PHẦN BỐN (C) PHẦN VỀ CÁC TỘI ÁC
Ngày 20 tháng Tám trên một cánh đồng gần nghĩa địa phía Tây người ta thấy xác một nạn nhân mới. Cô tầm mười sáu đến mười tám tuổi và không mang giấy tờ tùy thân nào. Người chết không mặc gì ngoài áo cánh trắng, được quấn trong một tấm chăn cũ màu vàng in hình những con voi màu đen và đỏ. Sau khi giám định pháp y, người ta xác định nguyên nhân tử vong là hai nhát đâm vào cổ và một nhát thứ ba sát tâm nhĩ phải. Trong thông báo đầu tiên, cảnh sát nói cô không bị hãm hiếp. Bốn ngày sau, họ đính chính, nói cô đã bị hãm hiếp. Bác sĩ tiến hành giám định pháp y tuyên bố với báo giới rằng họ, nhóm các chuyên gia về bệnh học thuộc sở cảnh sát và thuộc Đại học Santa Teresa, chưa từng mảy may nghi ngờ chuyện cô bị hãm hiếp, và họ đã nói rõ điều này ngay trong bản báo cáo chính thức đầu tiên (và duy nhất). Người phát ngôn của cảnh sát nói sự hiểu lầm xuất phát từ một sai sót trong việc diễn giải bản báo cáo nói trên. Vụ này được thanh tra José Márquez đảm trách và chẳng bao lâu sau bị xếp xó. Nạn nhân được chôn trong khu mộ công cộng vào tuần thứ hai của tháng Chín.
♣ ♣ ♣Tại sao Perla Beatriz Ochoterena tự sát? Theo Elvira Campos, chắc cô bị trầm uất. Có lẽ cô sắp suy nhược thần kinh. Rõ ràng cô là người cô đơn và quá nhạy cảm. Juan de Dios Martínez đọc cho bà nghe tên vài cuốn sách của cô giáo anh đã ghi hú họa vào sổ. Anh đọc cuốn nào trong số này chưa? bà giám đốc hỏi. Juan de Dios thú nhận là chưa. Sách hay cả đấy, bà giám đốc nói, vài cuốn còn khó tìm nữa, ít nhất là ở Santa Teresa. Cô ấy đặt họ gửi từ thủ đô tới, Juan de Dios nói.
♣ ♣ ♣Người phụ nữ chết thứ hai là Adela García Ceballos, hai mươi tuổi, công nhân nhà máy Dun-Corp., bị đâm chết trong nhà mẹ đẻ. Kẻ giết người là Rubén Bustos, hai mươi lăm tuổi, sống cùng Adela ở số 56 phố Taxquena quận Mancera và hai người có với nhau một đứa con một tuổi. Đã một tuần nay cặp này cãi cọ nên Adela chuyển về ở với cha mẹ. Theo Bustos, cô định bỏ y để theo người khác. Bắt Bustos tương đối dễ. Y cố thủ trong nhà ở quận Mancera, nhưng chỉ có một con dao con để tự vệ. Thanh tra Ortiz Rebolledo vừa bắn vừa xông vào nhà và Bustos trốn dưới gầm giường. Cảnh sát vây quanh giường, Bustos không chịu ra, nên họ dọa sẽ nhồi cho y đầy kẹo đồng. Lalo Cura có mặt trong nhóm này. Thỉnh thoảng Bustos lại vung tay ra từ dưới giường, cầm chính con dao y đã dùng để giết Adela, cố rạch vào mắt cá chân các cảnh sát. Đám cảnh sát cười ha hả nhảy lùi lại. Một người bước lên trên giường và Bustos cố đâm vào lòng bàn chân anh ta xuyên qua tấm nệm. Một cảnh sát khác, tên là Cordero, nổi tiếng ở phân khu cảnh sát số 3 do kích thước cái củ của anh ta, bèn hướng thẳng xuống gầm giường mà tiểu. Bustos thấy nước tiểu chảy trên sàn lan đến chỗ y thì bắt đầu khóc thút thít. Cuối cùng Ortiz Rebolledo cười mãi cũng chán bèn bảo nếu y không chui ra họ sẽ giết y ngay tại chỗ. Cảnh sát nhìn y chui ra, nhàu nhĩ tả tơi, rồi lôi y vào bếp. Ở đấy họ đổ đầy một nồi nước ụp lên đầu y. Ortiz Rebolledo túm cổ Cordero cảnh cáo rằng chỉ cần xe ông vương tí ti mùi nước tiểu là anh ta sẽ phải trả giá đắt. Cordero, tuy suýt tắc thở, liền phá lên cười hứa không có chuyện đó đâu. Nhưng lỡ thằng này tè ra thì sao hở sếp, anh ta hỏi. Tao có thể phân biệt mùi các loại nước tiểu, Ortiz Rebolledo nói. Nước tiểu của thằng chó này sẽ sặc mùi sợ hãi còn của mày khai rình mùi tequila. Khi Cordero vào bếp, Bustos đang khóc. Giữa những tiếng nức nở, y nói gì đó về thằng con y. Y nói về cha mẹ, mặc dù không hiểu y đang nói về cha mẹ y hay cha mẹ Adela vốn là nhân chứng cho vụ án mạng. Cordero đổ đầy một nồi nước rồi xối thẳng lên người y. Sau đó anh ta lại đổ đầy nồi rồi lại trút lên người y. Ống quần của hai cảnh sát đang canh giữ Bustos ướt hết, đôi giày đen của họ cũng vậy.
♣ ♣ ♣Cái gì khiến cho cô giáo đó không chịu nổi nữa? Elvira Campos hỏi. Cuộc sống ở Santa Teresa? Những cái chết ở Santa Teresa? Những cô bé chết mà chẳng ai làm gì để chặn điều đó lại? Liệu chừng ấy có đủ khiến một phụ nữ trẻ tự sát không? Liệu một sinh viên đại học có tự giết mình vì lý do đó không? Liệu một cô gái nông thôn đã phải nỗ lực làm việc để trở thành cô giáo có tự giết mình vì lý do đó không? Là một trên một ngàn? Một trên một triệu? Hay một trên một trăm triệu dân Mexico?
♣ ♣ ♣Vào tháng Chín hầu như không có vụ giết phụ nữ nào. Có những trận ẩu đả. Có những cuộc mua bán và bắt bớ liên quan đến ma túy. Có tiệc tùng và những đêm dài nóng bức. Có những xe tải chở đầy cocain băng qua sa mạc. Có những máy bay Cessna bay là là trên sa mạc như linh hồn những người Anh điêng theo đạo Kitô sẵn sàng cắt họng thiên hạ. Có những cuộc chuyện trò thầm thì và tiếng cười và narcocorrido làm nhạc nền. Tuy nhiên, vào ngày cuối tháng Chín, người ta thấy hai xác phụ nữ gần Pueblo Azul. Nơi hai người này được phát hiện là một địa điểm thường được đám lái xe mô tô ở Santa Teresa dùng làm bãi đua. Hai phụ nữ này mặc quần áo ở nhà, một người thậm chí đi dép lê mặc áo choàng tắm. Người ta không tìm thấy giấy tờ nào trên hai cái xác này giúp xác định nhân thân của họ. Vụ này được thanh tra José Márquez cùng thanh tra Carlos Marín đảm trách, và dựa trên nhãn hiệu quần áo của các xác chết, hai người này đoán họ là người Mỹ. Sau khi cảnh sát Arizona nhận được thông báo thì người ta biết ra hai người chết là chị em nhà Reynolds, sống ở Rillito, ngoại ô Tucson, Lola Reynolds và Janet Reynolds, một người ba mươi và một người bốn mươi tư tuổi, cả hai đều có tiền án buôn ma túy. Márquez và Marín ức đoán phần còn lại: hai chị em hẳn là đã nợ tiền hàng, không nhiều, bởi họ chẳng bao giờ buôn số lượng lớn, và không chịu trả nợ. Có thể họ gặp khó khăn trong thanh toán, có thể họ đã trở nên cứng cựa hơn (theo cảnh sát Tucson, Lola là một phụ nữ đáng gờm), có thể những kẻ cung cấp hàng đã tới tìm họ, đến nhà họ giữa đêm đúng lúc họ đang chuẩn bị đi ngủ, bèn đưa họ qua biên giới và khi đến Sonora thì giết họ, mà cũng có thể chúng đã giết họ ở Arizona, mỗi người hai phát súng vào đầu, trong lúc cả hai vẫn đang ngái ngủ, rồi băng qua biên giới vứt họ gần Pueblo Azul.
♣ ♣ ♣Vào tháng Mười, người ta phát hiện một xác phụ nữ khác trong sa mạc, phía Nam Santa Teresa, giữa hai đường nhánh. Xác đang trong quá trình phân hủy và bác sĩ pháp y nói phải mất nhiều ngày mới xác định được nguyên nhân tử vong. Nạn nhân sơn móng tay đỏ, làm cho các cảnh sát đầu tiên có mặt tại hiện trường nghĩ cô là điếm. Qua y phục - quần jean, áo cánh trễ cổ - họ suy ra cô còn trẻ. Mặc dù chẳng hiếm bà sáu mươi cũng ăn mặc thế. Khi cuối cùng báo cáo giám định pháp y cũng đến (nguyên nhân tử vong có lẽ là do dao đâm) thì ai cũng đã quên vụ này, kể cả báo đài, và xác được vứt vào nghĩa địa công cộng, chẳng gây thêm ồn ào gì.
♣ ♣ ♣Cũng trong tháng Mười, Jesus Chimal băng Ông Kễnh, kẻ gây ra cái chết của,Linda Vázquez, được đưa vào nhà tù Santa Teresa. Mặc dù ngày nào cũng có người mới được đưa đến, song sự xuất hiện của kẻ giết người trẻ tuổi đã khơi dậy mối quan tâm đặc biệt trong giới tù nhân, tuồng như họ đang được một ca sĩ lừng danh hay con trai một chủ nhà băng đến thăm, giúp họ lên tinh thần ít nhất là trong dịp cuối tuần. Klaus Haas có thể cảm thấy bầu không khí náo nức trong các khu xà lim, và tự hỏi không biết nó có giống hồi gã đến đây không. Không, lần này sự chờ đợi mang sắc thái khác. Có gì đó đáng sợ nhưng cũng kích thích. Đám tù nhân không bàn trực tiếp chuyện ấy, nhưng bằng cách này hay cách khác đều bóng gió nhắc đến mỗi khi tán chuyện về bóng đá hay bóng chày. Khi tán chuyện về gia đình, về các quán bar và các ả điếm chỉ hiện hữu trong tưởng tượng của họ. Ngay cả hành vi của một vài tù nhân đầu gấu nhất cũng tốt hẳn lên. Làm như họ muốn mình xứng đáng. Nhưng mà xứng đáng trong mắt ai? Haas tự hỏi. Họ chờ Chimal đến. Họ biết nó đang đến. Họ biết nó sẽ ở xà lim nào và họ biết nó đã giết con gái một tay giàu sụ. Theo El Tequila, chỉ mỗi đám tù cựu anh chị của băng Ông Kễnh là đứng ngoài tấn trò này. Hôm Chimal đến, cũng chỉ có đám này lại chào nó. Trong khi đó, Chimal không tới một mình. Đi cùng nó là ba đứa còn lại trong đám, bị bắt vì tội giết Linda Vázquez và chúng chẳng bao giờ rời nhau, kể cả khi cần giải quyết bầu tâm sự. Một đứa băng Ông Kễnh vào tù từ một năm trước tuồn cho Chimal một con dao thép tự chế. Một đứa khác chuồi dưới gầm bàn cho nó ba viên amphetamin. Hai ngày đầu tiên Chimal xử sự như thằng điên. Nó không ngừng quay đầu lại xem có gì đang diễn ra sau lưng. Ngủ nó cũng vẫn nắm chặt con dao tự chế. Đi đâu nó cũng đem mấy viên amphetamin theo, như một cái bùa tí xíu bảo vệ nó trước tai ương. Ba thằng đồng bọn chẳng bao giờ xa nó. Khi đi bộ trong sân, chúng đi thành hai cặp. Chúng di chuyển như những lính biệt kích bị lạc trên một hòn đảo đầy chất độc ở một hành tinh khác. Thỉnh thoảng Haas đứng từ xa nhìn chúng mà nghĩ: tội nghiệp tụi nhóc, tội nghiệp bọn nhãi con lạc trong một giấc mơ. Ở tù đến ngày thứ tám thì bốn đứa bị ép vào một phòng giặt. Đột nhiên, quản giáo biến sạch. Bốn tù nhân đứng canh cửa. Khi Haas đến thì chúng cho gã vào làm như gã là đồng bọn, là người cùng một nhà, một điều khiến Haas thầm cảm kích, mặc dù gã chẳng bao giờ thôi khinh miệt chúng. Chimal và ba đồng bọn đang bị đè xuống giữa phòng giặt. Miệng bốn đứa bị dán kín băng keo. Hai thằng Ông Kễnh đã bị lột truồng. Một thằng đang run. Từ hàng thứ năm, tựa vào một cây cột, Haas nhìn mắt Chimal. Rõ là nó muốn nói gì đấy. Tụi kia mà gỡ băng dính ra thì thằng này chắc sẽ diễn thuyết một tràng với chính những thằng đang bắt giữ nó, gã nghĩ. Từ một cửa sổ, vài cai ngục quan sát cảnh tượng đang diễn ra trong phòng giặt. Ánh sáng chiếu vào qua cửa sổ có màu vàng và trở nên tù mù khi so với ánh sáng tỏa ra từ các bóng đèn huỳnh quang trong phòng giặt. Haas để ý thấy các cai ngục đã bỏ mũ ra. Một người cầm máy ảnh. Một thằng tù tên Ayala lại gần hai thằng Ông Kễnh trần truồng, rạch bìu dái chúng ra. Bọn tù nhân đang đè chặt mấy thằng Ông Kễnh đờ người ra. Điện, Haas nghĩ, sinh lực thuần khiết. Ayala dường như đang moi cho đến khi hai hòn dái mấy thằng kia rớt xuống, bọc kín trong mỡ, máu và thứ gì đó lóng lánh mà hắn không biết (và cũng không muốn biết) là gì. Thằng này là ai? Haas hỏi. Ayala, El Tequila thì thào, lá gan thép vùng biên giới. Gan thép? Haas băn khoăn. Sau đó El Tequila giải thích cho gã rằng trong số nhiều cái chết có thể quy cho Ayala, có cái chết của tám kẻ vượt biên được hắn chở sang Arizona trên một chiếc xe tải nhỏ. Sau ba ngày vắng mặt, Ayala quay lại Santa Teresa, nhưng chẳng ai nghe nhắc gì về chiếc xe tải và tám người di cư cho đến khi dân Mẽo phát hiện ra cái xác xe, máu vương khắp nơi, tuồng như Ayala, trước khi quay về, đã chặt nhỏ các xác chết ra. Đã xảy ra chuyện ghê gớm nào đó, cảnh sát tuần biên nói, nhưng vì không có cái xác nào nên vụ này nhanh chóng bị lãng quên. Ayala đã làm gì mấy cái xác? Theo El Tequila thì hắn đã ăn sạch, cái thằng đó khùng và ác đến cỡ đó đấy, tuy nhiên Haas thấy khó mà tin được, làm gì có ai có khả năng ăn tươi nuốt sống tám người nhập cư bất hợp pháp cho dù hắn có khùng và đói đến cỡ nào chăng nữa. Một trong hai thằng Ông Kễnh vừa bị thiến ngất đi. Thằng kia nhắm mắt và mạch máu trên cổ tuồng như sắp nổ tung. Giờ thì cạnh Ayala là Farfán, và hai thằng cùng đóng vai chủ lễ. Dẹp cha cái này đi, Farfán nói. Gómez hốt mấy hòn dái lên khỏi sàn và bình luận chúng trông như trứng rùa. Vừa xinh vừa mềm, hắn nói. Vài khán giả rì rầm tán thành và không ai cười. Sau đó Ayala và Farfán, mỗi thằng cầm một cán chổi dài chừng bảy chục phân, tiến về phía Chimal và thằng Ông Kễnh kia.
♣ ♣ ♣Đầu tháng Mười một, María Sandra Rosales Zepeda, băm mốt tuổi, gái điếm hành nghề trên vỉa hè bên ngoài quán bar Pancho Villa, bị giết. María Sandra sinh tại một thị trấn bang Nayarit, lên Santa Teresa năm mười tám, làm việc ở nhà máy Horizon W&E và El Mueble Mexicano. Năm hăm hai tuổi cô thành gái đứng đường. Vào đêm cô bị giết có ít nhất năm cô nữa ở trên phố. Theo các nhân chứng, một chiếc Suburban đỗ lại gần các cô gái. Trong xe có ít nhất ba gã đàn ông. Loa trong xe phát nhạc to hết cỡ. Mấy gã đàn ông gọi một người trong đám phụ nữ ra nói chuyện một hồi. Rồi người phụ nữ rời khỏi chiếc Suburban và đám đàn ông gọi María Sandra. Cô dựa vào cửa sổ chiếc Suburban đang mở, như thể sẵn sàng trao đổi lâu về mức thù lao cô muốn. Nhưng cuộc nói chuyện chỉ kéo dài không quá một phút. Một gã đàn ông rút súng bắn cô ở cự ly gần. María Sandra ngã ngửa ra sau và trong mấy giây các cô điếm đang chờ trên vỉa hè chẳng hiểu có chuyện gì. Sau đó họ thấy một cánh tay thò ra ngoài cửa sổ xe bắn thêm phát nữa vào María Sandra lúc bấy giờ đã nằm trên đất. Sau đó chiếc Suburban chuyển bánh biến mất về phía trung tâm thành phố. Vụ này được thanh tra Ángel Fernández đảm trách, sau đó có thêm Epifanio Galindo tình nguyện tham gia. Chẳng ai nhớ biển số chiếc Suburban. Cô điếm đã nói chuyện với đám lạ mặt nói họ hỏi cô về María Sandra. Họ nói về cô tuồng như đã nghe tiếng cô, như đã có người nhắc đến cô bằng những lời lẽ tốt đẹp nhất. Bọn họ có ba người và muốn làm ăn gì đó với cô. Mặt mũi họ thế nào thì cô này không nhớ rõ lắm. Họ là người Mexico, cách phát âm giống dân Sonora và nom có vẻ buông tuồng, sẵn sàng chơi bời thâu đêm suốt sáng. Theo một tay chỉ điểm của Epifanio Galindo, một tiếng đồng hồ sau khi María Sandra bị giết thì ba kẻ này xuất hiện ở quán bar Los Zancudos. Cả bọn đều đang cao hứng, uống mezcal hết cốc này đến cốc kia y như người ta ăn lạc. Đến một lúc thì một gã rút súng từ thắt lưng chĩa lên trần, làm như định bắn tan xác một con nhện. Chẳng ai nói năng gì thế là tay này cất súng đi. Theo tay chỉ điểm, đó là một khẩu Glock của Áo ổ đạn mười lăm viên. Lát sau người thứ tư nhập bọn, một gã cao gầy mặc sơ mi trắng, tốp kia uống rượu cùng gã này một chặp, sau đó cả bọn bỏ đi trên một chiếc Dodge màu đỏ tươi. Epifanio hỏi tai mắt của mình xem có phải bọn kia đến quán bar bằng chiếc Suburban không. Tai mắt nói là anh ta không biết, chỉ biết là họ rời quán trên một chiếc Dodge đỏ tươi. Hai viên đạn đoạt mạng María Sandra là từ một khẩu Browning 7,65 ly. Khẩu Glock là dòng Parabellum 9 ly. Có lẽ, Epifanio nghĩ, chúng giết cô gái tội nghiệp bằng một khẩu súng máy skorpion, của Tiệp, một món vũ khí anh không hề thích, mặc dù dạo gần đây một số model đã bắt đầu xuất hiện khá nhiều ở Santa Teresa, nhất là ở những băng đảng nhỏ chuyên buôn ma túy hoặc mấy đám bắt cóc từ Sinaloa.
♣ ♣ ♣Tin tức chiếm chưa hết một cột trên các báo Santa Teresa và chẳng được mấy tờ khác trong cả nước đăng lại. Ân đền oán trả trong tù, tít bài chạy như vậy. Bốn thành viên băng Ông Kễnh, đang bị giam chờ xét xử, đã bị tù nhân ở nhà tù Santa Teresa thảm sát. Người ta phát hiện xác chúng chồng đống trong kho phòng giặt. Sau đó lại thêm xác hai cựu thành viên băng Ông Kễnh ở khu vệ sinh. Cảnh sát và lực lượng an ninh nhà tù đã tiến hành điều tra nhưng không làm rõ được động cơ hay danh tính hung thủ.
♣ ♣ ♣Khi luật sư của Haas đến gặp gã vào giữa trưa, gã cho bà hay gã đã chứng kiến vụ giết đám Ông Kễnh. Cả khu xà lim đều có mặt, Haas nói. Cai ngục đứng nhìn qua một thứ như kiểu ô kính ở sàn nhà phía trên. Họ chụp ảnh. Chẳng ai làm gì hết. Bọn Ông Kễnh bị làm thịt. Lỗ nhị chúng bị xẻo nát. Mấy chữ này kinh khủng quá hén? Haas hỏi. Chimal, thằng cầm đầu, hét lên bảo tụi kia giết nó đi. Tụi kia hắt nước vào nó năm lần cho nó tỉnh lại. Bọn hành hình tránh sang bên để cai ngục chụp hình cho đẹp. Chúng tránh sang bên và dẹp cả đám khán giả. Tôi không đứng ở hàng đầu. Tôi thấy hết vì tôi cao. Lạ thật: ruột gan tôi không nhộn nhạo. Lạ thật, lạ quá: tôi chứng kiến cuộc hành hình từ đầu chí cuối. Thằng hành hình có vẻ sung sướng. Tên nó là Ayala. Một thằng khác giúp nó, một thằng rất xấu xí cùng xà lim với tôi, tên là Farfán. Tình nhân của Farfán, thằng Gómez, cũng tham gia. Tôi không biết mấy thằng Ông Kễnh được phát hiện sau đó trong phòng tắm là do ai giết, nhưng bốn thằng này thì do Ayala, Farfán và Gómez, thêm sáu thằng khác giúp sức đè bốn thằng đó xuống. Có khi nhiều hơn. À không phải sáu, cứ cho là mười hai. Và tất tật những thằng trong khu xà lim bọn tôi đứng đó nhìn chả làm gì. Thế anh tưởng ở ngoài người ta không biết chuyện này à? luật sư hỏi. Chà, Klaus ơi, anh ngây thơ quá. Không, ngu mới đúng, Haas nói. Nhưng nếu biết thì sao người ta không nói gì? Vì người ta kín miệng, Klaus ạ, luật sư nói. Nhà báo cũng vậy sao? Haas hỏi. Họ kín miệng hơn ai hết, luật sư nói. Với họ, kín miệng đồng nghĩa với tiền. Kín miệng là tiền? Haas hỏi. Giờ thì anh hiểu rồi đó, luật sư nói. Anh có biết tại sao bọn kia giết băng Ông Kễnh không? Tôi không biết, Haas nói, chỉ biết chúng không ở trên thảm hoa hồng. Luật sư cả cười. Vì tiền, bà nói. Lũ thú vật đó đã giết con gái một ông nhà giàu. Mọi thứ khác đều chẳng liên quan. Toàn ba láp hết, luật sư nói.
♣ ♣ ♣Giữa tháng Mười một, người ta phát hiện một xác phụ nữ khác ở hẻm núi Podestá. Sọ cô có nhiều vết nứt, não mất hết. Vài dấu vết trên cơ thể cho thấy cô đã chống cự. Khi cô được tìm thấy, quần cô bị kéo xuống tận đầu gối, nên người ta đoán cô đã bị hãm hiếp tuy nhiên sau khi khám nghiệm âm đạo thì giả thuyết này bị loại bỏ. Năm ngày sau người ta xác định được danh tính nạn nhân. Cô là Luisa Cardona Pardo, ba tư tuổi, cư dân bang Sinaloa, hành nghề mại dâm ở đó từ năm mười bảy tuổi. Tại thời điểm hiện tại cô đã sống ở Santa Teresa được bốn năm và làm việc tại nhà máy EMSA. Trước đó cô làm hầu bàn và có một sạp bán hoa ở khu trung tâm. Cô không có tên trong hồ sơ của cảnh sát thành phố. Cô sống cùng người bạn gái ở một căn nhà sơ sài, nhưng có điện và nước máy, ở quận Preciada. Bạn cô, cũng là công nhân EMSA, kể với cảnh sát rằng hồi đầu Luisa có nhắc đến chuyện di cư sang Mỹ và thậm chí đã bàn bạc với một pollero, nhưng cuối cùng cô quyết định ở lại thành phố. Cảnh sát thẩm vấn một số đồng nghiệp trong nhà máy của cô rồi sau đó khép vụ án lại.
♣ ♣ ♣Ba ngày sau vụ phát hiện xác của Luisa Cardona, một xác phụ nữ khác được tìm thấy ở hẻm núi Podestá. Các cảnh sát tuần tra Santiago Ordóñez và Olegario Cura phát hiện ra xác. Ordóñez và Cura làm gì ở đấy? Tò mò đi quanh thôi, Ordóñez thú nhận, về sau anh ta nói họ đến đấy bởi Cura nằng nặc đòi đi. Khu vực họ được phân công ngày hôm ấy trải từ El Cerezal đến Las Cumbres, nhưng Lalo Cura bảo cậu muốn xem nơi người ta thấy xác Luisa Cardona, và Ordóñez, lúc đó đang lái xe, không phản đối. Họ đỗ xe tuần tra trên đỉnh hẻm núi rồi đi xuống một lối mòn dốc. Hẻm núi Podestá không lớn lắm. Dải băng bảo vệ hiện trường vẫn còn đó, quấn nhằng nhịt giữa cây bụi và đá vàng đá xám. Theo lời Ordóñez, Lalo Cura hành động kỳ quặc một hồi, kiểu như đo đạc mặt đất và đo độ cao các vách, nhìn lên đỉnh hẻm núi rồi tính toán cái vòng cung mà xác Laura Cardona ắt đã vẽ nên trong khi rơi xuống. Hồi lâu sau, khi Ordóñez đâm chán rồi, Lalo Cura bảo anh ta tên giết người hoặc những tên giết người vứt xác ở chính chỗ này cốt để người ta bắt gặp xác càng sớm càng tốt. Khi Ordóñez bác lại, nói chỗ này đâu có nhiều người qua lại, Lalo Cura liền chỉ lên mép hẻm núi. Ordónez nhìn lên thì thấy ba đứa trẻ con, hay có thể là một người lớn và hai đứa trẻ con, đều mặc quần soóc, đang chăm chú quan sát họ. Rồi Lalo Cura bắt đầu đi về đầu mút phía Nam của hẻm núi còn Ordóñez ngồi lên một tảng đá, vừa hút thuốc vừa nghĩ có khi anh ta nên vào làm ở sở cứu hỏa. Lát sau, khi Lalo đã khuất khỏi tầm mắt, anh ta nghe có tiếng huýt sáo liền đi theo cộng sự. Khi đến chỗ Lalo thì anh ta thấy xác người phụ nữ dưới chân. Cô ta mặc cái gì đó giống như áo cánh, bị rách một bên, lõa thể từ thắt lưng trở xuống. Theo Ordóñez, vẻ mặt Lalo Cura rất lạ, không phải ngạc nhiên mà là vui sướng. Vui sướng là sao? Cậu ta cười to à? Mỉm cười? người ta hỏi. Cậu ta không mỉm cười, Ordóñez nói, cậu ta có vẻ tập trung, tập trung cao độ, như thể không phải cậu ta đang có mặt ở đó, không phải là vào lúc đó, mà như thể cậu ta đang có mặt ở hẻm núi Podestá, nhưng vào một thời điểm khác, cái lúc ả điếm này bị giết. Khi Ordóñez lại gần Lalo Cura liền bảo anh ta đừng nhúc nhích. Cậu đang cầm một cuốn sổ nhỏ, cậu đã rút cây bút chì ra và đang ghi lại tất cả những gì cậu thấy. Cô ta xăm mình, anh ta nghe Lalo Cura nói. Xăm đẹp lắm. Nhìn tư thế thì tôi đoán cô ta đã bị vặn gãy cổ. Nhưng trước đó có lẽ đã bị hiếp. Xăm ở đâu? Ordóñez hỏi. Ở đùi trái, anh ta nghe cộng sự nói. Sau đó Lalo Cura đứng dậy nhìn quanh tìm chỗ quần áo còn thiếu. Chỉ thấy báo cũ, vỏ hộp đã gỉ, bao ni lông rách toác. Quần cô ta không có đây, cậu nói. Sau đó cậu bảo Ordóñez về xe gọi cảnh sát. Người chết cao một mét bảy, tóc đen dài. Cô ta không có giấy tờ gì giúp xác định danh tính. Không ai đến nhận xác. Vụ việc nhanh chóng bị xếp xó.
♣ ♣ ♣Khi Epifanio hỏi sao Lalo Cura lại tới hẻm núi Podestá, Lalo đáp vì cậu là cảnh sát. Thằng nhãi ranh, Epifanio nói, chỗ nào người ta không gọi thì đừng có tới nghe chua. Đoạn Epifanio túm tay Lalo, nhìn thẳng vào mặt cậu nói anh muốn biết sự thực. Tôi nghĩ, Lalo Cura nói, thật lạ là suốt thời gian vừa rồi chẳng có xác phụ nữ nào xuất hiện ở hẻm núi Podestá. Tổ cha mày, làm sao mày biết chuyện đó? Vì tôi đọc báo, Lalo Cura nói. Đồ oắt con, có thật mày đọc báo không? Thật, Lalo Cura nói. Chắc mày đọc cả sách nữa chớ gì? Phải, Lalo Cura nói. Mấy cuốn sách hãm lờ dành cho tụi hãm lờ mà tao đưa cho mày hả? Các phương pháp điều tra tội phạm hiện đại của cựu giám đốc Viện Cảnh sát Công nghệ Quốc gia Thụy Điển, ông Harry Söderman, và cựu chủ tịch Hiệp hội Quốc tế Cảnh sát trưởng, cựu thanh tra John J.O’Connell, Lalo Cura nói. Vậy nếu mấy thằng cha siêu cảnh sát đó đã cừ tới cỡ ấy thì sao bây giờ đám đấy chỉ là những thằng cựu đầu bò? Epifanio nói. Trả lời tao đi, thằng nhãi. Mày không biết là trong điều tra tội phạm làm gì có cái phương pháp hiện đại nào, hả thằng chó vắt mũi chưa sạch? Mày còn chưa đủ hai mươi tuổi kia mà, hay tao lầm? Anh không lầm đâu, Epifanio, Lalo Cura nói. Vậy thì phải cẩn thận, người hùng ạ, đó là quy tắc đầu tiên và duy nhất, Epifanio nói rồi buông tay Lalo ra và mỉm cười ôm cậu, dẫn cậu đi ăn ở nơi duy nhất có món pozole ở khu trung tâm Santa Teresa vào cái giờ khuya khoắt như thế.
♣ ♣ ♣Tháng Mười hai - và đây là các nạn nhân cuối cùng trong năm 1996 - xác Estefanía Rivas, mười lăm tuổi, và Herminia Noriega, mười ba tuổi, được phát hiện trong một căn nhà trống trên phố García Herrero, quận El Cerezal. Họ là chị em cùng mẹ khác cha. Cha Estefanía đã biến mất ngay sau khi cô ra đời. Cha Herminia sống cùng vợ con và làm bảo vệ trực đêm ở nhà máy MachenCorp., cùng nơi bà mẹ làm thợ vận hành máy, còn hai chị em vẫn đang đi học và giúp làm việc nhà, tuy nhiên Estefanía đang định sang năm bỏ học để đi làm. Sáng hôm bị bắt cóc hai chị em đều đang trên đường đi học, cùng hai em gái, một đứa mười một tuổi đứa kia bảy tuổi. Hai đứa em và Herminia đến trường tiểu học José Vasconcelos. Ngày nào cũng vậy, sau khi để ba đứa em ở đấy, Estefanía đi bộ qua mười lăm khối nhà đến trường của mình. Tuy nhiên, hôm xảy ra vụ bắt cóc, một chiếc xe hơi dừng lại cạnh bốn chị em, một người đàn ông xuống xe đẩy Estefanía vào trong xe rồi lại xuống đẩy tiếp Herminia vào và rồi xe biến mất. Hai đứa nhỏ chết điếng trên vỉa hè sau đó cuốc bộ về nhà, nhưng lúc ấy không ai ở nhà nên chúng gọi cửa hàng xóm, thuật lại sự tình rồi cuối cùng òa khóc. Người phụ nữ cho chúng vào nhà, vốn là công nhân nhà máy Horizon W&E, liền đi gọi một hàng xóm khác rồi sau đó gọi điện đến nhà máy MachenCorp. định tìm cha mẹ hai cô bé. Người ở MachenCorp. thông báo nhà máy cấm gọi điện vì việc riêng rồi cúp máy. Người phụ nữ gọi điện lần nữa lặp lại tên và chức vụ của người cha, vì bà chợt nghĩ ra rằng người mẹ, vốn cũng là thợ chạy máy như bà, chắc chắn bị coi nhẹ hơn, tức là có thể bị sa thải bất cứ lúc nào vì bất cứ căn cớ nào hoặc bất cứ lý do ngẫu hứng nào, và lần này tổng đài viên bắt bà chờ lâu đến nỗi bà hết cả tiền xu và điện thoại ngắt. Bà không còn tiền nữa. Ngã lòng, bà quay về nhà, nơi bà hàng xóm kia cùng hai cô bé đang đợi, và suốt một hồi bốn người kinh qua một trải nghiệm kiểu như đang ở trong luyện ngục, một sự chờ đợi dài không ai giúp đỡ, một sự chờ đợi có xương sống là sự chơ vơ, một cái gì rất Mỹ La tinh, mặt khác, cũng là một cảm giác quá ư quen thuộc, một cảm giác mà nếu nghĩ đến, ta sẽ nhận ra ta vẫn nếm trải nó hằng ngày, chỉ là trừ đi nỗi tuyệt vọng, trừ đi bóng của cái chết quét qua khu phố như một bầy kền kền trùm lên tất cả, đảo lộn thói thường của tất cả, lật ngược tất cả. Vậy là, trong khi họ chờ cha của hai cô bé về nhà, bà hàng xóm (để giết thì giờ và giết nỗi sợ) nghĩ đến chuyện bà muốn có một khẩu súng để cầm theo ra phố. Rồi sau đó thì sao? Thì bà sẽ nã vài phát súng lên trời cho hả giận và hét Mexico muôn năm hầu khơi dậy lòng can đảm hoặc để cảm nhận hơi ấm trào lên lần cuối rồi dùng tay không đào một cái hố, đào nhanh khôn tả xiết, một cái hố giữa con phố bằng đất thịt bị nén chặt, đào xong thì chôn mình vào đấy, sũng đến tận xương, mãi mãi. Khi cuối cùng cha của hai cô bé kia cũng về thì tất cả mọi người kéo đến đồn cảnh sát gần nhất. Ở đấy, sau khi trình bày ngắn gọn (hoặc lung tung rời rạc) về vụ việc, họ phải chờ hơn một tiếng thì mới có hai thanh tra xuất hiện. Các thanh tra hỏi lại họ cũng chừng ấy câu hỏi và thêm vài câu mới, đặc biệt là về chiếc xe đã bắt Estefanía và Herminia đi. Lát sau thì có bốn tranh tra trong văn phòng nơi hai cô bé đang bị thẩm vấn. Một trong số đó, xem chừng là người tử tế, yêu cầu bà hàng xóm đi cùng họ rồi đưa hai cô bé đến nhà xe của đồn cảnh sát, hỏi hai cô bé xem trong số xe đang đỗ ở đấy xe nào giống nhất với chiếc xe đã bắt hai cô chị. Với thông tin có được từ hai cô bé, thanh tra này liền bảo chiếc xe cần tìm là một chiếc Peregrino hoặc Arquero màu đen. Lúc năm giờ chiều mẹ hai cô bé kia đến đồn cảnh sát. Lúc ấy một trong hai bà hàng xóm đã ra về còn bà kia cứ ôm chặt cô bé nhỏ nhất mà khóc mãi. Tám giờ tối hôm ấy, Ortiz Rebolledo đến và tổ chức hai đội truy tìm, một đội do thanh tra Juan de Dios Martínez và Lino Rivera chỉ huy, có nhiệm vụ thẩm vấn bạn bè và gia đình hai cô bé, đội kia do hai thanh tra Ángel Hernández và Efraín Bustelo phối hợp chỉ huy, với sự giúp sức của cảnh sát thành phố, tìm chiếc Peregrino hoặc Arquero hoặc chiếc Lincoln hình như đã bắt hai cô bé đi. Juan de Dios Martínez công khai tỏ ra không đồng tình với giải pháp này, bởi theo anh hai đội nên hợp lực tìm chiếc xe. Lý lẽ chủ yếu của anh là chẳng mấy người, nếu không muốn nói là không một ai, trong số bạn bè, người thân và đồng nghiệp của gia đình Noriega có xe hơi, chứ chưa nói gì đến xe Peregrino đen hay Chevy Astra đen, vì hầu như tất cả bọn họ đều có thể xếp vào hạng trường kỳ đi bộ, một số nghèo đến nỗi thậm chí không có tiền bắt xe buýt đi làm, họ thà cuốc bộ để tiết kiệm vài xu còn hơn. Câu trả lời của Ortiz Rebolledo rất dứt khoát: bất cứ ai cũng có thể trộm một chiếc Peregrino, bất cứ ai cũng có thể ăn cắp một chiếc Arquero hay Boro hay Jetta, không cần phải có tiền hay bằng lái, chỉ cần anh biết cách mở cửa và khởi động xe. Thế nên hai đội vẫn được chia ra theo lệnh Ortiz Rebolledo và các cảnh sát, mặt phờ phạc giống như đám lính bị bẫy trong một miền cong thời gian hết lần này đến lần khác đều gặp cùng một thất bại, liền bắt tay vào việc. Ngay đêm ấy, sau một hồi điều tra, Juan de Dios Martínez biết Estefanía có một bạn trai hoặc một người còn đương ngấp nghé, một cậu trai hơi khùng, mười chín tuổi, tên Ronald Luis Luque, còn gọi là Lucky Strike, hay Ronnie, hay Ronnie el Mágico, từng bị bắt giam hai lần vì trộm xe hơi. Khi ra tù, Ronald Luis từng ở chung nhà với một người tên là Felipe Escalante, vốn quen cậu ta trong tù. Escalante là tay trộm xe hơi chuyên nghiệp và cũng từng bị điều tra, nhưng không bị kết tội, về vụ hãm hiếp một trẻ vị thành niên. Ronald Luis sống chung với Escalante năm tháng sau đó chuyển đi nơi khác. Ngay tối đó, Juan de Dios Martínez đi gặp Escalante. Theo lời gã, bạn tù cũ của gã không tự nguyện chuyển đi mà đã bị đuổi vì không chịu đóng góp bất cứ khoản tiền gì. Escalante hiện làm nghề xếp hàng hóa ở một siêu thị và không còn kiếm sống phi pháp nữa. Đã nhiều năm rồi tôi không trộm chiếc xe nào cả sếp ơi, tôi thề, y nói rồi hôn những ngón tay y giơ lên làm dấu thánh. Thực vậy, thậm chí một cái bánh xe y còn không có, đi đâu y cũng dùng xe buýt, không thì cuốc bộ, tiết kiệm hơn và lại còn cho y có cảm giác tự do. Khi được hỏi liệu cái cậu được gọi là Lucky Strike ấy có khi nào ăn cắp xe hơi không, Escalante bảo y nghĩ là không, mặc dù có Chúa chứng giám y không dám nói liều, về mấy chuyện ấy thì cái thằng chó đó khó lường lắm. Những người được thẩm vấn khác có vẻ đều xác nhận điều Escalante nói: Ronnie El Mágico là thằng lười chảy thây vô tích sự, nhưng không phải hạng đầu trộm đuôi cướp hay đầu gấu, cũng không phải loại người hay bạo hành, ít nhất là không bạo hành chỉ để bạo hành, và hầu hết đều nghĩ rằng không đời nào có chuyện thằng ấy lại bắt cóc bạn gái mình và cả em gái người yêu. Giờ thì Ronald Luis sống cùng cha mẹ và vẫn chưa tìm được việc làm. Juan de Dios Martínez đến thẳng đấy, nói chuyện với cha của Ronnie, ông này miễn cưỡng cho anh vào và nói con ông đã bỏ đi ít lâu sau vụ bắt cóc Estefanía và Herminia. Thanh tra hỏi liệu anh có thể nhìn quanh được không. Cứ thoải mái, cha của Ronnie nói. Juan de Dios Martínez săm soi một hồi căn phòng mà Ronnie ở cùng ba đứa em, mặc dù ngay từ đầu anh đã biết chẳng có gì để mà tìm. Rồi anh ra sân châm một điếu thuốc trong khi ngắm hoàng hôn màu cam và tím đổ xuống trên thành phố ma. Ông bảo nó đi đâu nhỉ? anh hỏi. Yuma, người cha đáp. Ông đã đến Yuma lần nào chưa? Nhiều rồi, hồi còn trẻ: tôi đến đó, tìm được việc làm, bị tuần duyên bắt trả về Mexico, rồi sau đó tôi tiếp tục quay lại, nhiều lần, người cha nói. Cho đến khi tôi đâm chán, bắt đầu chí thú làm ăn ở đây và chăm lo cho bà lão nhà tôi với lũ con. Ông có nghĩ là chuyện với Ronald Luis cũng sẽ y như thế? Cầu Chúa là không, người cha nói. Ba ngày sau, Juan de Dios Martínez nghe tin nhóm truy tìm chiếc xe màu đen được dùng trong vụ bắt cóc đã bị giải tán. Khi anh chất vấn Ortiz Rebolledo thì được biết đó là lệnh ở trên. Dường như cảnh sát đã quấy rầy một số con cá bự mà con cái họ, những Ông Lớn của Santa Teresa, sở hữu gần như toàn bộ đội xe Peregrino của thành phố này (nó là loại xe thời thượng dành cho đám thanh niên con nhà đại gia, cũng như xe Arcángel hay Desertwind mui trần), thế là họ đánh tiếng yêu cầu cảnh sát đừng có làm phiền họ nữa. Bốn ngày sau cảnh sát nhận được một cuộc gọi nặc danh thông báo có mấy phát súng nổ ở một căn nhà trên phố García Herrero. Nửa tiếng sau một xe tuần tra đến. Viên cảnh sát bấm chuông mấy lần song không ai mở cửa. Khi được hỏi thì hàng xóm nói họ chẳng nghe thấy gì, mặc dù sự điếc bất ngờ ấy có lẽ có liên quan đến âm lượng tivi nhà họ, mở quá to đến nỗi ngoài phố cũng nghe thấy. Nhưng một chú bé nói khi đạp xe ngang qua thì chú có nghe thấy tiếng súng. Hỏi hàng xóm ai sống trong nhà ấy thì các câu trả lời không giống nhau, nên cảnh sát tuần tra nghĩ chắc hẳn đấy là mấy tay buôn ma túy và tốt nhất họ nên đi thôi, không động vào làm gì. Tuy nhiên, một hàng xóm nói ông ta từng thấy một chiếc Peregrino màu đen đỗ ngoài căn nhà. Thế là cảnh sát liền rút súng ra và lại gõ cửa nhà số 677 phố García Herrero một lần nữa, nhưng kết quả vẫn như trước. Sau đó họ gọi bộ đàm về đồn cảnh sát rồi đợi. Nửa giờ sau một xe tuần tra nữa đến, họ bảo là để hỗ trợ, và ngay sau đó là Juan de Dios Martínez và Lino Rivera. Theo Lino, trên có lệnh phải đợi các thanh tra khác. Nhưng Juan de Dios Martínez bảo không còn thì giờ nữa thế là các cảnh sát tuần tra, theo mệnh lệnh tức thời của Juan, liền phá cửa. Juan de Dios Martínez vào nhà đầu tiên. Nhà sặc mùi tinh dịch và mùi rượu, anh nói. Tinh dịch và rượu có mùi ra sao? Khó ngửi, Juan de Dios Martínez nói, rất khó ngửi. Nhưng ta sẽ quen dần. Không như mùi thịt ôi, cái mùi ta chẳng bao giờ quen nổi và cứ len lỏi vào trong đầu ta, vào tận những ý nghĩ của ta, và cho dù ta có tắm rửa thay đồ ba lần một ngày thì nó vẫn cứ xộc lên hàng mấy ngày liền, mấy tuần liền, có khi mấy tháng liền. Theo sau Juan là Lino Rivera, không thêm ai khác. Đừng đụng vào cái gì hết, Lino nhớ Juan de Dios Martínez có nói vậy. Đầu tiên họ xem xét phòng khách. Bình thường. Bàn ghế rẻ tiền nhưng tươm tất, một bàn để báo, đừng đụng vào, Juan de Dios nói, trong phòng ăn có hai chai tequila Sauza và một chai vodka Absolut, cả ba đều rỗng. Phòng bếp sạch. Bình thường. Giấy gói đồ ăn McDonald’s trong sọt rác. Sàn sạch. Cửa sổ bếp trông ra một khoảnh sân nhỏ, một nửa lát xi măng, một nửa khô queo, có vài ba cây bụi bám lấy bức tường ngăn sân hai nhà. Không có gì khác thường. Sau đó họ đi ra nhà sau. Juan de Dios đi trước, Lino Rivera theo sau. Hành lang. Phòng ngủ. Có hai phòng ngủ. Ở một phòng, nằm sấp trên giường, là xác chết trần truồng của Herminia. Ôi mẹ kiếp, Juan de Dios nghe Lino Rivera lẩm bẩm. Trong buồng tắm, cuộn mình dưới vòi hoa sen, hai tay bị trói quặt sau lưng, là xác Estefanía. Đứng yên trong hành lang. Đừng vào, Juan de Dios nói. Riêng anh thì vào trong buồng tắm. Anh vào quỳ xuống cạnh xác Estefanía, chăm chú xem xét, cho đến khi mất hết ý niệm về thời gian. Sau lưng, anh nghe thấy tiếng Lino nói chuyện qua bộ đàm. Gọi pháp y đến đây, Juan de Dios nói. Theo bác sĩ pháp y, Estefanía bị bắn hai phát vào gáy. Trước đó con bé đã bị đánh đập và có vẻ đã bị siết cổ. Nhưng con bé không chết vì bị siết cổ, bác sĩ pháp y nói. Chúng chỉ chơi trò siết cổ thôi. Vết xây xát lộ rõ ở hai mắt cá chân. Tôi cho là con bé bị treo ngược lên, bác sĩ pháp y nói. Juan de Dios ngẩng lên trần tìm xà nhà hay một cái móc. Căn nhà đông kín cảnh sát. Ai đó đã phủ chăn lên Herminia. Ở phòng ngủ kia họ thấy một cái móc sắt bắt vít vào trần nhà, khoảng giữa hai cái giường. Juan de Dios nhắm mắt hình dung Estefanía bị treo chúc đầu xuống. Anh gọi hai cảnh sát, bảo tìm dây thừng. Bác sĩ pháp y đang ở bên phòng Herminia. Con bé cũng bị bắn vào gáy, bác sĩ pháp y bảo Juan de Dios khi anh lại gần, nhưng tôi không tin đó là nguyên nhân tử vong. Vậy thì tại sao chúng bắn con bé? Juan de Dios hỏi. Để cho chắc. Tất cả cảnh sát không thuộc đội kỹ thuật hình sự ra khỏi nhà hết đi, Juan de Dios hét. Các cảnh sát theo chân nhau dần dần ra khỏi nhà. Ở phòng khách, hai cảnh sát ngồi xổm, vẻ kiệt quệ, đang tìm dấu tay. Tất cả ra ngoài, Juan de Dios hét. Ngồi trên sofa, Lino Rivera đọc một tờ tạp chí quyền Anh. Dây thừng đây sếp, một cảnh sát nói. Cảm ơn, Juan de Dios nói, giờ ra ngoài đi anh bạn, chỉ bên kỹ thuật ở lại thôi. Một người đang chụp ảnh hạ máy ảnh xuống nháy mắt với Juan. Chuyện này không bao giờ kết thúc nhỉ, Juan de Dios? Không bao giờ kết thúc, không bao giờ kết thúc, anh đáp, buông mình xuống cái sofa Lino Rivera đang ngồi và châm một điếu thuốc. Cứ bình tĩnh bồ ơi, viên thanh tra nói. Anh hút chưa hết điếu thuốc thì đã bị bác sĩ pháp y gọi vào phòng ngủ. Cả hai chị em đều bị hãm hiếp, tôi dám nói là nhiều lần, qua hai đường, riêng cô chị trong buồng tắm thì có lẽ qua ba đường. Cả hai đều bị tra tấn. Nguyên nhân tử vong của một đứa đã rõ ràng. Ở đứa kia thì chưa chắc. Mai tôi sẽ gửi báo cáo chính thức cho anh. Giờ thì dẹp đường cho tôi đưa xác đến nhà xác, bác sĩ pháp y nói. Juan de Dios ra sân bảo một cảnh sát là người ta sắp chuyển xác đi. Vỉa hè đông nghẹt người hóng hớt. Lạ thật, Juan de Dios nghĩ khi chiếc xe cứu thương biến mất về hướng Viện Giải phẫu Pháp y, đột ngột, chỉ trong vài giây, mọi chuyện đã thay đổi. Một giờ sau, khi Ortiz Rebolledo và Ángel Fernández xuất hiện, Juan de Dios đang phỏng vấn hàng xóm. Người thì bảo ở số 677 có một cặp vợ chồng cư ngụ, người lại nói là ba cậu con trai, hay đúng hơn là một người đàn ông và hai cậu trai, chỉ đến đó để ngủ, người khác thì nói đó là một người đàn ông lạ mặt chẳng nói năng gì với bà con lối xóm và đôi khi vắng mặt nhiều ngày, tuồng như y làm việc ở ngoài Santa Teresa, có lúc y lại mấy ngày liền không ra khỏi nhà, xem tivi rất khuya hoặc nghe corridos và danzones rồi ngủ đến quá trưa. Những người khẳng định rằng cư dân sống tại số nhà 677 là một cặp vợ chồng bảo cặp ấy có một chiếc Combi hay một chiếc xe van kiểu tương tự, cả hai cùng lái xe ấy đi làm. Làm công việc kiểu gì? Họ không biết, nhưng một người trong số đó bảo chắc làm bồi bàn. Những ai cho rằng sống trong nhà đó là một người đàn ông cùng hai cậu trai thì nói là người đàn ông lái một chiếc xe van, thực ra có lẽ là một chiếc Combi. Những người bảo rằng sống ở nhà đó chỉ có độc một người đàn ông thì không thể nhớ người đó có xe hay không, tuy nhiên họ nói y thường có bạn bè đến thăm mà bạn bè y thì có xe. Vậy thì rốt cuộc cái đồ khỉ gió nào sống ở nhà ấy? Ortiz Rebolledo nói. Ta sẽ phải điều tra, Juan de Dios Martínez nói trước khi rời căn nhà. Ngày hôm sau, khi giám định pháp y đã hoàn tất, bác sĩ pháp y khẳng định lại những đánh giá ban đầu của mình và bổ sung rằng nguyên nhân tử vong của Herminia không phải là viên đạn vào gáy mà do trụy tim. Cô bé tội nghiệp không chịu nổi những trò tra tấn bạo hành, bác sĩ pháp y nói với một nhóm thanh tra cảnh sát. Không cách nào chịu nổi. Hung khí có lẽ là súng lục Smith &Wesson 9 ly. Căn nhà nơi họ tìm thấy xác là của một bà già chẳng biết mô tê gì, một bà già thuộc giới thượng lưu Santa Teresa sống nhờ tiền cho thuê địa ốc, bao gồm hầu hết các nhà trong khu phố ấy. Các cơ ngơi này được quản lý bởi một công ty địa ốc thuộc về một người cháu của bà già. Theo giấy tờ của nhân viên môi giới, vốn tất cả đều hợp pháp, người thuê căn nhà số 677 tên là Javier Ramos, trả tiền thuê nhà hằng tháng qua tài khoản ngân hàng. Sau khi đến ngân hàng điều tra, họ phát hiện ra Javier Ramos đã nộp hai số tiền lớn vào tài khoản, đủ trả sáu tháng tiền nhà cộng thêm tiền điện nước rồi sau đó chẳng ai còn thấy mặt y. Có một mẩu thông tin thú vị, đáng lưu ý, được Juan de Dios Martínez phát hiện ở Văn phòng Đăng ký Bất động sản, cụ thể là, các căn nhà lân cận trên phố García Herrero thảy đều thuộc quyền sở hữu của Pedro Rengifo, còn các căn nhà trên phố Tablada chạy song song với phố García Herrero thì đều là tài sản của một người tên Lorenzo Juan Hinojosa, vốn làm bung xung cho tay trùm ma túy Estanislao Campuzano. Không những thế, toàn bộ bất động sản trên phố Hortensia và phố Licenciado Cabezas, song song với phố Tablada, cũng đều được đăng ký dưới tên thị trưởng Santa Teresa hoặc con cái của ông này. Lại nữa: cách đó hai khối phố về phía Bắc, các nhà cửa và tòa nhà cao tầng trên phố Ingeniero Guillermo Ortiz là sở hữu của Pablo Negrete, anh em của Pedro Negrete và là vị hiệu trưởng khả kính của Đại học Santa Teresa. Lạ quá, Juan de Dios tự nhủ. Ta ở đấy cùng mấy cái xác và run rẩy. Rồi người ta đem xác đi thì ta hết run. Lão Rengifo có dính líu vào vụ hai cô bé này không? Campuzano có lửa cháy ngang mày vì vụ này không? Rengifo là trùm ma túy tốt. Campuzano là trùm ma túy tồi. Lạ quá, lạ quá, Juan de Dios tự nhủ. Chẳng ai lại hãm hiếp và giết người ngay ở nhà mình cả. Chẳng ai lại hãm hiếp và giết người ở gần nhà mình cả. Trừ phi kẻ đó điên và muốn bị tóm. Hai đêm sau khi các xác chết được phát hiện, bọn họ tụ tập ở một câu lạc bộ tư nhân ngoài trời có sân golf, với sự có mặt của thị trưởng Santa Teresa, José Refugio de las Heras, cảnh sát trưởng Pedro Negrete và ngài Pedro Rengifo cùng ngài Estanislao Campuzano. Cuộc gặp kéo dài đến bốn giờ sáng và đã làm rõ được một vài điều. Ngày hôm sau toàn bộ cảnh sát thành phố, có thể nói vậy, đều lao vào truy lùng Javier Ramos. Người ta sục sạo dưới từng tảng đá trong sa mạc để tìm hắn. Nhưng trên thực tế họ thậm chí chẳng phác ra nổi một bức chân dung có sức thuyết phục của hắn.
♣ ♣ ♣Suốt nhiều ngày Juan de Dios Martínez nghĩ về bốn cơn đau tim mà Herminia đã phải chịu trước khi chết. Đôi khi anh nghĩ về nó giữa lúc đang ăn hoặc đang tiểu tiện trong toilet nam ở quán cà phê hoặc ở một trong các địa điểm ăn trưa quen thuộc của thanh tra cảnh sát, hoặc trước khi đi ngủ, ngay khi anh tắt đèn, hay có thể là vài giây trước khi anh tắt đèn, và khi điều đó xảy ra thì anh chỉ là không thể tắt đèn, anh sẽ rời giường lại gần cửa sổ nhìn ra phố, một con phố bình thường, xấu xí, lặng câm, sáng tù mù, rồi anh vào bếp đun nước pha cà phê, và đôi khi, trong khi uống cà phê nóng không đường, thứ cà phê kinh tởm, anh bật tivi xem những chương trình đêm khuya truyền từ bốn phương xuyên qua sa mạc, vào lúc đêm về sáng thế này anh có thể xem các kênh của Mexico và kênh của Mỹ, có những thằng điên què cụt phi nước đại dưới trời sao và chào nhau bằng những lời không hiểu nổi, bằng tiếng Tây Ban Nha hoặc tiếng Anh hoặc Spanglish- tiếng Tây Ban Nha lai Anh, toàn những câu những lời khốn nạn không hiểu nổi, chừng đó Juan de Dios Martínez đặt tách cà phê xuống bàn, giơ hai tay lên ôm mặt rồi từ môi anh bật ra một tiếng nấc yếu ớt và chuẩn xác, tuồng như anh đang khóc hoặc cố khóc, nhưng khi cuối cùng anh bỏ tay ra thì, dưới ánh sáng của màn hình tivi, thứ duy nhất hiện ra là khuôn mặt già nua của anh, làn da già nua vô sinh khí và héo quắt của anh, không có lấy một chút xíu dấu vết nước mắt nào.
♣ ♣ ♣Khi anh kể với Elvira Campos về những gì đang xảy ra với mình, bà giám đốc nhà thương điên im lặng lắng nghe, thế rồi, rất lâu sau đó, khi hai người trần truồng nằm trong phòng ngủ tranh tối tranh sáng, bà thú nhận rằng thỉnh thoảng bà mơ được từ bỏ tất cả. Nói cách khác, dứt bỏ triệt để, không vương vấn gì. Chẳng hạn, bà mơ tới chuyện bán căn hộ cùng hai cơ ngơi khác bà đang sở hữu ở Santa Teresa, cả chiếc xe cả đồ trang sức, bán tất cho đến khi thu được món tiền kha khá, rồi bà mơ sẽ bay đến Paris, thuê một căn hộ bé tí, một studio, chẳng hạn như nằm giữa Villiers và Porte de Clichy, rồi bà sẽ đến gặp một bác sĩ lừng danh, một nhà phẫu thuật thẩm mỹ thần sầu, ông ta sẽ sửa mặt cho bà, chỉnh mũi và xương gò má, độn ngực cho bà, tóm lại rốt cuộc khi rời bàn phẫu thuật bà sẽ trông như một người khác, một phụ nữ khác, không phải là năm mấy tuổi nữa mà là bốn mấy, hay tốt hơn nữa là chỉ mới ngoài bốn mươi, không thể nhận ra được, mới mẻ, đổi thay, trẻ lại, mặc dù dĩ nhiên bà sẽ phải mất một dạo đi đâu cũng quấn băng khắp người, như một xác ướp, không phải xác ướp Ai Cập mà xác ướp Mexico, một việc mà bà hẳn sẽ thích, nghĩ mà xem, bà sẽ vào xe điện ngầm, biết rằng tất tật dân Paris đều kín đáo nhìn bà, có người còn nhường ghế cho bà, nghĩ đến hoặc tưởng tượng ra những đau đớn kinh khiếp, những vết bỏng, tai nạn xe cộ, mà người xa lạ lặng lẽ và khắc khổ này đã trải qua, rồi sau đó bà sẽ rời khỏi metro tiến vào một viện bảo tàng hoặc gallery hoặc một hiệu sách ở Montparnasse, và học tiếng Pháp hai tiếng đồng hồ mỗi ngày, một cách vui thích, một cách hào hứng, tiếng Pháp mới đẹp làm sao, ngôn ngữ gì mà đầy tính nhạc, nó có một vẻ je ne sais quoi nhất định, và sau đó, một sáng trời mưa, bỏ băng ra, chầm chậm, như một nhà khảo cổ vừa phát hiện một cái xương lạ thường, như một cô bé cẩn thận, từ từ, chầm chậm tháo giấy gói một món quà, món quà mà cô muốn làm cho trường tồn, mãi mãi, gần như mãi mãi, cho đến khi rốt cuộc miếng gạc rơi xuống, rơi xuống đâu? xuống sàn, xuống thảm hay xuống sàn ván, dù thế nào thì cũng xuống một cái sàn hạng nhất, và trên sàn tất cả các miếng gạc đều trườn như rắn, hoặc tất cả các miếng gạc đều mở những con mắt ngái ngủ ra như rắn, mặc dù bà biết chúng không phải rắn mà đúng hơn là những thiên thần hộ mệnh cho rắn, rồi sau đó ai đấy mang gương đến cho bà và bà ngắm chính mình, gật đầu với chính mình, phê duyệt chính mình, với một động tác mà ở nơi nó bà phát hiện lại cái quyền uy của tuổi thơ, rồi tình yêu thương của cha mẹ bà, thế rồi bà ký cái gì đó, một tờ giấy, một văn bản, một tấm séc, rồi đi ra ngoài, dấn bước vào phố phường Paris. Vào một cuộc đời mới? Juan de Dios Martínez hỏi. Chắc vậy, bà giám đốc nói. Mình như thế này là tôi thích rồi, Juan de Dios Martínez nói. Một cuộc đời mới không có người Mexico không có xứ Mexico không có bệnh nhân Mexico, bà giám đốc nói. Mình như thế này là đủ cho tôi phát cuồng rồi, Juan de Dios Martínez nói.
♣ ♣ ♣Cuối năm 1996, báo chí Mexico viết về, hoặc bóng gió viết về, những bộ phim có cảnh giết người thật, gọi là phim snuff, đang được quay ở miền Bắc, và kinh đô của phim snuff là Santa Teresa. Một đêm nọ hai nhà báo nói chuyện với tướng Humberto Paredes, cựu cảnh sát trưởng thủ đô Mexico, trong lâu đài có tường bao của ông ở quận del Valle. Các nhà báo này là ông già Macario López Santos, từng làm ở chuyên trang tội phạm hơn bốn mươi năm, và Sergio González. Bữa tối thịnh soạn được vị tướng đãi gồm taco thịt heo nhiều xốt cay và tequila La Invisible. Bất cứ món gì khác mà vị tướng thử ăn vào buổi tối đều khiến ông bị ợ nóng. Giữa chừng bữa ăn, Macario López hỏi vị tướng nghĩ thế nào về ngành phim snuff ở Santa Teresa, thì vị tướng bảo rằng trong suốt sự nghiệp lâu năm của mình ông đã thấy nhiều điều ghê rợn, nhưng ông chưa thấy một bộ phim nào loại đó và không tin là chúng có thật. Nhưng chúng có thật mà, ông nhà báo già nói. Có thể có, có thể không, vị tướng nói, nhưng lạ là tôi chưa xem một bộ nào, trong khi tôi là người thấy tất biết tất. Hai nhà báo đồng ý rằng lạ thật, mặc dù họ nói bóng gió rằng cũng có thể, hồi vị tướng còn tại nhiệm, cái phân nhánh phim kinh dị này hãy còn chưa xuất hiện. Vị tướng không tán thành: theo ông, nghệ thuật khiêu dâm đã đạt tới cực thịnh từ trước hồi Cách mạng Pháp. Bất cứ gì ta có thể gặp hôm nay trong một bộ phim của Hà Lan hay một tập ảnh hay một cuốn dâm thư đều đã được định hình từ trước năm 1789 rồi, và hầu hết chúng chỉ là một sự lặp lại, và thêm chút kích thích cho một cái nhìn vốn đã nhìn từ trước. Thưa tướng quân, Macario López Santos nói, đôi khi ngài nói năng cứ như Octavio Paz, chắc ngài đã đọc ông ấy rồi? Vị tướng phá ra cười rồi nói tác phẩm duy nhất ông đọc của Paz, từ nhiều năm trước rồi, là Mê cung của cô đơn, và ông chả hiểu một chữ nào. Hồi đó tôi còn trẻ lắm, vị tướng nói, nhìn hai nhà báo, hẳn tầm bốn mươi thôi. Ôi, tướng quân của tôi ơi, Macario López nói. Sau đó họ nói về tự do và về cái ác, về những xa lộ của tự do nơi cái ác giống như một chiếc Ferrari, và một hồi sau, khi một hầu gái già dẹp bát đĩa đi và hỏi các ngài có muốn dùng cà phê không, họ lại quay về đề tài phim snuff. Theo Macario López tình hình ở Mexico đã có những biến chuyển mới. Một phần là chưa bao giờ nạn tham nhũng lại như lúc này. Rồi cần phải cộng thêm vào đó cả vấn đề buôn lậu ma túy cùng những núi tiền lưu chuyển xung quanh hiện tượng mới này. Ngành phim snuff, trong bối cảnh đó, chỉ là một triệu chứng. Trong trường hợp của Santa Teresa thì là một triệu chứng độc hại, nhưng xét cho cùng cũng chỉ là một triệu chứng mà thôi. Phản ứng của vị tướng là gạt phắt đi. Ông bảo rằng ông không tin nạn tham nhũng hiện nay có chút nào trầm trọng hơn nạn tham nhũng dưới những chính phủ khác trong quá khứ. Nếu so ra thì nó còn không tệ bằng tham nhũng dưới thời chính phủ Miguel Alemán, cũng không tồi hơn thời López Mateos. Sự thất vọng của bây giờ có thể lớn hơn, nhưng tham nhũng thì không. Buôn lậu ma túy là chuyện mới, ông thừa nhận, nhưng gánh nặng thực sự của nạn buôn ma túy đối với xã hội Mexico (và xã hội Mỹ) đã bị người ta thổi phồng quá. Để làm một phim snuff thì tất cả những gì anh cần là tiền, ông nói, không gì khác ngoài tiền, mà trước khi các trùm ma túy làm giàu thì tiền đã có rồi, kỹ nghệ phim porno cũng có, thế nhưng mấy bộ phim, mấy bộ phim lừng danh ấy, vẫn chưa được sản xuất. Chắc là ngài không xem đấy thôi, Macario López nói. Vị tướng cả cười và tiếng cười của ông lạc mất giữa những luống hoa trong khu vườn tối. Cái gì tôi cũng thấy cũng xem tất, bạn Macario ạ, ông đáp. Trước khi ra về, nhà báo già chuyên viết về tội phạm nhận xét rằng ban nãy khi bước vào ngôi nhà có tường bao ở quận del Valle ông đã không có được cái thú chào mấy tay vệ sĩ. Vị tướng đáp ấy là do hồi này ông không có vệ sĩ nữa. Sao vậy, thưa tướng quân? nhà báo hỏi. Kẻ thù của ngài xuôi tay rồi sao? Dịch vụ an ninh càng ngày càng đắt Macario ạ, vị tướng đáp trong khi tiễn hai nhà báo ra cổng dọc một lối mòn hai bên trồng hoa giấy, với lại tôi chẳng thà dành thời gian cho những thú vui dễ chịu hơn. Thế ngộ nhỡ ngài bị tấn công? Vị tướng thò tay ra sau lưng rồi chìa cho họ xem một khẩu Desert Eagle.50 Magnum của Israel ổ đạn bảy viên. Ông bảo họ ông luôn mang theo hai băng đạn dự phòng. Nhưng tôi không nghĩ sẽ có lúc phải dùng tới súng, ông nói, tôi già quá nên kẻ thù của tôi chắc nghĩ cái thân tôi làm phân cho hoa cúc ngoài nghĩa địa lâu rồi. Một số người thù dai lắm, Macario López Santos nhận xét. Đúng, Macario ạ, vị tướng nói, ở Mexico chúng ta không biết cách thua hay thắng với tinh thần thể thao chân chính. Dĩ nhiên nếu thua ta sẽ chết còn nếu thắng thì đôi khi ta cũng chết, vì thế muốn giữ tinh thần thể thao cũng khó, nhưng dù sao, vị tướng trầm ngâm, vài người trong chúng ta vẫn cố chiến đấu sao cho đẹp. Ôi, tướng quân của tôi ơi, Macario López Santos bật cười nói.
♣ ♣ ♣Tháng Một năm 1997, năm thành viên băng Bò Hoang bị bắt. Họ bị buộc tội là thủ phạm của nhiều vụ giết người xảy ra sau khi Haas bị tóm. Những người bị bắt là Sebastián Rosales, mười chín tuổi, Carlos Camilo Alonso, hai mươi, René Gardea, mười bảy, Julio Bustamante, mười chín, và Roberto Aguilera, hai mươi. Cả năm đều có tiền án xâm phạm tình dục và hai trong số đó, Sebastián Rosales và Carlos Camilo Alonso, từng bị bắt giam vì tội hãm hiếp một trẻ vị thành niên, María Inés Rosales, em họ Sebastián, con bé rút lại lời buộc tội một vài tháng sau khi Sebastián bị đưa đến nhà lao Santa Teresa. Nghe nói Carlos Camilo Alonso đã cho thuê căn nhà trên phố García Herrero nơi người ta tìm thấy xác Estefanía và Herminia. Cả năm đều bị cáo buộc đã bắt cóc, hãm hiếp, tra tấn và giết hai phụ nữ mà người ta phát hiện xác ở hẻm núi Podestá, ngoài chuyện bị cáo buộc đã giết Marisol Camarena mà xác được tìm thấy trong thùng axít, cả vụ giết Guadalupe Elena Blanco, rồi vụ giết Estefanía và Herminia. Trong quá trình thẩm vấn, Carlos Camilo Alonso bị mất hết răng và bị gãy vách ngăn mũi, được cho là do hắn toan tự sát. Roberto Aguilera cuối cùng thì bị gãy bốn rẻ sườn. Julio Bustamante bị giam cùng xà lim với hai tên đầu gấu pê đ?