← Quay lại trang sách

PHẦN NĂM (A) PHẦN VỀ ARCHIMBOLDI

Nhưng với anh lính Reiter thì còn những bất ngờ khác nữa. Lúc sáng tinh mơ anh cảm thấy có ai đang lay mình. Anh mở mắt ra. Đó là Kruse. Không luận nổi Kruse đang nói cái gì, những lời mà gã đang thì thầm vào tai anh, anh liền túm cổ gã mà siết. Một bàn tay khác đặt lên vai anh. Đó là chiến hữu Neitzke.

“Đừng làm đau hắn, đồ ngu,” Neitzke nói.

Reiter buông cổ Kruse ra và lắng nghe lời đề nghị. Đoạn anh nhanh chóng mặc quần áo rồi đi theo họ. Họ rời khỏi tầng hầm dùng làm khu phòng ngủ và rẽ vào một hành lang dài nơi mà Wilke, một chiến hữu khác đang chờ họ. Wilke là một tay nhỏ thó, cao không quá mét năm tám, mặt choắt và cặp mắt thông minh. Khi cả bọn gặp anh ta họ liền bắt tay nhau, bởi Wilke là người kiểu cách và các chiến hữu biết rằng với anh ta thì cứ theo đúng thể thức cho lành. Sau đó họ leo một cầu thang và mở một cánh cửa. Căn phòng mà họ bước vào vừa trống trơn vừa lạnh lẽo, tuồng như Dracula vừa từ đó bước ra. Chỉ có một tấm gương cũ treo trên tường đá, Wilke nhấc nó ra để lộ một lối đi bí mật. Nietzke rút ra một đèn pin đưa cho Wilke.

Họ đi khoảng hơn mười phút, đi lên rồi đi xuống những cầu thang đá, chẳng biết mình đang ở trên chót đỉnh tòa lâu đài hay đã quay lại tầng hầm theo một đường khác. Lối đi cứ khoảng mười phút lại tẽ hai, và Wilke dẫn đầu bị lạc đến mấy lần. Vừa đi Kruse vừa thì thào rằng mấy hành lang này có gì đó là lạ. Mọi người hỏi cái gì lạ thì Kruse đáp rằng không có chuột. Càng tốt, Wilke nói, tớ ghét chuột. Reiter và Neitzke đồng tình. Tớ cũng không ưa chuột, Kruse nói, nhưng ở trong các hành lang của một lâu đài, nhất là lâu đài cổ thì lúc nào cũng có chuột, vậy mà ở đây ta chưa gặp một con nào hết. Những người kia trầm ngâm im lặng trước nhận xét của Kruse và sau một hồi họ nói: quả là tinh tường thật. Quả rất lạ khi họ không thấy một con chuột nào. Cuối cùng họ dừng lại và soi đèn pin đằng sau rồi đằng trước, soi lên trần hành lang rồi soi sàn hành lang uốn lượn ngoằn ngoèo về phía xa như một cái bóng. Chẳng thấy chuột đâu. Càng tốt. Họ châm bốn điếu thuốc rồi mỗi người tả mình sẽ làm tình với nữ nam tước Von Zumpe theo lối nào. Sau đó họ tiếp tục đi trong im lặng cho đến khi bắt đầu đổ mồ hôi và Neitzke nói hắn không thở được nữa.

Chừng đó họ quay trở lại, Kruse dẫn đường, và chẳng bao lâu họ đến chỗ căn phòng có tấm gương, ở đấy Neitzke và Kruse chào rồi đi. Sau khi chia tay các bạn, Wilke và Reiter quay lại mê cung, song lần này họ chẳng nói gì, để tiếng thì thào của họ không làm họ rối trí thêm nữa. Wilke nghĩ mình nghe thấy tiếng bước chân, những bước chân lướt đằng sau anh ta. Reiter vừa đi vừa nhắm mắt một hồi. Khi đã sắp sửa không còn hy vọng gì, họ tìm thấy cái đang tìm: một lối ngách, rất hẹp, len xuyên qua các bức tường đá, những bức tường thoạt nhìn có vẻ dày nhưng kỳ thực rỗng, trên đó có những lỗ hổng hay những kẽ hở nhỏ xíu cho phép ta nhìn thấy gần như trọn vẹn những căn phòng ở phía bên kia.

Thế là họ nhìn được vào trong phòng của viên sĩ quan SS được thắp sáng bằng ba cây nến, và họ thấy viên sĩ quan đang thức, mình quấn áo choàng, ngồi viết gì đó nơi bàn bên lò sưởi. Vẻ mặt ông ta trông sầu não. Và tuy chỉ có vỏn vẹn chừng đó để xem, Wilke và Reiter vỗ lưng nhau, bởi chỉ đến lúc đó họ mới biết chắc mình đang đi đúng hướng. Họ tiến lên.

Họ sờ soạng tìm ra những lỗ thủng khác. Những căn phòng được trăng soi hoặc chìm trong bóng tối, ở đó, nếu áp tai vào lỗ thủng xoi trên tường đá, họ có thể nghe thấy tiếng ngáy hay tiếng thở dài của một người đang ngủ. Phòng sáng đèn kế tiếp là của tướng Von Berenberg. Chỉ một đèn cầy duy nhất, cắm nơi giá nến đặt trên bàn ngủ, ngọn lửa lắt lay như thể có ai đã mở toang ô cửa sổ rộng thênh, tạo ra những bóng đen và những dáng hình ma quái mà ban đầu che giấu nơi vị tướng đang quỳ cầu nguyện dưới chân chiếc giường to có màn trướng. Khuôn mặt Von Berenberg đang rúm ró, Reiter nhận thấy như vậy, tuồng như ông ta đang phải mang trên vai một gánh nặng khổng lồ, dứt khoát không phải sinh mạng của binh lính dưới trướng ông, cũng không phải sinh mạng của gia đình ông, thậm chí chẳng phải sinh mạng của chính ông, mà là gánh nặng của lương tâm ông, điều này Reiter và Wilke nhận rõ trước khi cả hai rời lỗ nhòm ấy, cảm thấy sửng sốt hoặc kinh hoàng.

Cuối cùng, sau khi băng qua những điểm quan sát khác chìm sâu trong bóng tối và giấc ngủ, họ tới được đích đến thực sự của mình, phòng của nữ nam tước Von Zumpe, một căn phòng được thắp sáng nhờ chín ngọn đèn cầy và ngự trên cao là chân dung một người lính hoặc một chiến binh-tu sĩ mang phong thái tập trung cao độ và dàu dàu khổ sở của một ẩn giả. Trên gương mặt cách một mét phía trên giường, người ta có thể quan sát thấy tất cả những phiền não của sự chay tịnh, sự ăn năn và sự xả kỷ.

Bên dưới một người đàn ông trần truồng có cơ man nào là lông ở phần lưng trên và hai chân, họ thoáng thấy nữ nam tước Von Zumpe, những lọn tóc xoăn vàng óng và một phần vầng trán trắng như trứng gà bóc của nàng chốc chốc nhô ra từ dưới vai trái của người đang cưỡi trên nàng. Những tiếng kêu của nữ nam tước thoạt tiên khiến Reiter lo lắng, phải một hồi sau anh mới hiểu đó là những tiếng kêu khoái lạc chứ không phải đau đớn. Khi cuộc truy hoan kết thúc, tướng Entrescu dậy khỏi giường và họ thấy ông ta đi về phía cái bàn trên đó đặt một chai vodka. Dương vật ông ta, mà nơi đầu mút vẫn nhỏ một lượng tinh dịch không hề ít, vẫn đang cương hoặc nửa cương và chắc phải dài tới ba mươi xentimét, về sau Wilke nhớ lại, thầm tính bằng mắt không sai lấy một ly.

Thằng cha không mấy giống người, thằng cha giống ngựa, Wilke kể cho các chiến hữu nghe như vậy. Và thằng cha cũng dai sức như ngựa, bởi vì sau khi nốc chút vodka ông ta lại quay về giường nơi nữ nam tước Von Zumpe đang lơ mơ ngủ và sau khi sửa lại tư thế của nàng ông ta liền chơi nàng lần nữa, đầu tiên thì nhẹ nhàng như thể nằm im, nhưng về sau thì dữ dội đến nỗi nữ nam tước đang nằm sấp phải cắn lòng bàn tay mình đến bật máu để khỏi hét lên. Đến chừng đó thì Wilke đã mở khóa quần và đang thủ dâm, tì người vào tường. Reiter nghe anh ta rên ở cạnh mình. Thoạt tiên anh nghĩ chắc là một con chuột đang hấp hối đâu đây. Một con chuột non. Nhưng khi thấy dương vật của Wilke và bàn tay Wilke đang chuyển động tới lui thì anh đâm tởm và thúc cùi chỏ vào ngực anh ta. Wilke tuyệt không quan tâm mà tiếp tục thủ dâm. Reiter nhìn mặt anh ta: mặt Wilke nhìn nghiêng thấy rất lạ. Nó giống như bức tranh khắc một công nhân hoặc thợ thủ công, một người qua đường ngây thơ vô tội bị một tia sáng trăng làm lóa mắt. Anh ta có vẻ như đang mơ hoặc, nói đúng hơn, đang tức thời xuyên phá qua những bức tường đen sừng sững ngăn giữa thức và mơ. Thế là anh để yên cho anh ta và một lát sau cả anh cũng bắt đầu sờ chính mình, thoạt tiên rón rén, ở ngoài quần, sau đó thì thẳng thừng lôi dương vật mình ra và nương theo nhịp điệu của tướng Entrescu và nữ nam tước Von Zumpe, giờ thì nàng không còn cắn tay mình nữa (một vết máu đã loang ra trên ga giường cạnh đôi má nàng mướt mồ hôi), giờ nàng vừa khóc vừa nói những lời mà vị tướng không hiểu và cả họ cũng không, những lời vượt ra ngoài nước Rumani, vượt ra ngoài nước Đức và châu Âu, vượt ra ngoài một trang ấp tư nhân, vượt ra ngoài tình bạn mơ hồ, vượt ra ngoài những gì mà họ, Wilke và Reiter, còn tướng Entrescu có lẽ là không, thường cho là tình yêu, là dục vọng, là tính dục.

Sau đó Wilke đến cạnh tường và cũng lẩm bẩm gì đó, lời cầu nguyện của lính, và chẳng bao lâu sau Reiter đến cạnh tường và cắn môi không nói lời nào. Thế rồi Entrescu đứng dậy, và họ thấy, hoặc nghĩ là đã thấy, những giọt máu trên dương vật ông ta ngời sáng với tinh dịch và âm thủy, thế rồi nữ nam tước xin một ly vodka, rồi họ thấy Entrescu và nữ nam tước đứng quấn nhau, mỗi người cầm ly vodka của mình với vẻ lơ đãng, và sau đó Entrescu đọc một bài thơ bằng tiếng nước mình, nữ nam tước không hiểu nhưng nhạc tính của nó thì nàng ca ngợi, rồi sau đó Entrescu nhắm mắt nghiêng đầu tuồng như đang lắng nghe gì đó, âm nhạc của những tinh cầu, rồi sau đó ông ta mở mắt và ngồi xuống bên bàn rồi đặt nữ nam tước ngồi lên trên dương vật ông ta đã lại cứng thêm lần nữa (cái dương vật lừng danh dài ba chục xentimét, niềm kiêu hãnh của quân đội Rumani), và những tiếng hét tiếng rên tiếng khóc lại bắt đầu, và mỗi khi nữ nam tước thụt xuống vào dương vật của Entrescu hoặc mỗi khi dương vật của Entrescu ưỡn lên thọc vào trong nữ nam tước Von Zumpe, ông tướng Rumani lại đọc một bài thơ mới, vừa đọc vừa kèm theo bằng những động tác của cả hai tay (nữ nam tước bấu chặt cổ ông), một bài thơ mà một lần nữa chẳng ai trong bọn họ hiểu ngoại trừ chữ Dracula cứ bốn dòng lặp lại một lần, một bài thơ có thể là thơ hành quân có thể là thơ châm biếm có thể là thơ siêu hình có thể là thơ cẩm thạch và thậm chí có thể là thơ chống Đức, song nhịp điệu của nó như thể là dành riêng cho cái dịp này, bởi vì nữ nam tước trẻ tuổi, ngồi xoạc chân trên cặp đùi của Entrescu, tán dương nó bằng cách đong đưa người từ trước ra sau, giống như một ả chăn cừu nhỏ phát rồ giữa mênh mông châu Á, vùi các móng tay vào cổ người tình, chùi máu vẫn còn dính trên bàn tay phải vào mặt người tình, bôi máu nhòe nhoẹt lên môi y ta, trong khi Entrescu vẫn điềm nhiên tiếp tục đọc bài thơ trong đó cứ mỗi bốn dòng lại vang lên chữ Dracula, bài thơ nhất định là thơ châm biếm, Reiter kết luận (với một niềm vui khôn tả) trong khi Wilke lại xóc lọ lần nữa.

Khi mọi chuyện xong rồi, mặc dù với Entrescu không bao giờ biết mệt và nữ nam tước không bao giờ biết mệt kia thì còn lâu mới xong, họ lặng lẽ quay trở lại qua các hành lang bí mật, lặng lẽ dịch tấm gương về chỗ cũ, lặng lẽ bò xuống trại binh dã chiến dưới lòng đất và lặng lẽ chuồi vào giường cạnh súng và đồ lề của mình.

♣ ♣ ♣

Sáng hôm sau phân đội rời tòa lâu đài sau khi hai chiếc xe chở khách khứa đã đi khỏi. Duy chỉ viên sĩ quan SS ở lại với họ trong khi họ quét tước, lau rửa, dọn dẹp mọi thứ. Thế rồi, khi viên sĩ quan đã hoàn toàn hài lòng, y ra lệnh họ lên đường và phân đội leo lên xe tải trở lại đồng bằng. Nơi lâu đài chỉ còn lại mỗi chiếc xe của viên sĩ quan SS, lạ một điều là không người lái. Trong khi xe chạy xa dần, Reiter thấy viên sĩ quan: y đã trèo lên tường thành có lỗ châu mai nhìn phân đội ra đi, rướn cổ mỗi lúc một xa, nhón chân, cho tới khi một bên là lâu đài một bên là xe tải đều biến khỏi tầm nhìn.

♣ ♣ ♣

Trong khi đồn trú ở Rumani, Reiter xin nghỉ phép được hai lần, cả hai lần anh đều về thăm cha mẹ. Về làng, anh nằm suốt ngày trên bờ biển đá mà ngắm biển, nhưng không thiết tắm lại càng không thiết lặn, hoặc anh đi bộ rõ lâu trên cánh đồng mà kiểu gì rồi cũng dừng lại nơi ngôi nhà tiên tổ của nam tước Von Zumpe, nay trống vắng và tiều tụy hơn, được người gác rừng già cả trông nom, thi thoảng anh dừng chân trò chuyện với người này, tuy những cuộc trò chuyện ấy, nếu có thể gọi bằng từ này được, hầu hết chỉ gây nên nỗi chán chường. Reiter, về phần mình, hỏi han về nữ nam tước (kỳ thực là hỏi về cô nam tước, ở vùng này người ta quen gọi cô như vậy) và người gác rừng nhún vai. Cái nhún vai có thể hàm nghĩa rằng ông không biết mà cũng có thể hàm nghĩa rằng thực tại ngày càng mờ mịt, giống với giấc mơ hơn, hoặc rằng mọi sự càng ngày càng tệ và tốt nhất là chớ hỏi gì mà hãy chuẩn bị sẵn lòng nhẫn nại.

Anh cũng dành nhiều thời gian bên đứa em gái Lotte bấy giờ lên mười và rất yêu quý ông anh. Sự đắm đuối hết mình này khiến Reiter cả cười và đồng thời khiến anh buồn, khiến anh chìm trong những ý nghĩ ảm đạm trong đó mọi thứ không có nghĩa lý gì, tuy rằng anh cẩn thận không đi đến quyết tâm nào bởi anh tin chắc sớm muộn rồi mình cũng sẽ hết đời vì một viên đạn. Trong chiến tranh chẳng ai tự sát cả, anh nghĩ trong khi nằm trên giường lắng nghe bố mẹ mình ngáy. Tại sao? Ờ thì để cho tiện, để lần khân cái chuyện không thể tránh, bởi con người có thói quen phó thác số phận mình vào tay kẻ khác. Sự thật là chiến tranh là lúc người ta tự sát nhiều nhất, nhưng lúc đó Reiter còn quá trẻ (tuy không thể nói anh là kẻ hoàn toàn thất học được nữa) nên không thể biết điều ấy. Trong cả hai lần nghỉ phép, anh cũng ghé cả Berlin (trên đường về làng) cố tìm gặp Hugo Halder song hoài công.

Anh không tìm được anh ta. Trong căn hộ cũ của Halder nay có một gia đình công chức nhà nước với bốn cô con gái tuổi vị thành niên đang sống. Khi anh hỏi người thuê nhà trước đây có để lại địa chỉ mới của mình hay không thì gia chủ, ông bố của gia đình, đảng viên Quốc xã, liền trả lời cộc lốc rằng không biết, nhưng trước khi Reiter bỏ đi thì một trong các cô con gái, cô lớn nhất, cô đẹp nhất, đuổi kịp anh nơi cầu thang và nói cô biết Halder giờ sống ở đâu. Thế rồi cô đi xuống cầu thang và Reiter đi theo. Cô gái lôi anh đến một công viên. Ở đó, trong một góc khuất không người dòm ngó, cô quay lại, như thể mới thấy anh lần đầu, và đâm bổ vào anh hôn chụt một cái lên môi anh. Reiter đẩy cô ra và hỏi trời đất ơi sao cô lại hôn anh vậy. Cô gái bảo cô rất vui được gặp anh. Reiter nhìn kỹ cặp mắt màu xanh nhạt, giống như mắt người mù, và nhận ra mình đang nói chuyện với một cô điên.

Dẫu vậy, anh muốn biết cô gái có thông tin gì về Halder. Cô bảo nếu anh không để cho cô hôn anh thì cô sẽ không nói. Họ lại hôn nhau: ban đầu lưỡi cô gái rất khô và Reiter dùng lưỡi mình mơn trớn nó cho đến khi nó từ đầu đến cuối ướt đầm. Hugo Halder hiện sống ở đâu? anh hỏi. Cô gái mỉm cười với Reiter làm như anh là một đứa trẻ chậm lụt. Anh không đoán được sao? cô hỏi. Reiter lắc đầu. Cô gái, ắt chưa quá mười sáu tuổi, liền phá ra cười dữ đến nỗi Reiter nghĩ cô cứ cười như vầy thì chả mấy chốc mà cảnh sát tới, và anh chả nghĩ ra được cách nào tốt hơn để bắt cô im ngoại trừ lại hôn môi cô lần nữa.

“Tên em là Ingeborg,” cô gái nói khi Reiter đã rời môi khỏi môi cô.

“Anh tên Hans Reiter,” anh nói.

Chừng đó cô liền nhìn xuống mặt đất đầy cát sỏi và tái đi trông thấy, tuồng như cô sắp xỉu.

“Tên em là Ingeborg Bauer,” cô nhắc lại, “em mong anh sẽ không quên em.”

Từ lúc đó trở đi họ nói bằng giọng thì thầm càng lúc càng khẽ.

“Anh sẽ không quên,” Reiter nói.

“Thề đi,” cô gái nói.

“Anh thề,” Reiter nói.

“Anh thề có gì, thề có mẹ anh, thề có cha anh, thề có Chúa?” cô gái nói.

“Anh thề có Chúa,” Reiter nói.

“Anh không tin Chúa,” cô gái nói.

“Vậy thì anh thề có cha có mẹ anh,” Reiter nói.

“Thề vậy chả có giá trị gì,” cô gái nói, “thề cha thề mẹ là chả có giá trị gì, người ta luôn cố quên mình có cha mẹ.”

“Anh thì không,” Reiter nói.

“Có chứ, anh,” cô gái nói, “em, tất cả thiên hạ.”

“Nếu vậy em muốn anh thề gì anh thề nấy,” Reiter nói.

“Anh thề có quân đoàn của anh được không?” cô gái nói.

“Anh thề có quân đoàn của anh trung đoàn của anh tiểu đoàn của anh,” Reiter nói, đoạn nói thêm là anh thề có cả tập đoàn quân của anh cả quân đội của anh nữa.

“Em nói cái này anh đừng nói lại cho ai nhé, thật ra là em không tin vào quân đội,” cô gái nói.

“Vậy em tin gì?” Reiter nói.

“Ít thứ thôi,” cô gái nói sau khi ngẫm nghĩ câu trả lời khoảng một giây. “Đôi khi thậm chí em quên mất mình tin những gì. Ít thứ quá mà, ít lắm, còn những thứ em không tin thì lại nhiều, quá nhiều, đến nỗi chúng che khuất những gì em tin. Chẳng hạn, ngay bây giờ, em không nhớ nổi thứ nào mình tin.”

“Em có tin ở tình yêu không?” Reiter hỏi.

“Không, thực tình là không,” cô gái nói.

“Còn lòng trung thực?” Reiter nói.

“Èo, cái ý còn tệ hơn tình yêu nữa,” cô gái nói.

“Em có tin ở hoàng hôn, ở đêm đầy sao, ở bình minh tươi sáng không?”

“Không, không, không,” cô gái nói kèm theo một cử chỉ tỏ rõ sự ghê tởm, “em không tin những thứ lố bịch.”

“Em có lý,” Reiter nói. “Còn sách thì sao?”

“Càng không thích,” cô gái nói, “với lại đằng nào thì trong nhà em cũng chỉ rặt toàn sách Quốc xã, chính trị Quốc xã, sử học Quốc xã, kinh tế học Quốc xã, huyền thoại học Quốc xã, thơ Quốc xã, tiểu thuyết Quốc xã, kịch Quốc xã.”

“Anh không hề biết là dân Quốc xã lại viết nhiều đến thế,” Reiter nói.

“Theo như em thấy thì ngoài hôn em ra anh chả biết nhiều thứ cho cam,” cô gái nói.

“Đúng vậy,” Reiter nói, anh luôn luôn sẵn sàng thừa nhận mình dốt.

Đến lúc này thì họ đang lững thững đi trong công viên tay nắm tay và thỉnh thoảng Ingeborg lại dừng bước hôn môi Reiter và bất cứ ai thấy họ đều nghĩ đây chỉ là một anh lính trẻ và bạn gái, họ chả có tiền để đi đâu khác, họ yêu nhau lắm lắm và có bao nhiêu chuyện để nói với nhau. Thế nhưng nếu người quan sát giả định này lại gần cặp đôi đó và nhìn thẳng vào mắt họ thì anh ta hẳn sẽ thấy cô gái này điên và anh lính trẻ biết điều đó nhưng chẳng quan tâm. Quả vậy, giờ thì Reiter chẳng quan tâm cái chuyện cô này khùng, lại càng chẳng bận tâm về địa chỉ anh bạn Hugo Halder. Anh chỉ quan tâm mỗi một điều là biết được rốt ráo cái số ít những điều Ingeborg thấy đáng đặt câu thề. Vậy nên anh cứ hỏi hoài hỏi mãi và ngập ngừng đề xuất nào mấy cô em gái của cô nào thành phố Berlin nào hòa bình thế giới nào trẻ em trên thế giới nào chim chóc trên thế giới nào opera nào những con sông của châu Âu nào khuôn mặt, chao ơi, của những người yêu cũ của cô, nào cuộc sống của chính cô (của Ingeborg), nào tình bạn nào tính hài hước và tất tật mọi thứ anh có thể nghĩ ra, và hết lần này đến lần khác cô đều trả lời không, cho đến khi, rốt cuộc, khi họ đã đi hết ráo mọi ngóc ngách của công viên rồi, cô gái mới nhớ ra hai thứ mà theo cô dùng để thề thì tốt.

“Anh có muốn biết là những thứ gì không?”

“Dĩ nhiên là muốn rồi!” Reiter nói.

“Em mong là khi em nói thì anh không cười.”

“Anh không cười đâu,” Reiter nói.

“Thứ đầu tiên là bão,” cô gái nói.

“Bão á?” Reiter nói, ngạc nhiên hết cỡ.

“Chỉ những trận bão lớn thôi, khi trời đen kịt còn khí trời thành xám ấy. Sấm, chớp, và nhà nông chết khi đang băng đồng,” cô gái nói.

“Giờ anh hiểu rồi,” Reiter nói, thật ra anh không ưa bão. “Còn cái thứ hai là gì?”

“Người Aztec,” cô gái nói.

“Người Aztec?” Reiter nói, còn bối rối hơn cả khi nghe nói bão.

“Phải, phải, người Aztec, họ sống ở Mexico trước khi Cortes đến ấy, những người xây nên kim tự tháp ấy.”

“À, người Aztec, mấy người Aztec ấy,” Reiter nói.

“Chỉ có họ là người Aztec thôi, họ sống ở Tenochtitlan và Tlatelolco, hiến tế người sống và định cư ở hai thành phố xây xung quanh những cái hồ,” cô gái nói.

“À, vậy là họ sống ở những thành phố xây quanh hồ,” Reiter nói.

“Đúng,” cô gái nói.

Họ im lặng đi một hồi. Sau đó cô gái nói, “Em hình dung những thành phố ấy giống như Geneva và Montreux. Có lần em đi nghỉ với gia đình ở Thụy Sĩ. Cả nhà đi thuyền từ Geneva đến Montreux. Hồ Geneva vào mùa xuân tuyệt đẹp, tuy rằng muỗi e là nhiều quá. Đêm cả nhà em ngủ ở một lữ quán tại Montreux rồi hôm sau lại đi thuyền về Geneva. Anh đã tới hồ Geneva chưa?”

“Chưa,” Reiter nói.

“Đẹp lắm, với lại không phải chỉ có hai thành phố ấy mà ven hồ còn có nhiều thị trấn, như Lausanne này, còn to hơn cả Montreux nữa, hay Vevey, hay Evian. Trên thực tế có hơn hai mươi thị trấn, vài cái nhỏ xíu. Anh hình dung được không?”

“Sơ sơ,” Reiter nói.

“Này, đây là cái hồ,” cô dùng mũi giày vẽ cái hồ lên mặt đất, “đây là Geneva, còn đây, phía đầu kia là Montreux, còn đây là các thị trấn khác. Giờ anh hiểu chưa?”

“Rồi,” Reiter nói.

“Em hình dung cái hồ của người Aztec cũng vậy,” cô gái vừa nói vừa lấy giày xóa cái bản đồ đi. “Chỉ có điều đẹp hơn nhiều. Không có muỗi, quanh năm trời dễ chịu, nhiều kim tự tháp, nhiều và to đến nỗi không đếm xuể, kim tự tháp nằm trên kim tự tháp, kim tự tháp đằng sau kim tự tháp, tất cả đều nhuốm đỏ máu tươi của những người bị hiến tế hằng ngày. Rồi em hình dung ra những người Aztec, nhưng chắc chuyện ấy anh không quan tâm,” cô gái nói.

“Có, có chứ,” Reiter nói, anh vốn xưa nay chưa bao giờ nghĩ đến người Aztec.

“Họ là những người rất lạ,” cô gái nói, “nếu ta nhìn thật kỹ vào mặt họ, sau một hồi ta sẽ nhận ra là họ điên. Nhưng họ không bị giam trong nhà thương điên. Hoặc có thể có. Nhưng trông họ thì không có vẻ gì là vậy. Người Aztec mặc quần áo vô cùng tao nhã, họ rất cẩn thận khi chọn đồ để mặc hằng ngày, có thể nói họ bỏ ra hàng giờ trong phòng thay đồ để chọn bộ cánh thích hợp hơn cả, rồi thì họ đội lên đầu những cái mũ lông chim rất quý, đeo vòng tay vòng chân, lại còn chuỗi đeo cổ nhẫn đeo tay, rồi thì cả nam lẫn nữ đều vẽ mặt, thế rồi họ ra ngoài đi dạo dọc bờ hồ, chẳng nói gì với nhau mà chỉ mải mê ngắm những con thuyền qua lại, người trên thuyền nếu không phải người Aztec thì đều cụp mắt xuống mà tiếp tục đánh cá hoặc vội vã rời khỏi đó, bởi vì một số người Aztec nhiều khi nổi hứng làm những điều tàn bạo, và sau khi nhàn tản dạo bộ như những triết gia họ bước vào trong kim tự tháp, ở bên trong các kim tự tháp ấy hoàn toàn rỗng và trông như giáo đường, chỉ có một ánh sáng ở trên cao soi sáng, ánh sáng ấy được lọc qua một viên đá obsidian lớn, nói cách khác là một ánh sáng thẫm và ngời chói. Nhân thể, anh đã thấy một viên đá obsidian bao giờ chưa?”

“Chưa, chưa bao giờ,” Reiter nói, “hoặc là có thấy mà không biết.”

“Anh mà nhìn thấy là sẽ nhận ra ngay,” cô gái nói. “Obsidian là một loại khoáng fenspat màu đen hoặc xanh lục rất sẫm, riêng chuyện đó đã lạ rồi bởi vì fenspat thường có màu trắng hoặc vàng vàng. Các loại fenspat quan trọng nhất là orthoclase, albite và labradorite, nói để cho anh biết. Nhưng loại em thích nhất là obsidian. Được rồi, quay lại với kim tự tháp. Trên đỉnh kim tự tháp là đá hiến tế. Anh thử đoán xem nó làm bằng gì?”

“Bằng đá obsidian,” Reiter nói.

“Chính xác,” cô gái nói, “một tảng đá giống như cái bàn của bác sĩ giải phẫu, các giáo sĩ hoặc y sĩ người Aztec đặt nạn nhân của mình lên đó trước khi moi tim họ. Nhưng giờ mới đến cái phần sẽ làm anh ngạc nhiên nhất đây: cái giường bằng đá đó hoàn toàn trong suốt! Nó là một thứ đá thiêng được chọn và được đánh bóng sao cho trong suốt. Và những người Aztec bên trong kim tự tháp ngắm cuộc hiến tế như thể nhìn thấy từ bên trong, bởi vì chắc anh đã đoán ra, cái ánh sáng từ trên cao rọi xuống lòng kim tự tháp xuất phát từ một cái lỗ ngay bên dưới tảng đá thiêng, thế nên ban đầu ánh sáng có màu đen hoặc xám, một ánh sáng tù mù khiến cho ta chỉ thấy được đường nét lờ mờ của những người Aztec đứng trong kim tự tháp mà thôi, nhưng rồi, khi máu của nạn nhân mới loang ra trên ô cửa mái bằng đá obsidian trong suốt, ánh sáng chuyển thành màu đỏ và đen, một màu đỏ rất tươi và một màu đen rất tươi, khiến cho có thể thấy rõ không chỉ đường nét của những người Aztec mà cả nét mặt họ, những nét mặt bị ánh sáng đỏ và ánh sáng đen làm biến đổi, như thể ánh sáng ấy có quyền năng cá nhân hóa mỗi người trong số họ, và cơ bản đó là tất cả, nhưng việc đó có thể kéo dài rất lâu, có thể vượt ngoài thời gian hoặc nằm ở một thời gian khác chịu sự chi phối của những quy luật khác. Khi người Aztec ra khỏi kim tự tháp, ánh sáng mặt trời không làm họ chói mắt. Họ hành xử như thể đang có nhật thực. Và rồi họ quay về những việc thường ngày, mà về cơ bản bao gồm tản bộ rồi tắm rồi lại tản bộ và đứng lặng rất lâu ngắm những thứ không thể nhìn thấy được hoặc nghiên cứu những đường những vệt lũ côn trùng vẽ ra trên mặt đất và ăn cùng với bạn bè, nhưng luôn luôn trong im lặng, chẳng khác nào ngồi ăn một mình, và lâu lâu họ lại gây chiến đánh nhau. Và trên đầu họ bầu trời luôn luôn có nhật thực,” cô gái nói.

“Ái chà chà chà,” Reiter nói, bị ấn tượng mạnh trước vốn hiểu biết của cô bạn mới.

Cả hai lại lặng lẽ đi không mục đích một hồi trong công viên, như thể họ là người Aztec, cho đến khi cô gái hỏi anh sẽ thề gì, thề có người Aztec hay thề có bão.

“Anh không biết,” Reiter nói, anh đã quên mất mình phải thề gì.

“Chọn đi,” cô gái nói, “và nghĩ cho kỹ vì nó quan trọng hơn anh nghĩ nhiều đấy.”

“Cái gì quan trọng?” Reiter hỏi.

“Lời thề của anh,” cô gái nói.

“Mà tại sao quan trọng?” Reiter hỏi.

“Với anh em không biết, nhưng với em thì quan trọng vì nó đánh dấu số phận em,” cô gái nói.

Ngay lúc ấy Reiter nhớ ra mình phải thề sẽ không quên cô và cảm thấy một nỗi buồn to lớn. Trong một thoáng anh thấy khó thở và sau đó cảm thấy lời lẽ nghẹt lại trong họng. Anh quyết định thề có người Aztec, bởi anh không ưa bão.

“Anh thề có người Aztec rằng anh sẽ không bao giờ quên em,” anh nói.

“Cảm ơn anh,” cô gái nói rồi họ đi tiếp.

Lát sau, tuy chẳng còn mấy quan tâm nữa, Reiter hỏi cô địa chỉ của Halder.

“Anh ta sống ở Paris,” cô gái nói kèm tiếng thở dài. “Em không có địa chỉ.”

“À,” Reiter nói.

“Anh ta sống ở Paris thì cũng tự nhiên mà,” cô gái nói.

Reiter nghĩ có lẽ cô gái có lý, Halder đã chuyển đến Paris thì cũng là điều tự nhiên nhất trên đời. Khi trời sẩm tối Reiter tiễn cô gái đến tận cửa rồi chạy đến nhà ga.

Cuộc tấn công Liên Xô bắt đầu vào ngày 22 tháng Sáu năm 1941. Sư đoàn 79 được phiên chế vào quân đoàn 11 của quân đội Đức, và mấy ngày sau đội tiên phong của sư đoàn băng qua sông Prut và vai sánh vai tiến vào trận chiến, cùng với quân đội Rumani mà nhuệ khí rõ là cao hơn nhiều so với người Đức tưởng. Tuy nhiên, bước tiến của họ không nhanh như của các đơn vị thuộc Tập đoàn quân Nam gồm quân đoàn 6, quân đoàn 17 và Tập đoàn Panzer số 1 như hồi đó người ta gọi, mặc dù trong cuộc chiến nó sẽ được gộp cùng Tập đoàn Panzer 2, Tập đoàn Panzer 3 và Tập đoàn Panzer 4 để rồi được gọi bằng cái tên đáng sợ hơn: Tập đoàn Panzer. Đúng như người ta nghĩ, nhân lực và vật lực của quân đoàn 11 nhỏ hơn rất nhiều, đấy là chưa kể địa hình khu vực và tình trạng đường sá thiếu thốn. Mà cuộc tấn công lại cũng chẳng thể dựa trên yếu tố bất ngờ từng là lợi thế của Tập đoàn quân Nam, Trung tâm và Bắc. Nhưng sư đoàn của Reiter hành động đúng như cấp chỉ huy chờ đợi, họ vượt sông Prut và chiến đấu rồi sau đó tiếp tục chiến đấu trên các thảo nguyên và đồi núi Bessarabia rồi sau đó vượt sông Dniester mà đến vùng ngoại ô Odessa và trong khi quân Rumani chựng lại thì họ tiến đánh quân Nga đang rút chạy và sau đó vượt sông Bug mà tiến tiếp, để lại sau lưng cả một dây những làng mạc Ukraina cháy trụi, những kho thóc cháy trụi và những khu rừng đột nhiên bừng cháy như thể do một quá trình đốt đầy bí ẩn, những khu rừng giống những hòn đảo tối giữa những đồng lúa mì bất tận.

Ai châm lửa đốt rừng vậy? Đôi lần Reiter hỏi Wilke và Wilke nhún vai, cả Neitzke cả Kruse và cả trung sĩ Lemke cũng nhún vai, thảy đều kiệt sức vì đi bộ, bởi sư đoàn 79 là sư đoàn bộ binh nhẹ, nói cách khác là một sư đoàn tự thân vận động, chỉ được trang bị la và lính, chức năng của la là kéo trang thiết bị nặng còn lính là để cuốc bộ và chiến đấu, tuồng như chiến tranh chớp nhoáng* hãy còn chưa bao giờ ghé mắt dòm xuống sơ đồ hành quân của sư đoàn, giống như thời Napoléon ấy, Wilke nói, hành quân rồi thì hành quân ngược rồi thì hành quân bắt buộc*, hay đúng hơn là toàn hành quân bắt buộc, Wilke nói, và rồi, vẫn nằm trên mặt đất như các chiến hữu chứ không đứng dậy, anh ta tiếp, tớ đếch biết thằng chết mẹ nào lại đi đốt rừng, chắc chắn không phải là ta rồi, đúng không tụi bây? và Neitzke nói không, tụi mình thì không, cả Kruse và Barz cũng nói không, ngay đến trung sĩ Lemke cũng nói không, tụi mình đã đốt sạch cái làng ở kia và đã ném bom cái làng bên đây bên đó nhưng rừng thì không, thế là quân của anh ta gật đầu và chẳng ai nói thêm lời nào, họ chỉ nhìn lửa cháy rừng, nhìn lửa đang biến hòn đảo tối thành đảo màu đỏ cam, có lẽ là tiểu đoàn của đại úy Ladenthin, ai đó nói, họ đang tới đường này, chắc họ đã gặp kháng cự trong rừng đó, chắc là tiểu đoàn công binh, một người khác nói, nhưng sự thật là họ chẳng thấy ai trong khu đó hết, lính Đức gần đó cũng không mà lính Liên Xô kháng cự cũng không, chỉ có khu rừng đen giữa một biển vàng dưới bầu trời xanh rực rỡ, và đột nhiên, không báo trước, tuồng như họ đang ở trong một nhà hát khổng lồ bằng lúa mì còn khu rừng là sân khấu còn phần phía trước sân khấu của nhà hát đó là ngọn lửa uốn vòng tròn, đẹp đẽ và ngốn sạch tất cả.

♣ ♣ ♣

Sau khi vượt sông Bug, tiểu đoàn vượt sông Dnieper và xâm nhập vào bán đảo Crimea. Reiter chiến đấu ở Perekop và vài làng gần Perekop, tên các làng ấy anh chẳng bao giờ biết được, nhưng anh đi dọc những con đường bẩn thỉu ở đó, dọn dẹp xác chết và ra lệnh cho người già, phụ nữ và trẻ em vào trong nhà, không được ra ngoài. Thỉnh thoảng anh chóng mặt. Thỉnh thoảng anh nhận thấy rằng mỗi khi mình đột ngột đứng dậy là mắt lại mờ đi như bị mây đen che phủ, đầy những chấm nhỏ li ti giống như cơn mưa sao băng. Nhưng các sao băng này di chuyển theo một kiểu rất lạ. Hoặc hoàn toàn không di chuyển. Sao băng bất động. Đôi lần, cùng các chiến hữu, anh quăng mình vào cuộc đánh chiếm một cứ điểm của kẻ thù mà không áp dụng bất kỳ biện pháp phòng thân nào, khiến cho anh được tiếng là táo bạo và dũng cảm, cho dù tất cả những gì anh tìm chỉ là một viên đạn sẽ giúp mang lại bình an cho tâm hồn anh. Một đêm, không hề định trước, anh nói chuyện với Wilke về tự sát.

“Người Công giáo chúng ta thủ dâm nhưng không tự sát,” Wilke nói, và trước khi đi ngủ Reiter nghiền ngẫm lời của Wilke, bởi anh ngờ rằng đằng sau câu đùa của Wilke có một chân lý ẩn giấu.

Nhưng quyết tâm của anh không vì vậy mà lay chuyển. Trong trận đánh chiếm Chornomorske, trong đó trung đoàn 310 mà đặc biệt là tiểu đoàn của Reiter đóng vai trò quan trọng, Reiter liều mạng sống của mình ít nhất ba lần, lần thứ nhất là khi tấn công một pháo đài gạch ở ngoại vi Kirovske, nơi giao lộ giữa Chernishove, Kirovske và Chornomorske, một pháo đài đáng ra không thể đương cự nổi dù chỉ một loạt đạn pháo, một pháo đài khiến anh xúc động sâu xa ngay khi nhìn thấy nó bởi sự nghèo khó và vô tội từ nó tỏa ra, tuồng như nó được xây cho trẻ con và đang được trẻ con bảo vệ. Phân đội không có đạn súng cối nên quyết định chiếm pháo đài bằng cách đánh cấp tập. Người ta yêu cầu người tình nguyện. Reiter là người đầu tiên tiến lên phía trước. Gần như ngay sau đó Voss nhập hội với anh, anh này cũng là một tay dũng cảm hoặc một tay tự sát tiềm tàng, cùng ba lính nữa. Cuộc tập kích diễn ra chóng vánh: Reiter và Voss tiến dọc cánh trái pháo đài, ba người kia theo cánh phải. Khi họ còn cách hai chục mét, súng trường từ bên trong nã đạn ra. Ba người đang đi dọc cánh phải nằm rạp xuống đất. Voss chần chừ. Reiter vẫn chạy. Anh nghe tiếng vù của một viên đạn bay sát qua đầu mình vài xentimét nhưng anh không hụp xuống. Ngược lại, thân anh như thể rướn lên cố nhìn cho được khuôn mặt những gã choai choai sắp kết liễu đời anh, nhưng anh chẳng thể thấy gì. Một viên đạn khác sượt qua tay phải anh. Anh cảm thấy có ai đẩy mình từ đằng sau và xô anh ngã xuống. Đó là Voss, anh ta có thể liều mạng song vẫn còn giữ được chút trí khôn của người thường.

Anh quan sát một hồi chiến hữu của mình, sau khi đã kéo anh xuống đất, liền bò về phía pháo đài. Anh thấy những viên đá, thấy cỏ dại, hoa dại, và những cái đinh nơi gót giày của Voss bởi Reiter bị bỏ lại đằng sau, một đám mây bụi nhỏ xíu Voss khoắng lên, chỉ nhỏ xíu với ta thôi, anh nghĩ, chứ không nhỏ xíu với đoàn quân kiến đang băng qua mặt đất từ Bắc đến Nam trong khi Voss bò từ Đông sang Tây. Đoạn anh đứng dậy và bắt đầu bắn qua đầu Voss về phía pháo đài, và một lần nữa lại nghe tiếng đạn rít sát thân mình trong khi anh vừa đi vừa bắn, tuồng như đang vừa tản bộ vừa chụp ảnh, cho đến khi pháo đài nổ tung vì một quả lựu đạn rồi lại thêm quả nữa, rồi quả nữa, bởi những người lính bên cánh phải.

Lần thứ hai anh hút chết là trong trận chiếm Chornomorske. Hai trung đoàn chủ lực của sư đoàn 79 dẫn đầu đợt công kích sau khi toàn bộ hỏa lực của sư đoàn đã tập trung gần bến tàu, nơi bắt đầu con đường nối Chornomorske với Evpatoria, Frunze, Inkerman và Sebastopol, một con đường chẳng có mốc địa lý nào đặc biệt. Cuộc tập kích đầu tiên bị đẩy lui. Tiểu đoàn của Reiter, được giữ làm quân dự bị, tiến lên trong đợt thứ hai. Binh lính tràn lên nhảy qua hàng rào kẽm gai trong khi lực lượng pháo chỉnh thước ngắm và đập tan các ổ súng máy Liên Xô đã bị lộ vị trí. Trong khi chạy, Reiter bắt đầu đổ mồ hôi, cứ như thể trong vòng một nháy mắt anh đâm bệnh. Anh nghĩ chắc lần này mình chết và chuyện nơi đây gần biển chỉ càng củng cố thêm ý nghĩ này. Ban đầu họ băng qua một cánh đồng rồi sau đó tiến vào một khu vườn có căn nhà nhỏ, và từ một trong các cửa sổ của căn nhà ấy, ô cửa sổ bé tí, méo mó, một ông già râu bạc đang nhìn họ. Reiter có cảm tưởng ông già đang ăn gì đó bởi hàm ông ta động đậy.

Bên kia vườn có một con đường đất và đi xa hơn một chút họ thấy năm lính Liên Xô đang lặc lè kéo một cỗ pháo. Họ giết cả năm rồi chạy tiếp. Một số người tiếp tục chạy dọc con đường còn những người khác rẽ vào một cánh rừng thông nhỏ.

Trong rừng thông Reiter nhác thấy một bóng người trong bụi cây thấp liền đứng lại. Đó là tượng một nữ thần Hy Lạp hoặc là anh cho rằng vậy. Tóc nàng búi lên, nàng cao và vẻ mặt nàng vô cảm. Đầm đìa mồ hôi, Reiter bắt đầu run bần bật và vươn tay ra. Tượng lạnh ngắt, là hoa cương hay đá thường anh chẳng biết. Tượng mà lại ở đây thì thật khó hiểu, bởi cái nơi bị cành cây um tùm che khuất này chẳng phải vị trí thích hợp để đặt một pho tượng. Trong một thoáng ngắn ngủi và đau đớn, Reiter nghĩ mình nên hỏi tượng câu gì đó, song đầu anh chẳng nảy ra được câu hỏi nào và mặt anh méo xệch vì thống khổ. Thế rồi anh chạy tiếp.

Cánh rừng kết thúc nơi một khe núi từ đó có thể nhìn thấy biển và bến cảng cùng với một thứ kiểu như đường đi dạo ven biển hai bên có hai hàng cây cùng những băng ghế dài, những căn nhà trắng và những tòa nhà ba tầng có vẻ là khách sạn hoặc nhà nghỉ dưỡng. Cây cối vừa to vừa tối. Trên những ngọn đồi có thể thấy vài căn nhà đang cháy và nơi bến cảng, một nhóm người nom nhỏ tí đang chen nhau leo lên một chiếc tàu. Trời rất xanh và biển rất êm, không một gợn sóng, về bên trái, dọc một con đường ngoằn ngoèo chạy xuống, xuất hiện những người đầu tiên thuộc trung đoàn của anh trong khi dăm ba lính Nga bỏ chạy còn những lính Nga khác thì giơ hai tay lên quá đầu đi ra khỏi những lán chứa cá mà tường đã nám đen. Những người đi cùng Reiter bước xuống đồi về phía một quảng trường trên đó mọc lên hai tòa nhà mới năm tầng, sơn trắng. Khi đến gần quảng trường thì họ bị đạn từ các cửa sổ bắn xuống. Lính tìm chỗ nấp giữa các cây cối, ngoại trừ Reiter, anh vẫn cứ đi làm như chẳng nghe thấy gì, cho đến khi tới được cánh cửa một trong hai tòa nhà. Một trong các bức tường được trang trí bích họa vẽ một thủy thủ già đang đọc thư. Một vài dòng của lá thư ấy, người xem hoàn toàn có thể đọc được, tuy nhiên vì viết bằng chữ Cyril nên Reiter chẳng hiểu gì. Gạch lát quảng trường to, màu xanh lục. Không có thang máy nên Reiter leo lên thang bộ. Khi anh đến chiếu nghỉ đầu tiên thì có người bắn anh. Anh thấy một cái bóng nhô ra rồi sau đó cảm thấy tay phải nhói lên. Anh tiếp tục lên thang. Người ta lại bắn anh. Anh đứng im. Vết thương không chảy máu mấy và cái đau hoàn toàn có thể chịu được. Có khi mình chết rồi, anh nghĩ. Thế rồi anh nghĩ chắc mình chưa chết và mình không được ngất, chừng nào chưa ăn một viên đạn vào đầu thì không. Anh quặt vào một trong các căn hộ và đạp cửa. Anh thấy một cái bàn, bốn cái ghế, một tủ kính đầy những đĩa, trên nóc có vài cuốn sách. Trong phòng anh gặp một phụ nữ và hai đứa con trai nhỏ. Người phụ nữ rất trẻ, nhìn anh kinh hãi. Tôi không làm gì chị đâu, anh nói, rồi cố mỉm cười trong khi rút lui. Đoạn anh vào một căn phòng khác và hai quân nhân tóc cắt ngắn lập tức giơ tay xin hàng. Reiter thậm chí không nhìn họ. Từ trong những phòng khác người ta lục tục đi ra, nom đều có vẻ đói ăn hoặc giống như học viên trường giáo dưỡng. Ở một phòng nọ, bên một cửa sổ mở, anh tìm thấy hai khẩu súng cũ, liền vứt xuống phố và đồng thời ra hiệu cho đồng đội ngừng bắn.

Lần thứ ba anh suýt chết là nhiều tuần sau đó, trong cuộc tấn công Sebastopol. Lần này cuộc tấn công bị đẩy lui. Mỗi lần quân Đức cố triệt hạ một tuyến phòng thủ, hỏa lực của thành phố lại vãi đạn như mưa xuống họ. Trong khu ngoại vi thành phố, gần công sự của quân Nga, lính Đức và lính Rumani nằm chất đống chẳng toàn thây. Không dưới một lần hai bên đánh xáp lá cà. Quân tấn công đến được một chiến hào của lính thủy Nga và chiến đấu trong năm phút, sau đó một bên rút lui. Nhưng rồi lại thêm thủy thủ Nga kéo đến miệng hô u-ra và trận chiến lại bắt đầu. Với Reiter việc các thủy thủ lại có mặt trong những chiến hào lầm bụi đó là mang đầy những tiên triệu khủng khiếp và khiến anh hởi lòng hởi dạ. Một trong những thủy thủ đó nhất định sẽ giết anh và chừng đó anh sẽ lại trầm mình xuống đáy sâu của biển Baltic hay Đại Tây Dương hay Biển Đen, bởi xét cho cùng tất cả biển đều là cùng một biển và nơi đáy biển là một rừng rêu đang đợi anh. Hoặc anh sẽ đơn giản biến mất, vậy thôi.

Theo Wilke, cái vụ này thật là điên, bởi đám thủy thủ Nga đó ở đâu ra? tụi nó làm gì ở đó, cách xa cái chốn tự nhiên của tụi nó là biển và tàu đến cả hàng cây số? Thật khó hiểu, trừ phi máy bay Stuka của Đức đã đánh đắm tất tật tàu của hải quân Nga, Wilke suy đoán vậy, hoặc Biển Đen đã cạn khô, điều này thì cố nhiên anh ta không tin. Nhưng chuyện này anh ta chỉ nói với Reiter, bởi vì những người khác chấp nhận tất cả những gì họ thấy hoặc xảy đến với họ. Trong một cuộc tấn công như vậy Neitzke cùng vài chiến hữu khác cùng trung đội với Reiter bị giết. Một đêm kia, trong chiến hào, Reiter đứng thẳng rướn người hết cỡ mà ngắm những vì sao song thật ra sự chú ý của anh bị hút về phía Sebastopol. Thành phố đằng xa kia giống như một khối đen với những cái miệng đỏ cứ mở ra khép lại. Lính gọi nó là cái máy nghiền xương, nhưng đêm đó Reiter không thấy nó giống cỗ máy mà thấy giống như hóa thân của một sinh vật huyền thoại, một sinh thể đang chật vật cố hít thở. Trung sĩ Lemke ra lệnh cho anh khom xuống. Reiter từ bên trên nhìn xuống anh ta, cởi mũ cối, gãi đầu, thế rồi anh chưa kịp đội mũ cối lên thì đã bị một viên đạn quật đổ. Trong khi ngã xuống anh cảm thấy một viên đạn khác xuyên vào ngực mình. Anh nhìn trung sĩ Lemke bằng cặp mắt đã mờ đi: anh có cảm giác tay trung sĩ giống như một con kiến đang trở nên càng lúc càng to. Cách đó chừng năm trăm mét vài viên đạn pháo rơi.

♣ ♣ ♣

Hai tuần sau Reiter nhận huân chương Chữ thập Sắt. Một đại tá trao huân chương cho anh tại quân y viện dã chiến ở Novoselivske, bắt tay anh, bảo rằng đã có những báo cáo tuyệt vời về thành tích chiến đấu của anh ở Chornomorske và Mykolaivka, nói xong thì đi. Reiter không nói được vì bị một viên đạn xuyên thủng họng, vết thương nơi ngực bình phục nhanh nên chẳng bao lâu sau anh được chuyển từ bán đảo Crimea đến Krivoy Rog ở Ukraina nơi có bệnh viện lớn hơn, ở đó người ta mổ họng cho anh lần nữa. Sau ca mổ anh ăn uống lại bình thường, cử động cổ được như trước, nhưng vẫn không nói được.

Các bác sĩ chữa cho anh không biết nên cho anh nghỉ phép quay về Đức hay gửi anh về lại sư đoàn hiện vẫn đang tham gia phong tỏa Sebastopol và Kerch. Mùa đông đến và quân Xô viết phản công nghiền nát nhiều phần của phòng tuyến Đức khiến họ mãi không thể quyết được thành ra cuối cùng Reiter không được cho về Đức mà cũng chẳng quay lại đơn vị.

Nhưng bởi vì anh cũng không thể ở lại bệnh viện nên người ta cho anh cùng với ba người bị thương khác thuộc sư đoàn 79 đến làng Kostekino trên bờ sông Dnieper, nơi này có người gọi là Nông trang kiểu mẫu Budienny còn vài người khác kêu là Suối Ngọt, là bởi có một dòng suối, chi lưu của sông Dnieper, nước của suối ấy ngọt và trong một cách khác thường ở vùng này. Kostekino, nói cho ngay, chẳng phải một ngôi làng đúng nghĩa cho cam. Có dăm ba cái nhà rải rác giữa mấy ngọn đồi, hàng rào gỗ gần sập vì cũ quá, hai kho lúa mục nát, một con đường đất nối làng này với một thị trấn có xe lửa chạy qua, đường này hễ đông đến là ngập tuyết ngập bùn không đi được. Ven làng có một nông trang tập thể bỏ hoang mà năm người Đức cố đưa vào hoạt động trở lại. Phần lớn các nhà đều bỏ hoang, theo một số người là bởi dân làng đã chạy hết trước khi quân Đức tới, theo những người khác thì do dân làng đã bị Hồng quân bắt làm lính cả rồi.

Mấy ngày đầu Reiter ngủ ở một nơi chắc là phòng nông nghiệp hoặc có thể là trụ sở đảng ủy, tòa nhà duy nhất xây bằng gạch và xi măng trong làng, nhưng cuộc sống chung với dăm người Đức gồm kỹ sư và thương binh dưỡng bệnh ở Kostekino chẳng mấy chốc đâm ra không sao chịu nổi. Thế nên anh quyết định vào một trong các nhà trại bỏ trống mà ở. Thoạt nhìn các nhà trại ấy cái nào cũng giống cái nào. Một đêm kia, trong khi đang uống cà phê ở ngôi nhà gạch, Reiter nghe kể một dị bản khác về nguyên nhân dân làng này biến đâu sạch: họ chẳng bị bắt lính cũng chẳng đi trốn. Làng sạch bóng người là hậu quả trực tiếp của việc một phân đội của Einsatzgruppe C đã đi qua đây và đã tiêu diệt theo nghĩa đen tất tật người Do Thái trong làng. Bởi không nói được nên anh chẳng hỏi gì, nhưng ngày hôm sau anh xem xét tất cả các nhà một cách kỹ lưỡng hơn.

Nhà nào anh cũng đến nhưng chẳng tìm được bất cứ thứ gì khả dĩ cho thấy gốc gác hay tôn giáo của những cư dân trước đây. Cuối cùng anh dọn vào ở hẳn trong một căn nhà gần Suối Ngọt. Đêm đầu tiên ở đó anh thức giấc mấy lần vì ác mộng. Tuy nhiên, anh không nhớ nổi mình đã mơ gì. Cái giường anh nằm ngủ rất hẹp và rất mềm, cạnh lò sưởi, nơi tầng trệt. Tầng hai là một kiểu gác xép có một cái giường khác và một cửa sổ tròn nhỏ xíu, giống như mắt thuyền. Trong một cái rương to anh tìm thấy nhiều sách, hầu hết bằng tiếng Nga, nhưng anh ngạc nhiên nhận ra có vài cuốn là bằng tiếng Đức. Bởi Reiter biết có nhiều người Do Thái Đông Âu biết tiếng Đức nên anh đoán căn nhà này trên thực tế từng thuộc một người Do Thái. Thỉnh thoảng, giữa đêm thâu, sau khi gặp ác mộng phải choàng dậy la hét, anh thắp cây nến luôn luôn để cạnh giường rồi ngồi lặng rất lâu, chăn tuột khỏi hai chân, ngắm những vật thể đang nhảy múa cùng ánh nến mà cảm thấy mình chẳng có cơ nào qua nổi đận này trong khi cái lạnh cứ từ từ đóng băng anh. Thỉnh thoảng, buổi sáng, khi thức dậy, anh lại nằm lặng ngắm trần nhà bằng bùn và rơm và nhận thấy căn nhà này có cái gì đó đầy nữ tính, khó mà nói được là gì.

Sống gần đó có vài người Ukraina không phải là dân Kostekino, vừa mới đến để làm việc ở nông trang cũ. Mỗi khi Reiter ra khỏi nhà những người Ukraina này lại nhấc mũ và khẽ cúi để chào anh. Mấy hôm đầu Reiter không chào đáp lại. Nhưng rồi, một cách rụt rè, anh giơ tay lên vẫy tuồng như tạm biệt họ. Sáng sáng anh đi bộ đến dòng suối. Bằng con dao anh đào một lỗ rồi nhúng một cái môi xuống múc lên ít nước mà uống tại chỗ, thây kệ lạnh giá.

Khi mùa đông đến toàn bộ đám người Đức rút vào ngôi nhà gạch và thỉnh thoảng lại ăn chơi chè chén thâu đêm. Chẳng còn ai nhớ tới họ, tuồng như khi mặt trận sụp đổ thì họ cũng đã biến mất theo. Đôi khi họ ra ngoài tìm đàn bà. Những lần khác họ làm tình với nhau và chẳng ai nói năng gì. Đây là một thiên đường đóng băng, một trong các chiến hữu cũ của Reiter ở sư đoàn 79 nói. Reiter nhìn anh ta tuồng như chẳng hiểu anh ta nói gì, thế là anh lính vỗ vỗ vai anh mà nói tội nghiệp Reiter, tội nghiệp Reiter.

Có một lúc, Reiter nhìn chính mình trong một tấm gương anh tìm thấy trong một góc nhà. Đã lâu không soi gương, anh gần như không nhận ra chính mình. Râu hàm anh màu vàng, rối bời, tóc anh dài và bẩn thỉu, mắt anh khô và trống rỗng. Cứt, anh nghĩ. Đoạn anh tháo băng nơi cổ: vết thương có vẻ đã lành không có rắc rối gì, nhưng băng rất bẩn và máu khô làm nó cứng quèo, nên anh quyết định quẳng nó vào lò sưởi. Sau đó anh lục khắp nhà tìm thứ gì dùng làm băng được và do vậy anh tìm thấy giấy tờ của Boris Abramovich Ansky và chỗ trốn bí mật đằng sau lò sưởi.

♣ ♣ ♣

Chỗ trốn này cực đơn giản song cũng cực thông minh. Lò sưởi, đồng thời cũng là bếp, có miệng đủ rộng và ống khói đủ sâu để một người có thể cúi khom chui vào được. Trong khi bề rộng có thể nhìn qua là biết thì chiều sâu nhìn từ bên ngoài không thể đoán được, thêm nữa các bức tường ám đen mồ hóng là một lớp ngụy trang tinh vi. Mắt người không thể nhìn ra được cái khoảng hở phía sau, chỉ một đường nứt, song đủ lớn để một người ngồi co gối trốn an toàn trong bóng tối. Tuy nhiên, ngồi một mình trong căn nhà trại, Reiter ngẫm nghĩ rằng để cho cái chỗ trốn này hoạt động hoàn hảo thì phải có hai người: một người ngồi trốn còn một người đặt nồi xúp lên bếp rồi sau đó đốt lò sưởi và chốc chốc lại cời lửa.

Suốt nhiều ngày cái nan đề này cứ chiếm lĩnh tâm trí anh, bởi anh tin rằng nếu giải được nó thì anh sẽ hiểu rõ hơn về cuộc đời hoặc trạng thái tinh thần hoặc mức độ tuyệt vọng đã từng giày vò Boris Ansky hoặc người nào đó mà Boris Ansky biết rõ. Đôi lần anh định đốt lửa từ bên trong. Anh chỉ làm được một lần. Treo một nồi nước hoặc đặt một ấm samovar lên những súc củi cháy hóa ra là việc không thể nào làm được, khiến cho rốt cuộc anh kết luận rằng người nào xây nên cái chỗ trốn này hẳn đã vừa xây vừa nghĩ rằng một ngày nào đó sẽ có người trốn ở đây và một người khác sẽ giúp anh ta trốn. Người được cứu và người cứu, Reiter nghĩ. Người sẽ sống và người sẽ chết. Người sẽ lẻn đi khi đêm xuống và người sẽ ở lại và quy hàng. Thỉnh thoảng, đêm đêm, anh ngồi trong chỗ trốn ấy, chỉ trang bị có mỗi những giấy tờ của Boris Ansky và một cây nến, ngồi đó đọc, đọc mãi đến khuya, cho đến khi cơ bắp cứng đờ và toàn thân cóng lạnh.

♣ ♣ ♣

Boris Abramovich Ansky sinh năm 1909 ở Kostekino, trong chính căn nhà mà anh lính Reiter đang sống. Cha mẹ anh ta là người Do Thái, cũng như hầu hết dân làng, họ sống bằng nghề bán áo sơ mi, cha của anh ta đi mua sỉ áo sơ mi tại Dnepropetrovsk và đôi khi ở Odessa rồi đem về bán lại cho các làng lân cận. Mẹ anh ta nuôi gà lấy trứng bán và gia đình họ không cần mua rau bởi họ có một mảnh vườn tuy nhỏ nhưng chăm bón tốt. Giống như vợ chồng Abraham và Sarah trong Kinh Thánh, mãi đến khi đã già họ mới có một đứa con trai, Boris, đứa con khiến họ tràn đầy niềm vui.

Thỉnh thoảng, khi Abraham Ansky gặp bạn bè, ông hay đùa về chuyện ấy, nói rằng cái thằng hư hỏng đó, tức là con ông đấy, nó hư đến nỗi đôi khi ông nghĩ đáng lẽ ông nên đem nó đi hiến tế khi nó còn nhỏ mới phải. Những người Do Thái Chính thống của làng này liền cảm thấy bị xúc phạm hoặc vờ bị xúc phạm còn những người khác phá lên cười thỏa thích trong khi ông kết luận: nhưng thay vì đem nó đi hiến tế thì tôi lại hiến tế một con gà mái! con gà mái! không phải một con cừu hay thằng bé mới sinh của tôi mà là một con gà mái! con gà mái đẻ trứng vàng!

Năm mười bốn tuổi Boris Ansky gia nhập Hồng quân. Cuộc chia tay với cha mẹ thật đau lòng xiết bao. Đầu tiên cha cậu nức nở khôn nguôi, sau đó đến lượt mẹ cậu và cuối cùng Boris lao vào vòng tay cha mẹ và cả cậu cũng khóc. Chuyến hành trình đến Moskva thật khó quên. Dọc đường cậu thấy những khuôn mặt phi thường, nghe những cuộc trò chuyện hay những màn diễn văn phi thường, đọc thấy trên các bức tường những tuyên ngôn phi thường tuyên bố rằng thiên đàng đã gần kề, và tất cả những gì cậu gặp, dù trên đường hay trên tàu hỏa, đều tác động đến cậu mạnh mẽ bởi đây là lần đầu cậu ra khỏi làng, nếu không kể hai lần cậu cùng cha đi bán áo sơ mi loanh quanh trong huyện. Ở Moskva cậu đến một phòng tuyển quân và khi cậu toan ghi danh tòng quân chiến đấu chống Wrangel thì người ta cho hay Wrangel đã bị đánh bại rồi. Nghe đoạn Ansky nói cậu muốn tòng quân chiến đấu chống quân Ba Lan thì người ta liền bảo quân Ba Lan đã bị đánh bại rồi. Nghe đoạn Ansky hét lên rằng cậu muốn tòng quân chống Krasnov và Denikin thì người ta liền bảo Krasnov và Denikin đã bị đánh bại rồi. Chừng đó Ansky nói thôi được rồi, cậu muốn chiến đấu chống quân Bạch vệ Cô-dắc hay quân Tiệp hay Koltchak hay Yudenitsch hay quân Đồng minh và người ta bảo cậu rằng tất tật các bọn đó bị đánh bại hết ráo rồi. Tin tức về làng cậu muộn, họ nói. Rồi họ hỏi: chú em từ đâu tới hả nhóc? Ansky liền bảo Kostekino, gần sông Dnieper. Chừng đó một người lính già đang hút tẩu liền hỏi cậu tên gì và cậu có phải người Do Thái không. Ansky liền nói phải, cậu là người Do Thái, đoạn nhìn thẳng vào mắt người lính già và chỉ bấy giờ cậu mới nhận ra ông này chột và lại còn cụt một tay.

“Hồi chiến dịch chống tụi Ba Lan tớ có thằng chiến hữu người Do Thái,” ông già phả ra một bụm khói mà nói.

“Ông ấy tên gì?” Ansky hỏi. “Có khi tôi biết ông ấy.”

“Chú em biết tất tật những người Do Thái có mặt trong nước cộng hòa Xô viết hay sao hả nhóc?” ông lính già chột và cụt tay hỏi.

“Không, dĩ nhiên là không,” Ansky đỏ mặt nói.

“Hắn tên là Dimitri Verbitsky,” ông chột ngồi trong góc của mình mà nói, “hắn chết khi còn cách Warszawa một trăm cây số.”

Đoạn ông chột dịch người trên ghế, kéo chăn lên tận cằm rồi nói: chỉ huy của tụi này hồi đó tên là Korolenko, cũng chết đúng ngày h?