho công chúng biết. Các nhà báo đến dự chẳng trông mong có gì mới mẻ, nói gì đến một thứ nào đó khả dĩ soi sáng được cái vực thẳm đen ngòm hình thành từ sự xuất hiện đều đặn của những cái xác phụ nữ - trong thành phố hoặc ngay ven thành phố hoặc trong sa mạc vây quanh Santa Teresa như một nắm đấm sắt, nhưng họ vẫn đến bởi vì xét cho cùng, Haas và những người phụ nữ chết kia vẫn là tin bài của họ. Các báo lớn của thủ đô chẳng cử phóng viên nào tới.
♣ ♣ ♣Tháng Sáu, ít hôm sau khi Haas hứa qua điện thoại với các nhà báo rằng sẽ có một tuyên bố, một tiết lộ theo gã nói là sẽ gây chấn động, xác của Aurora Ibánez Medel, vốn được chồng cô báo mất tích từ mấy tuần trước, xuất hiện ở ven xa lộ Casas Negras. Aurora Ibánez ba mươi tư tuổi, làm việc ở nhà máy Interzone-Berny, có bốn con từ ba đến mười bốn tuổi, lấy chồng từ năm mười bảy, chồng là Jaime Pacheco Pacheco, thợ cơ khí, vào thời điểm vợ mất tích thì anh này đang thất nghiệp, nạn nhân của một đợt Interzone-Berny cắt giảm nhân sự. Theo báo cáo pháp y, nguyên nhân tử vong là bị ngạt, và trên cổ nạn nhân, mặc dù đã qua một thời gian lâu, vẫn còn rõ ràng các vết tổn thương. Xương móng không bị gãy. Có lẽ Aurora đã bị hãm hiếp. Vụ án được giao cho thanh tra Efraín Bustelo, với sự tư vấn của thanh tra Ortiz Rebolledo. Sau nhiều cuộc thẩm vấn người thân của nạn nhân, họ bắt giam Jaime Pacheco, anh này, sau khi bị tra hỏi, thừa nhận mình là hung thủ. Động cơ gây án, Ortiz Rebolledo cho báo giới biết, là ghen tuông. Không phải ghen với người đàn ông nào mà là ghen với mọi đàn ông cô có thể sẽ gặp hoặc là do hoàn cảnh mới của anh ta, và anh ta không chịu nổi. Anh Pacheco tội nghiệp nghĩ vợ sắp bỏ anh ta. Khi được hỏi anh ta đã dùng phương tiện nào để mang cô vợ đi quá cột cây số ba mươi trên xa lộ Casas Negras trong khi cô này còn sống và chẳng nghi ngờ gì cả, hoặc để vứt xác cô ở đó trong trường hợp anh ta đã giết cô ở chỗ khác, về điểm này Pacheco quyết không chịu nói dù bị thẩm vấn rát đến đâu, bảo là có một người bạn cho anh ta mượn xe, một chiếc Coyote đời 1987 màu vàng hai bên có hai dãy đèn đỏ, nhưng cảnh sát không tìm ra được người bạn này hoặc không tìm anh ta tới nơi tới chốn như vụ này đòi hỏi.
♣ ♣ ♣Ngồi cạnh Haas, cứng đờ, nhìn thẳng về phía trước, như thể hình ảnh một vụ hãm hiếp vẫn còn đang diễu qua đầu bà, là luật sư của gã, và quanh gã là phóng viên của ba tờ báo địa phương, El Heraldo del Norte, La Voz de Sonora và La Tribuna de Santa Teresa, cũng như nhà báo của các tờ El Independiente de Phoenix, El Sonorense de Hermosillo và cuối cùng là La Raza de Green Valley, một tuần báo nhỏ (đôi khi được xuất bản hai tuần hay một tháng một số), vẫn tồn tại được dù gần như không có quảng cáo là nhờ được đặt mua dài hạn bởi một số dân gốc Mễ ở Hoa Kỳ thuộc lớp hạ trung lưu sống ở khu vực giữa Green Valley và Sierra Vista, những công nhân nông trại già sống ở Río Rico, Carmen, Tubac, Sonoita, Amado, Sahuarita, Patagonia, San Xavier, một tờ báo chẳng đăng gì khác ngoài các vụ tội phạm, càng ghê rợn càng tốt. La Voz de Sonora chỉ cử tới phóng viên ảnh Chuy Pimentel, đứng ngay sau vòng tròn các nhà báo. Thi thoảng cửa lại mở và một cai ngục bước vào liếc Haas hay luật sư của gã tuồng như muốn hỏi họ có cần gì không. Có một lần bà luật sư xin cai ngục nước uống. Cai ngục gật đầu bảo có ngay rồi đi mất. Một lát sau anh ta vào mang theo hai chai nước và mấy lon soda lạnh. Đám nhà báo cảm ơn anh ta và gần như tất cả đều lấy soda, trừ Haas và bà luật sư chỉ uống nước. Trong khoảng vài phút chẳng ai nói năng gì, chẳng có một lời, ai cũng uống.
♣ ♣ ♣Tháng Bảy, người ta phát hiện xác một phụ nữ trong một cống thoát nước phía Đông quận Maytorena, không xa một dải đất và vài cột điện cao thế. Người phụ nữ khoảng từ hai mươi đến hai lăm, và theo nhóm giám định pháp y thì cô chết đã ít nhất ba tháng. Hai tay cô bị trói quặt sau lưng bằng dây nhựa, loại dây người ta dùng để buộc những gói hàng to. Tay trái cô đeo găng tay đen dài che đến nửa cánh tay. Không phải loại găng tay rẻ tiền mà là găng bằng nhung, giống như loại các cô vũ nữ vedette hay dùng, mà chỉ là loại vedette cao cấp có tiếng tăm. Khi tháo găng ra người ta thấy có hai chiếc nhẫn, một ở ngón giữa, bằng bạc thật, một ở ngón đeo nhẫn, bằng bạc có hình con rắn. Chân phải cô mang một cái tất đàn ông, hiệu Tracy. Và đáng ngạc nhiên hơn hết: quấn quanh đầu cô, như một cái mũ kỳ quặc nhưng không hoàn toàn phi lý, là một cái áo ngực màu đen đắt tiền. Ngoài ra người phụ nữ không mặc gì và không có giấy tờ nào giúp xác định danh tính. Vụ này, sau khi các thủ tục cần thiết đã tiến hành xong bị xếp vào kho lưu trữ và xác cô bị vứt vào mộ công cộng trong nghĩa trang Santa Teresa.
♣ ♣ ♣Cuối tháng Bảy, nhà chức trách Santa Teresa, phối hợp với giới chức bang Sonora, mời nhà điều tra Albert Kessler đến thành phố. Khi tin này được công bố, một số nhà báo, nhất là ở thủ đô, liền hỏi thị trưởng Santa Teresa là José Refugio de las Heras rằng liệu có phải việc thuê tay cựu đặc vụ FBI này là một sự ngầm thừa nhận cảnh sát Mexico đã bó tay hay không. De las Heras đáp là không, hoàn toàn không, ông Kessler đến Santa Teresa là để tiến hành một khóa tập huấn chuyên môn mười lăm tiếng đồng hồ cho một nhóm học viên chọn ra từ các cảnh sát viên ưu tú nhất bang Sonora, và Santa Teresa được chọn làm nơi tổ chức khóa học này - ưu tiên hơn so với Hermosillo chẳng hạn - là do vị thế một trung tâm công nghiệp của nó cũng như do cái kỷ lục đáng buồn về các vụ giết người hàng loạt, một số phận xưa nay chưa từng nghe nói tới hoặc gần như chưa từng nghe nói tới ở Mexico, cái số phận mà họ, những người có trọng trách cao nhất nước, muốn chặn đứng lại ngay lập tức, và để loại trừ một số phận đáng buồn thì còn cách nào tốt hơn là thành lập một đội cảnh sát có chuyên môn cao về vấn đề này?
♣ ♣ ♣Tôi sẽ cho các vị biết ai đã giết Estrella Ruiz Sandoval, người mà tôi bị kết tội bất công là đã giết, Haas nói. Cũng những kẻ đó đã giết ít nhất ba mươi phụ nữ trẻ khác ở thành phố này. Luật sư của Haas cúi đầu. Chuy Pimentel chụp bức ảnh đầu tiên. Trong ảnh có thể thấy mặt các nhà báo, đang nhìn Haas hoặc xem sổ tay với một vẻ không chút hào hứng, không chút nhiệt tình hăng hái.
♣ ♣ ♣Tháng Chín, người ta phát hiện xác Ana Munoz Sanjuán phía sau mấy thùng rác trên phố Javier Paredes, giữa quận Pélix Gómez và quận Centro. Xác trần truồng và có dấu hiệu bị bóp cổ và hãm hiếp, về sau giám định pháp y xác nhận đúng là vậy. Sau khi điều tra sơ bộ người ta xác định được danh tính cô. Nạn nhân tên là Ana Muñoz Sanjuán, mười tám tuổi, sống trên phố Maestro Caicedo ở quận Rubén Darío, ngụ cùng nhà với ba phụ nữ khác và làm hầu bàn ở El Gran Chaparral, một quán cà phê ở khu phố cổ của Santa Teresa. Việc cô mất tích không được trình báo với cảnh sát. Những người cuối cùng gặp cô là ba nam giới được gọi là El Mono, El Tamaulipas và La Vieja. Cảnh sát cố tìm, nhưng cứ như đất đã nuốt chửng họ rồi vậy. Vụ án bị xếp xó.
♣ ♣ ♣Ai mời Albert Kessler? các nhà báo hỏi. Ai sẽ trả tiền thuê ông Kessler? Và bao nhiêu? Thành phố Santa Teresa, bang Sonora? Lấy tiền ở đâu để trả thù lao cho ông Kessler? Từ Đại học Santa Teresa, từ quỹ đen của cảnh sát bang? Có tiền tư nhân trong vụ này không? Có nhà tài trợ nào đứng sau chuyến thăm của nhà điều tra lừng danh người Mỹ không? Và tại sao lúc này, tận lúc này mới đưa một chuyên gia về tội giết người hàng loạt tới chứ trước đây thì không? Rồi nữa, ở Mexico chẳng có nhà tội phạm học nào đủ khả năng cộng tác với cảnh sát hay sao? Giáo sư Silverio García Correa chẳng hạn, ông ấy mà không đủ giỏi hay sao? Chẳng phải ông ấy là nhà tâm lý giỏi nhất trong cái lứa đó ở UNAM hay sao? Chẳng phải ông ấy đã nhận bằng cử nhân tội phạm học ở Đại học New York và một bằng khác ở Đại học Staníord sao? Chẳng phải thuê giáo sư García Correa sẽ rẻ hơn sao? Chẳng phải sẽ là yêu nước hơn sao nếu ta giao phó một vụ việc tại Mexico cho một người Mexico chứ không phải cho một người Mỹ? Mà, nhân thể hỏi luôn, nhà điều tra Albert Kessler có nói được tiếng Tây Ban Nha không? Nếu không thì ai sẽ phiên dịch cho ông ta? Ông ta sẽ mang theo phiên dịch riêng hay ở đây sẽ cử phiên dịch cho ông ta?
♣ ♣ ♣Haas nói: Tôi vẫn điều tra. Gã nói: tôi có tai mắt. Gã nói: trong tù chả có gì là bí mật hết. Gã nói: bạn của bạn ta là bạn ta, họ kể chuyện này chuyện nọ cho ta nghe. Gã nói: bạn của bạn của bạn ta có cả một mạng lưới hoạt động rộng lớn và họ giúp ta nhiều. Không ai cười. Chuy Pimentel tiếp tục chụp ảnh. Ảnh cho thấy bà luật sư cứ như sắp chảy nước mắt tới nơi. Vì phẫn nộ. Các nhà báo mang ánh mắt của loài bò sát: họ quan sát Haas, Haas thì nhìn chăm chăm mấy bức tường xám làm như lời gã nói được viết trên nền xi măng tróc lở. Nói tên đi, một nhà báo thì thầm, nhưng đủ to cho mọi người nghe thấy. Haas thôi không nhìn tường nữa mà ngắm kỹ người vừa nói. Thay vì trả lời thẳng, gã giải thích thêm lần nữa rằng gã vô tội trong vụ giết Estrella Ruiz Sandoval. Tôi không biết cô ấy, gã nói. Đoạn gã lấy hai tay ôm mặt. Cô ấy dễ thương, gã nói. Giá như tôi đã quen cô ấy. Gã thấy khó ở. Gã hình dung một con phố đầy người, lúc hoàng hôn, cứ vắng dần vắng dần cho đến khi chẳng còn ai, chỉ một chiếc xe hơi đỗ góc đường. Sau đó đêm xuống và Haas cảm thấy các ngón tay của bà luật sư đặt trên bàn tay mình. Những ngón tay quá dày, quá ngắn. Nói tên đi, một nhà báo khác nói, không có tên thì chúng ta chả đi đến đâu.
♣ ♣ ♣Tháng Chín, trên một khoảnh đất trống ở quận Sur, quấn trong một tấm chăn và mấy túi nhựa màu đen, xác của María Estela Ramos được phát hiện. Hai chân cô bị trói bằng dây và cô có những dấu vết cho thấy đã bị tra tấn. Thanh tra Juan de Dios Martínez đảm trách vụ này, anh kết luận rằng xác đã bị vứt ở đây vào khoảng từ nửa đêm đến một giờ ba mươi sáng hôm thứ Bảy, bởi suốt thời gian còn lại thì cánh đồng vắng này là nơi tụ tập của dân buôn lậu ma túy và những tốp thiếu niên choai choai tới nghe nhạc. Sau khi so sánh một số lời khai, người ta xác định được, không vì lý do này thì lý do khác, chẳng ai có mặt ở đấy trong khoảng từ mười hai giờ đêm đến một rưỡi sáng. María Estela Ramos sống ở quận Veracruz và đây không phải chỗ cô hay lui tới. Cô hai mươi ba tuổi, có một đứa con trai bốn tuổi, sống chung nhà với hai cô bạn cùng nhà máy, một trong hai người này đang thất nghiệp tại thời điểm xảy ra sự việc bởi vì, theo cô kể với Juan de Dios, cô định thành lập công đoàn. Anh nghĩ sao về chuyện ấy? cô hỏi. Họ tống cổ tôi vì tôi đòi quyền lợi cho mình. Viên thanh tra nhún vai. Anh hỏi cô kia giờ ai sẽ nhận nuôi con của María Estela. Tôi, nhà tổ chức công đoàn bất đắc chí liền nói. Thằng bé không có gia đình sao, không có ông bà gì à? Chắc là không, người phụ nữ nói, nhưng tụi tôi sẽ cố tìm. Theo giám định pháp y, nguyên nhân tử vong là tụ máu ở đầu, mặc dù nạn nhân còn bị gãy năm xương sườn và có những vết rạch nông ở hai tay. Cô bị hãm hiếp. Và cô bị giết ít nhất bốn ngày trước khi đám buôn lậu ma túy tìm thấy cô giữa đống rác và cỏ dại trên khoảnh đất trống ở quận Sur. Theo các bạn cô, María Estela có hoặc từng có một bạn trai được gọi là El Chino. Chẳng ai biết tên thật anh ta, nhưng biết chỗ anh ta làm. Juan de Dios đi tìm anh ta tại một cửa hàng đồ sắt ở quận Seratín Garabito. Anh hỏi El Chino thì người ta nói họ chẳng biết ai có tên ấy cả. Anh mô tả El Chino theo như các bạn của María Estela đã tả cho anh, nhưng câu trả lời vẫn vậy: chưa bao giờ có ai tên ấy hoặc khớp với mô tả ấy từng làm việc ở đây, trước quầy cũng vậy mà dưới kho cũng vậy. Anh liền cho chỉ điểm đi tìm và suốt mấy ngày anh chẳng làm gì khác ngoài đi tìm tay kia. Nhưng chẳng khác nào tìm một bóng ma.
♣ ♣ ♣Ông Albert Kessler là một chuyên gia uy tín, giáo sư García Correa nói. Ông Kessler, theo chỗ tôi nghe kể, là một trong những người đầu tiên lập ra chân dung tâm lý của những kẻ giết người hàng loạt. Tôi được biết ông ấy từng làm cho FBI và trước đó làm cho quân cảnh hoặc tình báo quân đội Hoa Kỳ, chữ này thì đúng là một thứ nghịch ngôn, bởi vì từ tình báo, intelligencia, vốn cũng có nghĩa là trí tuệ, mà từ trí tuệ thì hiếm khi nào lại có thể đặt bên từ quân đội, giáo sư García Correa nói. Không, tôi không cảm thấy bị xúc phạm hay bị hất cẳng vì người ta không giao phó cho tôi việc đó. Chính quyền bang Sonora biết tôi rõ lắm, họ cũng biết tôi là người chỉ có vị thánh duy nhất là Chân lý, giáo sư García Correa nói. Ở Mexico muốn cho người ta lóa mắt thì có cần phải làm gì nhiều đâu. Tôi đến nổi da gà mỗi khi nghe hay đọc một số tính từ nhất định trên báo chí, những lời khen tụng có vẻ như được phun ra bởi một bầy khỉ khùng, nhưng biết làm sao được, Mexico là thế đấy, lâu ngày rồi cũng quen thôi, giáo sư García Correa nói. Làm chuyên gia về tội phạm ở cái xứ này thì cũng như làm người viết mật mã ở Bắc Cực vậy. Như làm trẻ con trong một khu xà lim toàn bọn ấu dâm. Như làm ăn mày ở xứ người điếc. Như làm một cái bao cao su giữa rừng già Amazon, giáo sư García Correa nói. Nếu bị ngược đãi, rồi anh sẽ quen. Nếu bị rẻ rúng, rồi anh sẽ quen. Nếu tiền tiết kiệm của anh biến mất, chỗ tiền anh dành dụm suốt đời cho lúc về hưu, rồi anh sẽ quen. Nếu con trai anh lừa anh, rồi anh sẽ quen. Nếu anh cứ phải làm việc trong khi theo luật anh được phép làm gì tùy ý, rồi anh sẽ quen. Nếu như vậy chưa đủ mà người ta lại còn giảm lương của anh, rồi anh sẽ quen. Nếu để kiếm thêm cho đủ sống mà anh phải làm việc cho những luật sư bất lương và những thanh tra cảnh sát biến chất, rồi anh sẽ quen. Nhưng tốt hơn, đừng viết thế lên báo các cậu nhé, không thì chỗ của tôi sẽ lung lay đó, giáo sư García Correa nói. Ông Albert Kessler, như tôi đã nói với các cậu, là một nhà điều tra cao cấp uy tín. Theo tôi hiểu thì ông ấy làm việc bằng máy vi tính. Công việc thú vị đấy. Ông ấy còn làm tư vấn hay cố vấn cho một số phim hành động nữa. Tôi chưa xem phim nào, vì đã lâu rồi tôi không đi xem phim và cái thứ rác rưởi của Hollywood chỉ làm tôi buồn ngủ. Nhưng theo thằng cháu tôi thì mấy phim ấy xem rất thú và trong đấy người tốt luôn thắng, giáo sư García Correa nói.
♣ ♣ ♣Tên, nhà báo nói. Antonio Uribe, Haas nói. Các nhà báo thoáng nhìn nhau, để xem liệu có ai nhận ra cái tên này chăng, nhưng tất cả đều nhún vai. Antonio Uribe, Haas nói, là tên kẻ giết phụ nữ ở Santa Teresa. Lặng một chút, gã tiếp: và khu vực xung quanh. Và khu vực xung quanh? một nhà báo hỏi. Kẻ giết phụ nữ ở Santa Teresa, và cả những phụ nữ khác mà xác xuất hiện ngay ở ven thành phố. Thế anh có biết gã Uribe này không? một nhà báo hỏi. Tôi có gặp một lần, một lần duy nhất, Haas nói. Đoạn gã hít một hơi, tuồng như sắp kể một câu chuyện dài và Chuy Pimentel chọn đúng lúc đó để chụp ảnh gã. Trong ảnh, do ánh sáng và góc chụp, Haas lại nom gầy hơn nhiều, cổ dài như cổ gà tây, tuy nhiên không phải con gà tây bất kỳ nào mà là một con gà tây đang hát hoặc sắp sửa bật tiếng hát, không chỉ cất tiếng hát mà là bật lên hát, một bài hát nhói buốt, một bài hát chói tai, một bài hát bằng thủy tinh vỡ nhưng là một thứ thủy tinh hết sức giống pha lê, tức là giống sự thuần khiết, giống sự quên mình, giống sự hoàn toàn thiếu vắng những dối lừa.
♣ ♣ ♣Ngày 7 tháng Mười, ở cách đường xe lửa ba mươi mét, trong những bụi rậm ven một sân chơi bóng chày, người ta phát hiện xác một cô bé từ mười bốn đến mười sáu tuổi. Xác mang dấu vết tra tấn rõ ràng. Hai tay, ngực và hai chân cô đầy vết bầm tím và vết dao đâm (một cảnh sát bắt đầu đếm nhưng đến ba mươi lăm thì anh ta phát chán), tuy nhiên không vết nào trong đó gây tổn thương hay xuyên thấu đến cơ quan nội tạng. Nạn nhân không mang giấy tờ tùy thân. Theo giám định pháp y, nguyên nhân tử vong là bị siết cổ. Có nhiều vết cắn trên núm vú trái và nó bị rứt gần như đứt ra, chỉ còn dính lại bởi vài ba dải mô. Thêm một thông tin khác do chuyên viên pháp y cung cấp: một chân nạn nhân ngắn hơn chân kia, điều này thoạt tiên có vẻ như sẽ giúp xác định danh tính dễ dàng hơn, tuy nhiên trong số những phụ nữ mất tích được trình báo cho các đồn cảnh sát Santa Teresa không người nào mang nét đặc thù như vậy. Ngay hôm xác được phát hiện bởi một nhóm thiếu niên đang chơi bóng chày, Epifanio và Lalo Cura đến hiện trường. Nơi ấy đầy cảnh sát. Có thanh tra, cảnh sát thành phố, người bên khoa học hình sự, Chữ thập đỏ và nhà báo. Epifanio và Lalo Cura đi một vòng quanh chỗ đó cho đến khi tới đúng địa điểm xác đang nằm. Cô bé không thấp. Cao ít nhất một mét sáu tám. Cô gần như trần truồng chỉ mặc mỗi áo cánh trắng dính máu và lấm đất cùng cái áo ngực trắng. Khi họ rời khỏi đó, Epifanio hỏi Lalo Cura cậu nghĩ gì. Về người chết ấy hả? Lalo nói. Không, hiện trường tội ác ấy, Epifanio vừa nói vừa châm điếu thuốc. Chả có hiện trường tội ác nào hết, Lalo nói. Chúng cố tình dọn sạch rồi. Epifanio khởi động xe. Không phải cố tình, anh nói, mà như những thằng chết nhát, nhưng mà cũng vậy thôi. Dọn sạch hết rồi.
♣ ♣ ♣Năm 1997 là một năm lành cho Albert Kessler. Ông đi thuyết trình ở Virginia, Alabama, Kentucky, Montana, California, Orego, Indiana, Maine, Florida. Ông đến nhiều trường đại học nói chuyện với các cựu sinh viên nay là giáo sư và đã có con có cái, bọn trẻ con nhiều đứa thậm chí đã lập gia đình, và điều đó chẳng bao giờ khiến ông thôi ngạc nhiên. Ông đã đến Paris (Pháp), London (Anh), Roma (Ý), nơi nhiều người biết tên tuổi ông và những ai đến nghe ông thuyết trình đều mang theo cuốn sách của ông, được dịch sang tiếng Pháp, Ý, Đức, Tây Ban Nha, để ông có thể ký tên và ngoáy một câu trìu mến hoặc thông minh vào đấy, việc này thì ông rất sẵn lòng làm. Ông đã đến Moskva (Nga), đến St. Petersburg (Nga) và Warszawa (Ba Lan) và người ta còn mời ông đến nhiều nơi khác nữa, khiến người ta đoán chừng năm 1998 rồi cũng sẽ bận rộn y như thế. Thật ra thế giới nhỏ lắm, đôi khi Albert Kessler nghĩ, nhất là khi ông ngồi trên máy bay, trong khoang hạng nhất hay khoang thương gia, và trong khoảng mấy giây ông quên bẵng bài thuyết trình sắp đọc ở Tallahassee hoặc Amarillo hoặc New Bedtord mà đắm mình ngắm những hình dáng thoắt này thoắt nọ của những đám mây. Hầu như ông chẳng bao giờ mơ thấy những kẻ giết người. Ông biết nhiều kẻ giết người và cũng đã lùng ra nhiều kẻ, nhưng hiếm khi ông mơ thấy kẻ nào trong số ấy. Thực ra thì ông ít khi nằm mơ hoặc ông có cái may là thường quên các giấc mơ ngay khi thức dậy. Vợ ông, người ông đã chung sống trên ba mươi năm, thì thường nhớ các giấc mơ của mình và thỉnh thoảng, khi Albert Kessler có nhà, bà hay kể cho ông nghe trong lúc hai người ăn sáng. Lúc ấy họ thường bật radio, một chương trình nhạc cổ điển, và uống cà phê, nước cam, ăn bánh mì đông lạnh - bánh này vợ ông cho vào lò vi sóng và khi lấy ra khỏi lò thì rất ngon, ngon hơn bất cứ bánh mì nào ông từng ăn ở bất cứ đâu khác. Trong khi ông phết mứt lên bánh, vợ ông kể về giấc mơ của bà đêm qua, hầu như luôn là về những người thân của bà, hầu như luôn là những người đã chết, hay về những người bạn của cả hai vợ chồng mà đã lâu họ không gặp. Sau đó vợ ông giam mình trong buồng tắm và Albert Kessler ra sân trước ngắm đường chân trời toàn những mái nhà đỏ, xám, vàng, những vỉa hè sạch sẽ chỉn chu, những chiếc ô tô đời mới nhất mà mấy đứa con nhỏ của hàng xóm đỗ trên lối vào rải sỏi chứ không đưa vào ga ra. Ở khu này ai cũng biết ông và kính trọng ông. Nếu ông đang ở ngoài vườn mà có người đi ngang thì thể nào người đó cũng giơ một tay lên nói, Chào ông Kessler, rồi mới lên xe nổ máy. Tất cả đều trẻ hơn ông. Không phải quá trẻ, là bác sĩ hay nhà quản trị tầm trung, những nhà chuyên môn làm việc cần mẫn để kiếm sống và cố gắng không làm hại ai, mặc dù về điểm cuối cùng này thì không ai có thể biết chắc trăm phần trăm. Hầu như tất cả đều đã lập gia đình và có một hai đứa con. Đôi khi họ tổ chức tiệc nướng ở ngoài sân, gần bể bơi, và có một lần, do vợ cứ nài, ông đến dự một buổi như thế và uống nửa vại bia Bud với một ly whiskey. Chẳng có cảnh sát nào cư ngụ ở khu phố này và người duy nhất có vẻ tỉnh táo là một giáo sư đại học hói đầu lộc ngộc gầy nhom mà rốt cuộc hóa ra là một thằng ngu chỉ có khả năng nói về thể thao. Một cảnh sát hay một cựu cảnh sát chỉ thấy thoải mái nhất khi ở bên một phụ nữ hoặc bên một cảnh sát khác, một cảnh sát khác cùng cấp bậc với mình, ông nghĩ. Ở trường hợp mình thì chỉ vế sau là đúng. Đã lâu rồi ông chẳng để tâm đến phụ nữ, trừ phi họ là cảnh sát và chuyên điều tra án giết người. Có lần, một đồng nghiệp người Nhật khuyên ông dành thời gian rảnh để làm vườn. Ông này là cảnh sát về hưu như ông và từng có thời gian là quân át chủ bài của đội chống tội phạm ở Osaka, người ta bảo ông vậy. Kessler nghe theo lời khuyên, về nhà liền bảo vợ cho tay thợ làm vườn nghỉ, từ nay trở đi đích thân ông sẽ chăm vườn. Tuy nhiên chẳng bao lâu sau ông làm hỏng bét hết cả và anh thợ làm vườn quay lại. Cớ sao mình phải tự chữa cho mình khỏi một cơn stress mà mình không có, lại còn là thông qua việc làm vườn? ông tự hỏi. Đôi khi, về nhà sau hai ba chục ngày đi đây đi đó giới thiệu cuốn sách của mình hoặc tư vấn cho mấy nhà văn chuyên viết về tội phạm hoặc đạo diễn phim thriller hoặc do được mời bởi các trường đại học hay các sở cảnh sát đang vướng một án giết người không phá nổi, ông ngắm vợ mà cứ phảng phất cái cảm giác mình chẳng biết gì về bà. Nhưng ông có biết bà, về điều đó ông tuyệt không chút nghi ngờ. Có thể là do cách đi đứng của bà ở trong nhà hoặc cái kiểu chiều chiều, khi trời sắp tối, bà rủ ông đến siêu thị quen để mua thứ bánh mì đông lạnh mà sáng sáng ông vẫn ăn và dường như mới ra khỏi một lò nướng châu Âu chứ không phải cái lò vi sóng của Mỹ. Thỉnh thoảng, sau khi mua sắm, họ dừng lại, mỗi người cùng xe đẩy của mình, trước một quầy sách có ấn bản bìa mềm cuốn sách của ông. Vợ ông rồi sẽ trỏ vào đấy mà nói: anh vẫn còn đó kìa. Lần nào cũng như lần nào ông sẽ gật đầu rồi họ lại tiếp tục nhẩn nha đi qua các quầy hàng trong siêu thị. Ông biết bà hay không biết bà? Ông biết bà, dĩ nhiên ông biết, chỉ có điều là đôi khi thực tại, cũng chính cái thực tại nhỏ bé làm cái neo để neo thực tại, dường như bị mờ đi các đường viền, dường như dòng chảy thời gian có tác dụng làm mọi vật rỗng lỗ chỗ, xóa nhòa và làm cho càng nhẹ bẫng hơn những gì vốn đã nhẹ bẫng, từ ngay trong bản chất của nó, nhẹ bẫng và vừa đủ và thực.
♣ ♣ ♣Tôi chỉ gặp hắn một lần, Haas nói. Ở hộp đêm hay một chỗ giống như hộp đêm, cũng có thể là một quán bar mở nhạc quá to. Tôi đi cùng vài người bạn. Bạn và khách hàng. Thằng nhóc này ngồi ở một bàn cùng với mấy người quen vài người trong đám ngồi với tôi. Cạnh nó là thằng em họ, Daniel Uribe. Tôi được giới thiệu với cả hai. Tụi nó có vẻ là những thằng có giáo dục, nói được tiếng Anh và ăn mặc như trại chủ nông trại, nhưng rõ ràng tụi nó không phải trại chủ nông trại. Cả hai thằng đều cao to khỏe mạnh, Antonio Uribe cao hơn thằng em, nhìn là biết ngay tụi nó thường xuyên đến phòng thể thao để tập tạ và rèn luyện cơ thể. Cũng có thể nhận thấy tụi nó quan tâm đến bề ngoài lắm. Tụi nó để râu ba ngày chưa cạo, nhưng tụi nó thơm tho, đầu tóc gọn gàng, sơ mi sạch, quần sạch, cái nào cũng hàng hiệu, bốt cao bồi láng coóng, quần lót chắc cũng sạch và cũng hàng hiệu, nói vắn tắt là hai thằng nhóc hiện đại. Tôi trò chuyện với tụi nó một hồi (về những thứ chán phèo, những thứ người ta thường nói và nghe ở mấy nơi như thế, chuyện đàn ông, theo cách người ta gọi, ô tô mới, DVD, đĩa CD các bài ranchera, Paulina Rubio, narcocorrido, rồi cô nàng da đen ấy, tên gì nhỉ, Whitney Houston à? không, không phải, Lara Jones? cũng chả phải, một cô nàng da đen tên gì tôi quên rồi), và uống một ly với tụi nó rồi với những người khác nữa, sau đó cả bọn chúng tôi ra khỏi đấy, tôi chả nhớ tại sao, tất cả tự dưng ra ngoài hết, và ở đó, trong bóng đêm, tôi không còn thấy hai thằng Uribe đó nữa, đấy là lần cuối cùng tôi gặp tụi nó, nhưng chính là tụi nó, rồi sau đó một người bạn đẩy tôi vào ô tô và chúng tôi đi khỏi đó làm như có quả bom sắp nổ tới nơi.
♣ ♣ ♣Ngày 10 tháng Mười, gần sân bóng đá của hãng Pemex, giữa xa lộ Cananea và đường ray xe lửa, người ta thấy xác Leticia Borrego García, mười tám tuổi, được chôn một nửa và đang trong tình trạng phân hủy sâu. Xác bị quấn trong một túi nhựa công nghiệp, và theo báo cáo pháp y thì nguyên nhân tử vong là bị siết cổ, gãy xương móng. Xác được nhận diện bởi mẹ cô gái, từng trình báo việc cô mất tích một tháng trước. Tại sao kẻ giết người cất công đào một cái hố con rồi ra sức chôn cô? Lalo Cura tự hỏi trong khi quần tới quần lui hiện trường tội ác. Tại sao không vứt ven xa lộ Cananea hay giữa đống đổ nát là mấy cái nhà kho cũ của ngành đường sắt? Chẳng lẽ kẻ giết người không nhận ra hắn đang vứt xác nạn nhân cạnh một sân bóng đá? Một hồi lâu, cho đến khi người ta gọi cậu đi, Lalo Cura cứ đứng đó nhìn chằm chằm nơi người ta bắt gặp xác. Cái hố này chứa xác một đứa trẻ con hay con chó cũng còn khó, làm sao chứa nổi xác một phụ nữ. Kẻ giết người đang vội, muốn mau chóng tống khứ nạn nhân chăng? Lúc đó đang đêm và hắn không quen thuộc chỗ này chăng?
♣ ♣ ♣Đêm trước khi Albert Kessler đến Santa Teresa, lúc bốn giờ sáng, Sergio González nhận được điện của Azucena Esquivel Plata, nhà báo kiêm nghị sĩ đảng PRI. Khi bắt máy, anh chỉ e là người thân trong gia đình báo tin tai nạn, nhưng rồi anh nghe một giọng nữ, rắn rỏi, kênh kiệu, uy quyền, một giọng không quen xin lỗi hay nhận lời xin lỗi. Giọng đó hỏi anh có đang một mình không. Sergio nói anh đang ngủ. Nhưng anh có đang một mình không, anh bạn? giọng đó hỏi. Rồi anh nhận ra nó, hoặc là bộ nhớ âm thanh của anh được kích hoạt. Đó chỉ có thể là Azucena Esquivel Plata, bà María Félix của chính trị Mexico, Bà Lớn, Dolores del Rio của đảng PRI, nàng Tongolele trong mộng tưởng của vài ông nghị và gần như của tất tật các nhà báo mảng chính trị ngoài năm mươi tuổi hoặc đúng hơn là gần sáu chục, tất tật đều chìm như cá sấu trong đầm, cái đầm tâm trí chứ không phải đời thực, tất cả đều bị thống trị hay nói đúng hơn là được phát minh ra bởi Azucena Esquivel Plata. Tôi chỉ có một mình, anh nói. Và đang mặc pijama đúng không? Đúng. Vậy thì mặc quần áo đi rồi xuống lầu, mười phút nữa tôi qua đón anh. Thật ra Sergio không phải đang mặc pijama nhưng anh cảm thấy rằng ngay từ đầu mà đã nói khác bà thì thật hớ hênh quá, thế nên anh liền mặc quần jean, áo len, xỏ tất, rồi xuống sảnh tòa nhà. Nơi cửa là một chiếc Mercedes tắt hết đèn. Người trong xe cũng nhìn thấy anh, vì cửa sau mở ra và một bàn tay đeo đẫy nhẫn giơ ra làm hiệu bảo anh vào. Trong một góc ghế sau, quấn mình trong một tấm chăn kẻ ô, là nghị sĩ Azucena Esquivel Plata, Bà Lớn, bà này, dù đang giữa đêm thâu, và cứ như thể là đứa con hoang của Fidel Velázquez, che mắt bằng chiếc kính râm có gọng đen và hai khung tròng lớn màu đen, giống như loại Stevie Wonder thỉnh thoảng dùng và một số người mù hay dùng để những kẻ tọc mạch không thể thấy cặp nhãn cầu trống rỗng của họ.
♣ ♣ ♣Đầu tiên Kessler bay đến Tucson rồi từ Tucson ông lên một máy bay nhỏ đáp xuống sân bay Santa Teresa. Trưởng Công tố bang Sonora nhận xét rằng chẳng bao lâu nữa, một hay có thể một năm rưỡi nữa, công trình xây dựng sân bay Santa Teresa mới sẽ bắt đầu, dự kiến đủ rộng cho máy bay Boeing. Ông thị trưởng chào mừng ông và trong khi người ta làm thủ tục hải quan cho ông thì một tay nhạc công mariachi bắt đầu biểu diễn để vinh danh ông, hát một bài có nhắc tên ông hoặc là ông nghĩ vậy. Ông quyết định tốt hơn hết đừng hỏi mà hãy mỉm cười. Thị trưởng gạt tay nhân viên hải quan đóng dấu hộ chiếu sang một bên và đích thân ông đóng dấu hộ chiếu cho vị khách lừng lẫy danh tiếng. Giữa chừng làm vậy, ông dừng sững tại chỗ, con dấu giơ cao, cười toét miệng, để đám phóng viên ảnh xúm xít xung quanh có thể chụp thoải mái. Ông Trưởng Công tố bang pha trò và mọi người cười trừ anh nhân viên hải quan, nom chả lấy gì làm vui vẻ. Sau đó họ leo cả lên một đoàn xe rầm rộ tiến về tòa thị chính và ở đó, trong phòng khánh tiết, cựu đặc vụ FBI đồng ý tiến hành buổi họp báo đầu tiên. Người ta hỏi ông liệu hồ sơ các vụ giết phụ nữ ở Santa Teresa hay cái gì đó kiểu vậy đã nằm trong tay ông chưa. Người ta hỏi ông có thật Terry Fox ngôi sao phim Stained bị loạn thần kinh - tức là trong đời thật ấy - như cô vợ thứ ba của anh ta tuyên bố trước khi ly dị hay không. Người ta hỏi trước đây ông tới Mexico lần nào chưa, nếu có thì ông có thích xứ này không. Người ta hỏi có thật là R. H. Davis, tác giả của Stained và Killer Among the Children và Code Name, không ngủ được nếu không để đèn sáng. Người ta hỏi ông có đúng là Ray Samuelson, giám đốc sản xuất phim Stained, đã cấm cửa không cho Davis vào phim trường. Người ta hỏi ông liệu ở Hoa Kỳ có thể có gì đó giống như những vụ giết người hàng loạt ở Santa Teresa không. Miễn bình luận, Kessler nói, thế rồi, với vẻ đầy dụng ý, ông bày tỏ niềm cảm kích với các nhà báo, cảm ơn họ, đoạn rời khỏi đấy để về khách sạn, đã được ông đặt sẵn phòng suite tốt nhất, không được gọi là phòng suite “tổng thống” hay phòng suite “tuần trăng mật” như ở hầu hết khách sạn khác mà gọi là phòng suite “sa mạc”, bởi vì từ trên ban công đối diện phía Nam và phía Tây có thể nhìn bao quát sa mạc Sonora với tất cả sự uy nghi và cô đơn của nó.
♣ ♣ ♣Tụi nó là dân Sonora, Haas nói, song cũng là dân Arizona. Làm sao lại thế được? một nhà báo nói. Tụi nó là người Mexico song cũng là người Mỹ. Tụi nó có quốc tịch kép. Lại còn có cả quốc tịch kép Mexico-Mỹ kia á? Bà luật sư gật mà không ngẩng đầu lên. Vậy bọn họ sống ở đâu? một nhà báo hỏi. Ở Santa Teresa, nhưng còn có nhà khác ở Phoenix. Uribe, một nhà báo nói, tên nghe quen lắm. Tôi cũng thấy quen, một nhà báo khác nói. Chắc bọn họ không có liên hệ gì với Uribe ở Hermosillo phải không? Uribe nào? Thằng cha ở Hermosillo ấy, phóng viên tờ El Sonorense nói, tay Uribe vận tải hàng ấy. Thằng cha có đội xe tải ấy. Ngay lúc đó Chuy Pimentel chụp các nhà báo. Trẻ, ăn mặc lôi thôi, vài người nom như thể sẵn sàng bán mình cho ai trả giá cao hơn, những cậu trai chăm chỉ vẻ bơ phờ thiếu ngủ liếc nhìn nhau và cùng đẩy cho con tàu ký ức lăn bánh. Ngay cả đại diện tờ La Raza de Green Valley, nom giống chủ nông trại hơn nhà báo, cũng hiểu và sốt sắng dự phần vào nhiệm vụ nhớ lại này, nhiệm vụ siết chặt tiêu cự thêm vài nấc nữa. Uribe ở Hermosillo. Uribe có đội xe tải. Tên thằng cha đó là gì nhỉ? Pedro Uribe? Rafael Uribe? Pedro Uribe, Haas nói. Có liên quan gì tới hai thằng Uribe mà anh nói không? Hắn là cha của Antonio Uribe, Haas nói. Rồi gã nói: Pedro Uribe có hơn trăm chiếc xe tải. Hắn chở hàng cho một số nhà máy ở Hermosillo, ở cả Santa Teresa. Xe tải của hắn băng qua biên giới hằng giờ hoặc gần như hằng giờ. Hắn còn có cơ ngơi ở Phoenix và Tucson. Em hắn, Joaquín Uribe, có mấy khách sạn ở Sonora và Sinaloa và cả một chuỗi quán cà phê ở Santa Teresa. Đó là cha của Daniel. Hai anh em nhà Uribe đều lấy vợ người Mỹ. Antonio và Daniel là hai thằng con cả. Antonio có hai em gái một em trai. Daniel là con một. Trước đây Antonio làm việc tại văn phòng của cha nó ở Hermosillo, nhưng đã lâu rồi nó không làm đâu cả. Daniel thì bao giờ cũng là thằng vứt đi. Cả hai thằng được bảo trợ bởi trùm ma túy Fabio Izquierdo, vốn dưới trướng Estanislao Campuzano. Nghe nói Estanislao Campuzano là cha đỡ đầu của Antonio. Tụi nó chơi với toàn đám con nhà triệu phú như tụi nó, rồi cả cảnh sát và các trùm ma túy ở Santa Teresa. Tụi nó đi tới đâu là tiêu tiền như rác tới đấy. Tụi nó là bọn giết người hàng loạt ở Santa Teresa.
♣ ♣ ♣Ngày 10 tháng Mười, cùng ngày người ta thấy xác Leticia Borrego Gracía gần sân bóng đá Pemex, xác Lucía Domínguez Roa được phát hiện ở quận Hidalgo, trên vỉa hè dọc phố Perséfone. Báo cáo đầu tiên của cảnh sát cho hay Lucia làm điếm, nghiện ma túy, và nguyên nhân tử vong có lẽ là dùng ma túy quá liều. Tuy nhiên sáng hôm sau cảnh sát lại tuyên bố khác hẳn. Họ nói Lucía Domínguez Roa làm phục vụ bàn ở một quán bar tại quận Mexico và nguyên nhân tử vong là một phát súng vào bụng. Viên đạn cỡ.44, có lẽ đạn súng lục. Không có nhân chứng cho vụ giết người này và không loại trừ khả năng kẻ giết người đã bắn từ trong một chiếc xe đang chạy. Cũng không loại trừ khả năng viên đạn đó thật ra nhằm vào một người khác. Lucía Domínguez Roa ba mươi ba tuổi, ly thân, sống một mình tại một căn hộ ở quận Mexico. Không ai biết cô làm gì ở quận Hidalgo, mặc dù theo cảnh sát thì rất có thể cô đang đi dạo và thuần túy do tình cờ mà chết.
♣ ♣ ♣Chiếc Mercedes đi vào quận Tlalpan, vòng mấy lần, rồi cuối cùng rẽ vào một con phố rải sỏi hai bên là những ngôi nhà sáng trăng đằng sau những bức tường cao, hoặc trông như không có người ở hoặc là đổ nát hoang tàn. Trên xe Azucena Esquivel Plata ngồi yên lặng, hút thuốc liên hồi, quấn mình trong tấm chăn kẻ ô Sergio thì nhìn ra ngoài cửa sổ. Nhà của bà nghị to và thấp, có những khoảnh sân ngày trước từng là chỗ cho xe cộ, chuồng gia súc cũ và những máng nước đục thẳng vào trong đá. Anh theo bà vào một căn phòng lớn treo một bức tranh của Tamayo và một bức của Orozco. Bức Tamayo màu đỏ và xanh lục. Bức Orozco màu đen và xám. Bốn bức tường phòng trắng toát, khiến người ta liên tưởng đến một bệnh viện tư hoặc đến cái chết. Bà nghị hỏi anh muốn uống gì. Sergio bảo cà phê. Một cà phê và một tequila, bà nghị nói không hề lên giọng, tuồng như chỉ đang nhận xét về chuyện mỗi người thích uống gì vào lúc sáng tinh mơ thế này. Sergio ngoái nhìn qua vai, xem có người hầu nào ở đó không, nhưng chẳng thấy ai. Tuy nhiên, vài phút sau xuất hiện một phụ nữ trung niên, xấp xỉ tuổi bà nghị nhưng trông tiều tụy hơn nhiều do lao lực và tuổi tác, bê một ly tequila và một tách cà phê bốc khói. Cà phê tuyệt ngon và Sergio nói với bà chủ vậy. Azucena Esquivel Plata cười thành tiếng (thật ra bà chỉ để lộ răng và cho thoát ra một âm thanh giông giống tiếng cười, tiếng của một loài chim đêm) và bảo chừng nào chưa thử tequila của bà thì anh không thể biết thế nào là ngon. Nhưng thôi ta vào việc, bà nói mà không bỏ cái kính râm to đùng ra. Anh đã khi nào nghe nói tới Kelly Rivera Parker chưa? Chưa, Sergio nói. Tôi đã sợ thế mà, bà nghị nói. Về tôi thì anh đã nghe nói chưa? Dĩ nhiên là có, Sergio nói. Nhưng về Kelly thì không? Không, Sergio nói. Cái đất nước khốn nạn này là vậy đó, Azucena nói, rồi trong vài phút bà im lặng, hoặc nhìn chăm chăm ly tequila có ánh đèn bàn rọi qua hoặc nhìn chằm chằm xuống sàn hoặc nhắm mắt, bởi vì tất cả những việc đó, và còn nhiều nữa, bà đều có thể làm dưới bức màn không thể xuyên qua là cặp kính bà đeo. Tôi gặp Kelly hồi chúng tôi còn con gái, bà nghị nói tuồng như đang trong mơ. Ban đầu tôi không ưa cô ấy, cô ấy chảnh chọe quá, ít nhất là hồi ấy tôi thấy vậy. Cha cô ấy là kiến trúc sư, làm việc cho đám nhà giàu mới nổi của thành phố. Mẹ cô ấy là người Mỹ, gặp cha cô ấy hồi ông ấy học ở Harvard hoặc Yale, một trong hai trường đó. Dĩ nhiên, ông ấy sang Mỹ học không phải là do cha mẹ ông ấy, tức ông bà nội Kelly, bỏ tiền ra, mà là nhờ học bổng của nhà nước. Chắc ông ấy học giỏi lắm, phải không? Nhất định rồi, Sergio nói, khi thấy bà nghị có vẻ lại sắp chìm vào im lặng. Là sinh viên kiến trúc thì ông ấy giỏi đấy, nhưng làm kiến trúc sư thì như vứt đi. Anh có biết La Casa Elizondo không? Không, Sergio nói. Nó ở Coyoacán, bà nghị nói. Nó là một cái nhà kinh khủng. Cha Kelly xây đấy. Tôi chưa bao giờ nghe nói tới nó, Sergio nói. Hiện giờ một nhà sản xuất phim sống ở đấy, thằng cha uống rượu như hũ chìm, một kẻ vang bóng một thời không còn làm phim nữa. Sergio nhún vai. Rồi sẽ đến lúc lão ngỏm và mấy đứa cháu lão sẽ bán La Case Elizondo cho một công ty xây dựng phá sập để xây chung cư. Thực vậy, dấu vết kiến trúc sư Rivera để lại trên thế giới này ngày một ít đi. Thực tại cứ như một ả điếm nhiễm AIDS không được thỏa mãn, nhỉ? Sergio gật đầu nói phải, đúng vậy. Kiến trúc sư Rivera, kiến trúc sư Rivera, bà nghị nói. Sau một thoáng im lặng bà nói: bà mẹ rất xinh, không, phải nói là đẹp mới đúng, rất đẹp. Phu nhân Parker. Một bà vừa tân thời vừa đẹp, à mà nhân thể tôi kể anh nghe, kiến trúc sư Rivera đối xử với bà ấy như với bà hoàng. Mà thế là phải, vì hễ nhìn thấy bà là đàn ông thảy phát cuồng lên và nếu lúc nào đấy muốn bỏ ông kiến trúc sư thì bà chả thiếu gì mối tốt. Nhưng thật ra bà chẳng bao giờ bỏ ông ấy, mặc dù hồi tôi còn nhỏ nghe nói có một ông tướng và một chính trị gia đang ve vãn mồi chài bà mà bà cũng chẳng quá ác cảm với họ. Nhưng chắc hẳn bà yêu Rivera vì bà chẳng bao giờ bỏ ông ấy. Họ chỉ có một đứa con gái là Kelly, tên thật là Luz María, giống tên bà nội. Bà Parker có thai nhiều lần, nhưng thai không thuận. Chắc tử cung bà ấy có vấn đề. Có lẽ nó không chứa thêm nổi đứa trẻ Mexico nào nữa nên đã tự phá thai. Có thể vậy. Những chuyện kỳ lạ hơn còn xảy ra được cơ mà. Dù sao thì Kelly là con một, và cái vận rủi ấy hoặc vận may ấy để lại dấu ấn trên tính cách cô. Một mặt cô ấy là hoặc có vẻ là một đứa chảnh chọe, kiểu con gái rượu được nuông chiều của mấy nhà giàu mới nổi, nhưng mặt khác từ bé cô ấy đã có ý chí mạnh mẽ, quyết đoán, một tính cách mà tôi thậm chí phải nói là có một không hai. Dù sao đi nữa, ban đầu tôi chả ưa cô ấy lắm nhưng về sau, khi biết rõ cô ấy hơn, khi cô ấy mời tôi đến nhà chơi và tôi mời cô ấy về nhà tôi chơi thì càng ngày tôi càng có cảm tình với cô ấy, cho đến khi hai đứa không thể rời nhau ra nữa. Những chuyện như thế thường hay để lại dấu ấn dài lâu, bà nghị nói, làm như bà đang nhổ nước bọt vào mặt một người hay một bóng ma. Tôi có thể hình dung được, Sergio nói. Anh uống thêm cà phê không?
♣ ♣ ♣Ngay hôm đầu đến Santa Teresa, Kessler rời khách sạn một mình. Đầu tiên ông xuống sảnh. Ông trò chuyện với lễ tân một hồi, hỏi về máy vi tính và kết nối Internet của khách sạn, rồi ông vào quán bar gọi whiskey, nhưng mới uống phân nửa thì đã đứng dậy vào toilet. Khi đi ra có vẻ như ông vừa rửa mặt, và ông tiến thẳng vào nhà hàng, không nhìn bất cứ ai đang ngồi ở bàn trong quán bar hay trên ghế trong tiền sảnh. Ông gọi một đĩa salad César cùng bánh mì đen, bơ và bia. Trong khi chờ thức ăn lên ông đứng dậy gọi điện ở máy điện thoại chỗ cửa nhà hàng. Sau đó ông về bàn ngồi và lấy từ túi áo khoác ra cuốn từ điển Anh-Tây Ban Nha tìm mấy chữ. Sau đó hầu bàn đặt đĩa salad lên bàn và Kessler uống mấy ngụm bia Mexico rồi phết bơ lên một lát bánh mì. Ông lại đứng dậy đi về phía toilet. Nhưng ông không vào đấy mà lại cho người lao công lau dọn toilet một đô và trao đổi với người này mấy câu bằng tiếng Anh, đoạn ông rẽ vào một hành lang nhánh, mở một cánh cửa và băng qua một hành lang khác. Cuối cùng Kessler đến bếp của khách sạn, mịt mù trong đám khói có mùi salsa cay và thịt nướng ngói, và ông hỏi một cậu phụ bếp đi lối nào ra ngoài phố được. Cậu phụ bếp đưa ông đến một cánh cửa. Kessler cho cậu một đô rồi bước ra sân. Ở góc sân một chiếc taxi đang chờ sẵn, ông liền leo lên. Ta đảo một vòng qua mấy khu ổ chuột đi, ông nói với tài xế bằng tiếng Anh. Tài xế nói được và họ lên đường. Chuyến đi kéo dài chừng hai tiếng. Họ vòng quanh trung tâm thành phố, lái qua quận Madero-Norte và quận Mexico, gần như đến sát biên giới nơi có thể nhìn thấy rõ El Adobe bên đất Mỹ. Rồi họ quay trở lại Madero-Norte, đi khắp các phố của quận Madero và quận Reforma. Tôi muốn chỗ khác kia, không phải thế này, Kessler nói. Vậy sếp muốn gì, thưa sếp? tài xế nói. Khu ổ chuột, khu xung quanh các nhà máy, các bãi rác bất hợp pháp. Tài xế liền quay ngược lại, băng qua quận Centra rồi hướng về phía quận Félix Gómez, rẽ vào đại lộ Carranza và lái ngang qua quận Veracruz, quận Carranza và quận Morelos. Đến cuối con đường ấy có một thứ gì đấy kiểu như quảng trường hoặc khoảng đất trống rộng thênh, màu vàng nhức mắt, tề tựu cơ man nào là xe tải và xe buýt với các quầy hàng bán mua đủ thứ từ rau củ gà qué cho tới đồ trang sức rẻ tiền. Kessler bảo tài xế dừng xe, ông muốn nhìn quanh một lát. Tài xế bảo tốt hơn là đừng, sếp ạ, ở chốn này đời một tay Mỹ chẳng đáng giá bao lăm đâu. Anh cho là tôi mới đẻ hôm qua à? Kessler hỏi. Tài xế không hiểu ý và cứ nằng nặc nài ông ở lại trong xe. Dừng ở đây, mẹ kiếp, Kessler nói. Tài xế phanh xe lại và đòi ông trả tiền. Anh định đi à? Kessler hỏi. Không, tài xế nói, em sẽ chờ sếp, nhưng chẳng ai bảo đảm là khi quay lại sếp vẫn còn tiền. Kessler phá ra cười. Anh muốn bao nhiêu? Hai mươi đô là đủ, tài xế nói. Kessler đưa anh ta một tờ hai mươi đô rồi xuống xe. Trong một lát, hai tay đút túi quần và cà vạt nói lỏng, ông tha thẩn quanh khu chợ tạm. Ông hỏi một bà già bé nhỏ bán dứa dầm rằng mấy xe tải kia đi đâu, sao chiếc nào cũng đi về cùng một hướng, về hướng Santa Teresa, bà già nói. Còn đằng ấy có gì? ông vừa hỏi bằng tiếng Tây Ban Nha vừa chỉ ngón tay về hướng ngược lại. Khu công nghiệp, bà già nói. Vì lịch sự, ông mua một miếng dứa, nhưng vừa đi khuất tầm mắt liền vứt xuống đất. Thấy chưa, tôi có bị làm sao đâu, ông nói với tài xế khi quay lại xe. Nhờ phép mầu đó, tài xế nói, mỉm cười qua kính chiếu hậu. Đến khu công nghiệp đi, Kessler nói. Đến cuối quảng trường đất kia thì đường tẽ ra hai nhánh, mỗi nhánh lại tẽ tiếp ra hai nhánh. Sáu con đường nhựa giao nhau ở khu công nghiệp Arsenio Farrell. Các tòa nhà nhà máy đều cao và mỗi nhà máy đều có hàng rào thép gai bao quanh, ánh sáng những ngọn đèn đường lớn trùm lên tất cả một thứ hào quang mơ hồ của sự cấp thiết, của sự hệ trọng, nhưng thật ra thì nào có phải, hôm nay chỉ là một ngày làm việc bình thường. Kessler lại xuống xe hít thở bầu không khí của nhà máy, bầu không khí lao động của miền Bắc Mexico. Xe buýt đưa công nhân đi và chở công nhân tới. Bầu không khí ẩm ướt hôi hám, ám mùi dầu cháy, phả lên mặt ông. Ông chừng như nghe thấy tiếng cười và tiếng accordion theo gió vẳng tới. Phía Đông khu công nghiệp trải dài cả một biển những mái nhà xây bằng các thứ vứt đi. Phía Nam, sau những nhà ổ chuột đằng xa, ông nhìn thấy một hòn đảo sáng và biết ngay đó là một khu công nghiệp khác nữa. Ông hỏi tài xế khu đó tên gì. Tài xế xuống xe, nhìn về phía Kessler chỉ một hồi. Chắc là Khu Công nghiệp General Sepúlveda, anh nói. Trời bắt đầu tối. Đã lâu Kessler không thấy một hoàng hôn nào đẹp đến vậy. Các màu sắc xoáy tròn trong trời chiều khiến ông nhớ lại một hoàng hôn đã thấy nhiều năm về trước ở Kansas. Không hẳn giống hệt, nhưng về màu sắc thì chẳng khác tí nào. Ông nhớ khi đó ông đang trên xa lộ, đi cùng cảnh sát trưởng và một cộng sự ở FBI, và xe phải dừng một lát để một trong ba người xuống xe đi tiểu, và rồi ông thấy nó. Những màu sắc rực rỡ nơi phía Tây, những màu sắc như những con bướm khổng lồ nhảy múa trong khi đêm tiến dần từ phía Đông tới như một anh què. Đi nào sếp, tài xế taxi nói, vận may của mình chả nhiều lắm đâu.
♣ ♣ ♣Vậy anh có bằng chứng gì về chuyện anh em Uribe là bọn giết người hàng loạt, hở Klaus? phóng viên tờ En Independente đe Phoenix hỏi. Ở trong tù cái gì ta cũng biết, Haas nói. Vài nhà báo gật đầu đồng tình. Nhà báo ở Phoenix nói không thể có chuyện đó. Đấy chỉ là truyền thuyết Klaus à, một truyền thuyết do tù nhân chế ra. Một thứ thế phẩm giả ngụy thay cho tự do. Trong tù ta chỉ nghe được vài điều lọt vào được qua bốn bức tường nhà tù, thế thôi. Haas nhìn cô ta đầy phẫn nộ. Ý tôi là trong tù ta biết tất cả những chuyện xảy ra ngoài vòng pháp luật, gã nói. Không đúng đâu, Klaus, cô nhà báo nói. Đúng chứ, Haas nói. Không, không đúng, cô nhà báo nói. Đấy là truyền thuyết thị dân, phát minh của phim ảnh. Bà luật sư nghiến răng. Chuy Pimentel chụp ảnh bà: tóc đen, nhuộm, che kín mặt, mũi hơi khoằm khi nhìn nghiêng, mắt kẻ bút chì. Giá như mọi chuyện đều tùy thuộc vào bà thì tất cả những ai quanh bà, những bóng đen nơi mép ảnh sẽ biến mất ngay tức khắc, biến mất luôn cả căn phòng này, cái nhà tù này, cả cai ngục lẫn tù nhân, bốn bức tường trăm năm tuổi của nhà tù Santa Teresa, chẳng còn lại gì ngoài một vực sâu, trong vực sâu ấy chỉ có im lặng và có sự hiện diện mơ hồ của bà và của Haas, bị xiềng trong đáy vực.
♣ ♣ ♣Ngày 14 tháng Mười, ven con đường đất dẫn từ quận Estrella đến các nông trại ở ngoại ô Santa Teresa, người ta bắt gặp một xác phụ nữ khác. Cô mặc áo phông dài tay màu xanh dương thẫm, áo khoác hồng kẻ sọc dọc đen trắng, hiệu Levi’s, thắt lưng to bản có khóa bọc nhung, bốt gót nhọn ôm trọn cẳng chân, tất trắng, quần lót đen, áo ngực trắng. Nguyên nhân tử vong, theo giám định pháp y, là thiếu ôxy do bị siết cổ. Quanh cổ cô vẫn còn một sợi dây điện dài một mét, đoạn giữa chập đôi xoắn lại thành nút, chắc ai đó đã dùng để siết cổ cô. Trên cổ cô cũng có thể thấy những dấu vết ngoài da của sự bạo hành, tuồng như trước khi dùng dây điện kẻ nào đó đã cố siết cổ cô bằng tay không, tay trái cùng chân phải bị trầy trụa, cơ mông bầm tím, như thể cô đã bị đá. Theo báo cáo pháp y, cô chết đã ba hoặc bốn ngày. Tuổi cô ước chừng từ hai lăm đến ba mươi, về sau cô được nhận diện là Rosa Gutiérrez Centeno, ba tám tuổi, trước là công nhân nhà máy, còn tại thời điểm chết thì cô làm hầu bàn tại một quán cà phê ở trung tâm Santa Teresa, mất tích bốn hôm trước khi chết. Người nhận diện là con gái cô, trùng tên với cô, năm nay mười bảy tuổi, sống cùng cô ở quận Álamos. Cô gái Rosa Gutiérrez Centeno khi nhìn thấy xác mẹ ở một phòng nhà xác thì liền nói đó là mẹ cô. Để không ai còn hồ nghi, cô nói thêm cái áo khoác hồng sọc đen trắng là của cô, thuộc sở hữu của cô, hai mẹ con dùng chung cái áo ấy cũng như chung nhiều thứ khác.
♣ ♣ ♣Có những lúc chúng tôi gặp nhau hằng ngày, bà nghị nói. Dĩ nhiên là hồi bé, lúc còn đi học thì đâu có cách nào khác. Giờ ra chơi là chúng tôi ở bên nhau, chơi chung và trò chuyện về cuộc sống của mình. Thỉnh thoảng cô ấy mời tôi tới nhà chơi và tôi thích đến đó lắm, tuy nhiên cha mẹ ông bà tôi chẳng mấy thiết tha cho tôi giao du với những đứa con gái như Kelly, không phải vì cô ấy, dĩ nhiên, mà vì bố mẹ cô ấy, sợ rằng ông bố kiến trúc sư của cô ấy sẽ bằng cách nào đó lợi dụng tình bạn của con gái mình đặng mon men lại gần những thứ mà gia đình tôi coi là thiêng liêng bất khả xâm phạm, cái vòng thép tỏa quanh đời tư gia đình chúng tôi, vốn đã kháng cự lại được sức tấn công của cách mạng và cuộc suy thoái xảy ra sau Loạn Cristero và tình trạng bị gạt ra rìa khi những tàn dư của thời Porfirio - thật ra là tàn dư của thời Iturbide - bị đem nướng liu riu trên lửa. Nói cho anh dễ hiểu: dưới thời Porfirio Díaz, gia đình tôi chẳng thiếu thứ gì, nhưng dưới thời hoàng đế Maximiliano thì còn hơn thế nữa, và đáng lẽ ra đã đạt độ huy hoàng nhất dưới thời Iturbide, dưới một nền chuyên chế Iturbide không có loạn lạc và không bị ai phá đám. Trong mắt gia đình tôi, nói anh biết nhé, người Mexico đích thực hiếm lắm. Cả nước chắc chỉ có ba trăm gia đình. Ngàn rưởi hoặc hai ngàn người. Còn lại toàn tụi da đỏ ấm ức hay tụi da trắng oán hận hay những phường hung bạo có trời biết chui từ đâu ra đến Mexico chỉ để hủy diệt xứ này. Kẻ cướp, hầu hết là thế. Trưởng giả. Ăn bám. Những kẻ không biết sĩ diện là gì. Gia đình tôi xem, chắc anh cũng hình dung được, kiến trúc sư Rivera cha của Kelly là hình mẫu của người cơ hội. Bọn họ coi như đương nhiên là vợ ông không phải người Cơ đốc. Có lẽ, theo như sau này tôi nghe được, họ coi bà là con đĩ. Họ nhìn nhận vấn đề như vậy đấy, quyến rũ ra phết. Nhưng họ chả bao giờ cấm tôi đến chơi nhà Kelly (mặc dù, như tôi đã nói, họ không thích chuyện ấy) hoặc không cấm tôi mời cô ấy vệ nhà chơi ngày càng thường xuyên hơn. Sự thực là Kelly thích nhà tôi, thậm chí còn thích hơn cả nhà cô ấy, và cuối cùng thì điều đó cũng trở nên dễ hiểu trong mắt tôi, nó nói lên rất nhiều về sự rõ ràng trong sở thích của cô ấy, ngay cả khi mới là một cô bé. Hay đúng hơn là sự ngang ngạnh, có lẽ từ đó mới thích hợp. Ở cái xứ này chúng ta luôn lẫn lộn rõ ràng với ngang ngạnh, anh có thấy thế không? Chúng ta tự cho là mình luôn sáng sủa rõ ràng, trong khi thực tế là chúng ta ngang ngạnh. Theo nghĩa đó, Kelly rất Mexico. Cô ấy ngang ngạnh, ương bướng. Ngang ngạnh hơn tôi nhiều, nói thế là hiểu. Tại sao cô ấy thích nhà tôi hơn nhà cô ấy? Chậc, thì vì nhà tôi có đẳng cấp còn nhà cô ấy chỉ có phong cách, anh có hiểu sự khác nhau không? Nhà Kelly đẹp, tiện nghi hơn nhà tôi nhiều, có lắm trang thiết bị, một ngồi nhà sáng choang, có một phòng chính to, thoải mái, tiếp khách hay mở tiệc thì không gì bằng, rồi một cái sân hiện đại, có bãi cỏ và máy xén cỏ, một ngôi nhà tân tiến, theo cách gọi hồi đó. Nhà tôi, tự anh cũng thấy đấy, chính là cái nhà này đây, mặc dù hồi đó dĩ nhiên nó không được chăm bẵm như bây giờ, mà là một cái nhà to rộng thênh thang sặc mùi xác ướp và đèn cầy, giống một tu viện khổng lồ chứ chẳng giống cái nhà, nhưng có tất cả những đặc trưng của sự giàu có và ổn định kiểu Mexico. Một cái nhà vô phong cách, đôi khi xấu xí như một con tàu đắm, nhưng có đẳng cấp. Mà anh có hiểu có đẳng cấp là sao không? Trên hết nó có nghĩa là tự chủ. Không nợ ai bất cứ cái gì. Không phải giải thích với ai về bất cứ cái gì. Và Kelly là thế. Tôi không nói là Kelly có ý thức về điều đó. Tôi cũng không. Hồi đó chúng tôi còn nhỏ, do còn nhỏ nên vừa đơn giản vừa phức tạp và không bị vướng mắc trong từ ngữ. Nhưng cô ấy là vậy. Thuần túy ý chí tuyệt đối, thuần túy sức nổ, thuần túy khát khao khoái lạc. Anh có con gái không? Không, Sergio nói. Con gái không con trai cũng không. Chậc, nếu lúc nào đó có con gái anh sẽ hiểu điều tôi nói. Bà nghị im lặng một hồi. Tôi chỉ có một đứa con, con trai, bà nói. Nó đi học ở Mỹ. Đôi khi tôi mong nó đừng bao giờ về lại Mexico nữa. Tôi nghĩ thế là tốt nhất cho nó.
♣ ♣ ♣Tối hôm đó Kessler được hộ tống từ khách sạn tới dự tiệc ở tư dinh thị trưởng. Ngồi bên bàn là Trưởng Công tố bang Sonora, Phó Trưởng Công tố, hai thanh tra, bác sĩ Emilio Garibay, trưởng ban giám định pháp y, giáo sư môn