PHẦN NĂM (B) PHẦN VỀ ARCHIMBOLDI
Vào đầu mùa hè 1942, có ai đó nhớ ra những người lính ở Kostekino thế là Reiter được đưa trở lại sư đoàn. Anh đến Crimea. Anh đến Kerch. Anh có mặt ở bờ sông Kuban và có mặt trên đường phố Krasnodar. Anh băng qua Kavkaz đến Budennovsk và anh cùng tiểu đoàn mình băng qua thảo nguyên Kalmuk, luôn luôn mang cuốn sổ của Ansky dưới áo khoác, giữa bộ đồ thùng thình của người điên và bộ quân phục. Anh nuốt bụi và không thấy quân thù đâu, nhưng anh thấy Wilke, thấy Kruse và trung sĩ Lemke, nhưng không dễ gì nhận ra họ vì họ đã thay đổi, không chỉ về ngoại hình mà cả về giọng nói, chẳng hạn như Wilke bây giờ chỉ nói tiếng địa phương và gần như chẳng ai hiểu anh ta ngoại trừ Reiter, còn Kruse thì giọng nói đã thay đổi, anh ta nói năng cứ như thể cặp tinh hoàn đã bị ai xẻo từ lâu, còn trung sĩ Lemke thì không còn thét lác nữa, chỉ họa hoằn đôi lúc thôi, phần lớn là anh ta nói với người của mình bằng một kiểu thầm thì, tuồng như anh ta đang mệt hoặc bị ru ngủ bởi những quãng đường dài họ phải đi qua. Trung sĩ Lemke bị trọng thương khi họ cố gắng mở đường đến Tuapse mà không được và anh được trung sĩ Bublitz thay thế. Rồi mùa thu đến, cùng với bùn, cùng với gió, và vào cuối thu người Nga phản công.
Sư đoàn của Reiter, giờ là một phần của Tập đoàn quân số 17 chứ không phải số 11, rút lui từ Elista về Proletarskaya rồi lần theo sông Manych về đến Rostov. Sau đó sư đoàn tiếp tục rút lui về phía Tây, đến sông Mius, ở đấy một phòng tuyến mới được thiết lập. Mùa hè 1943 đến, người Nga lại tấn công và sư đoàn của Reiter lại rút lui. Cứ mỗi lần rút lui lại có ít người sống sót hơn. Kruse chết. Trung sĩ Bublitz chết. Voss, vốn dĩ can trường, đầu tiên được cất nhắc lên trung sĩ sau đó lên trung úy, và dưới tay Voss số thương vong tăng gấp đôi sau chưa đầy một tuần.
Reiter đâm ra có thói quen kiểm tra những người chết giống như người ta kiểm tra một lô hàng bày bán tại một nông trại hay một ngôi nhà ở thôn quê, rồi sau đó lục lọi túi quần túi áo của người chết xem có gì ăn được không. Wilke cũng làm vậy, song thay vì lẳng lặng làm thì anh ta hát một mình: Lính Phổ có thể tự thủ dâm nhưng không tự sát. Một số chiến hữu cùng tiểu đoàn gọi họ là ma cà rồng. Reiter chả bận tâm. Trong những lúc giải lao anh lôi một mẩu bánh mì cùng cuốn sổ của Ansky từ trong áo khoác ra đọc. Đôi khi Wilke ngồi xuống cạnh anh và ngủ thiếp đi ngay. Có lần anh ta hỏi có phải cuốn sổ ấy do anh ghi không. Reiter nhìn anh ta tuồng như câu hỏi ấy ngu đến nỗi không đáng trả lời. Wilke lại hỏi có phải anh ghi cuốn sổ ấy không. Reiter cảm thấy tuồng như Wilke đang ngủ và nói mớ. Mắt anh ta nửa mở nửa nhắm, râu ria không cạo và xương má cùng hàm anh ta như muốn bật ra khỏi mặt.
“Là một anh bạn ghi,” anh nói.
“Một anh bạn đã chết à,” Wilke nói trong giấc ngủ.
“Ít nhiều là thế,” Reiter nói, và đọc tiếp.
Reiter thích ngủ thiếp đi trong khi nghe tiếng pháo. Wilke cũng không chịu nổi im lặng kéo dài quá độ cho nên trước khi nhắm mắt anh ta luôn hát một mình. Nhưng trung úy Voss thì ngược lại, luôn luôn nút tai khi ngủ và phải khó khăn lắm mới dậy được để rồi thích nghi trở lại với sự tỉnh thức và với chiến tranh. Đôi khi người ta phải lay anh ta dậy và chừng đó anh ta hỏi có chuyện thổ tả nào xảy ra vậy rồi thì đấm loạn xạ vào bóng tối. Nhưng anh ta giành được mề đay và có lần Reiter cùng Wilke hộ tống anh ta đến ban tham mưu sư đoàn nơi tướng Von Berenberg đeo lên ngực anh ta tấm mề đay cao quý nhất mà một người lính của Wehrmacht có thể nhận được. Ấy là một ngày hạnh phúc cho Voss nhưng với sư đoàn 79 thì không, bấy giờ quân số của sư đoàn thậm chí còn ít hơn cả một trung đoàn, bởi vì chiều hôm đó, trong khi Reiter và Wilke đang ăn xúc xích bên một chiếc cam nhông, quân Nga tấn công cứ điểm của họ, thế là Voss cùng với hai người phải lập tức quay lại tiền tuyến. Cuộc kháng cự diễn ra chóng vánh và họ lại rút lui. Trong quá trình rút lui sư đoàn rút lại chỉ còn bằng cỡ một tiểu đoàn và nhiều binh lính trông giống như người điên thoát khỏi nhà thương điên.
Suốt mấy ngày họ đi về phía Tây được chừng nào hay chừng đó, bám theo đại đội của mình hoặc theo từng nhóm hết hợp lại tan.
Reiter đi một mình. Thỉnh thoảng anh thấy những đội hình máy bay Xô viết bay qua trên đầu và thỉnh thoảng bầu trời, mới phút trước hãy còn xanh lóa mắt, chợt vần vũ mây đen và bỗng dưng ập xuống một cơn bão kéo dài mấy giờ liền. Từ trên một ngọn đồi anh thấy một dòng xe tăng Đức đi về phía Tây. Giống những cỗ quan tài của một nền văn minh ngoài trái đất.
Anh đi về đêm. Ban ngày anh cố hết sức tìm chỗ trú thân và tiêu thời gian vào việc đọc cuốn sổ của Ansky cùng với ngủ và nhìn các thứ mọc lên hoặc cháy trụi quanh mình. Đôi khi anh nhớ đến những cánh rừng rong ở biển Baltic mà mỉm cười. Đôi khi anh nghĩ đến cô em gái và cũng mỉm cười. Đã lâu anh không có tin tức gì của gia đình. Cha anh chẳng bao giờ viết thư cho anh và Reiter ngờ rằng đó là bởi ông chẳng biết viết sao cho hay. Mẹ anh thì có viết. Bà nói gì trong thư nhỉ? Reiter không nhớ được; thư bà không dài lắm nhưng anh đã quên khuấy cả, anh chỉ nhớ được nét chữ của bà, to cộ, run rẩy, những lỗi ngữ pháp của bà, sự trần trụi của bà. Các bà mẹ lẽ ra không bao giờ nên viết thư, anh nghĩ. Thư của em gái thì ngược lại, anh nhớ như in và điều này khiến anh mỉm cười, lúc đang nằm sấp, ẩn mình trong cỏ, khi giấc ngủ chiếm lấy anh. Đấy là những bức thư trong đó em gái anh kể cho anh nghe những chuyện trong làng, chuyện trường học, chuyện áo quần cô mặc, chuyện về anh.
Anh là người khổng lồ, Lotte bé bỏng nói. Ban đầu Reiter hoang mang trước lời khẳng định này. Nhưng sau đó anh nghĩ rằng với một cô bé, một cô bé con hiền dịu và nhạy cảm đến như Lotte thì một người tầm vóc như anh là thứ tương cận nhất với người khổng lồ mà cô từng thấy. Bước đi của anh vang vọng trong rừng, Lotte nói trong thư. Chim trong rừng nghe tiếng chân anh liền thôi hót. Người làm lụng giữa đồng nghe thấy anh. Người ẩn náu trong phòng tối nghe thấy anh. Đám choai choai thuộc Đoàn Thanh niên Hitler nghe thấy anh liền bước ra đợi anh trên lối từ làng ra thị trấn. Mọi thứ đều vui. Anh còn sống. Nước Đức còn sống. Vân vân.
Một hôm, chẳng biết làm thế nào mà Reiter về lại được Kostekino. Chẳng còn lại người Đức nào trong làng nữa. Nông trang tập thể vắng tanh vắng ngắt, chỉ có cái đầu của vài ba người già run lẩy bẩy thiếu ăn từ trong vài căn nhà gỗ thò ra báo cho anh biết, bằng cách ra hiệu, rằng người Đức đã sơ tán tất cả các kỹ thuật viên và thanh niên người Ukraina làm việc trong làng. Đêm đó Reiter ngủ trong căn nhà của Ansky và cảm thấy dễ chịu hơn cả ở chính nhà mình. Anh nhóm lửa trong lò rồi để nguyên quần áo nằm xuống giường. Nhưng anh không ngủ ngay được. Anh bắt đầu nghĩ về những giả hình mà Ansky nói tới trong cuốn sổ ghi, và bắt đầu nghĩ về bản thân mình. Anh cảm thấy mình tự do hơn bao giờ hết trong đời, và cho dù đói khát và yếu ớt, anh còn cảm thấy mình có sức mạnh ngõ hầu kéo dài cái xung lực hướng về tự do, hướng về tự chủ này, kéo dài được chừng nào hay chừng nấy. Tuy nhiên, cái khả năng rằng tất cả mọi thứ này đều là giả hình khiến anh bứt rứt không yên. Giả hình là một lực chiếm ngự của thực tại, anh tự nói với mình, kể cả thực tại cùng cực nhất, xa xôi nhất. Nó sống trong linh hồn và trong hành động của con người, trong ý chí và trong đau đớn, trong cung cách người ta sắp xếp trật tự cho các ký ức và các ưu tiên. Giả hình nhân bội lên trong phòng khách của các nhà công nghiệp và trong giới vô lại. Nó định ra quy tắc, nó nổi dậy chống lại quy tắc của chính mình (trong những cuộc khởi loạn có thể đẫm máu, song chẳng phải vì vậy mà nó thôi là giả hình), nó định ra quy tắc mới.
Chủ nghĩa Quốc xã là địa hạt tối hậu của giả hình. Tình yêu, theo nguyên tắc phổ quát, cũng là một giả hình, anh nghĩ. Tình yêu của mình dành cho Lotte không phải giả hình. Lotte là em mình, nó còn nhỏ và nó nghĩ mình là người khổng lồ. Nhưng tình yêu, cái tình yêu thường tình, tình yêu giữa đàn ông với đàn bà, với những bữa sáng bữa chiều, với ghen tuông với tiền bạc với nỗi buồn, thì chỉ là diễn kịch, tức là giả hình. Tuổi trẻ là giả hình của sức mạnh, tình yêu là giả hình của bình an. Cả tuổi trẻ cả sức mạnh cả tình yêu cả bình an, mình không thể được ban cho một thứ nào trong đó, anh thở dài tự nhủ, mà mình cũng không thể nhận một món quà như vậy. Duy chỉ những bôn ba của Ansky là không phải giả hình, duy chỉ tuổi mười bốn của Ansky là không phải giả hình. Ansky sống suốt đời mình trong một sự non nớt điên cuồng bởi vì cách mạng, cuộc cách mạng đích thực duy nhất, cũng là non nớt. Đoạn anh ngủ thiếp đi không mộng mị và sáng hôm sau anh đi vào rừng tìm củi và khi quay về làng, bởi tò mò, anh vào trong tòa nhà nơi người Đức đã sống suốt mùa hè năm 42 và thấy nó bị bỏ không, tàn tạ, không bếp lò không túi thóc, không chăn, không lửa trong lò, khung cửa sổ gãy nát và cánh cửa gần long, sàn nhà bẩn thỉu đầy những vệt bùn vệt cứt mà nếu chẳng may giẫm lên là dính cứng vào đế giày. Trên một bức tường có chú lính nào đó dùng than viết dòng Heil Hitler, trên một bức tường khác thì có thứ gì đó kiểu như một bức thư tình. Ở tầng trên, ai đó đã tiêu khiển bằng cách vẽ lên tất tật các bức tường, lên cả trần nhà! những cảnh sinh hoạt thường ngày của những người Đức từng sống ở Kostekino. Đây trong một góc là bức phác họa khu rừng và năm người Đức, có thể nhận ra qua những chiếc mũ, đang nhặt củi hoặc săn chim. Ở một góc khác hai người Đức đang làm tình trong khi một người Đức thứ ba, cả hai tay băng bó, đứng nhìn sau một gốc cây. Ở một góc khác những người Đức nằm ngủ sau khi ăn tối và cạnh họ ta có thể nhận ra xương của một con chó. Nơi góc cuối cùng là chính Reiter, với bộ râu cằm dài vàng óng, đang từ trong cửa sổ nhà Ansky nhìn ra đoàn diễu hành đi ngang gồm một voi, một hươu cao cổ, một tê giác và một vịt. Ở chính giữa bức bích họa này, nếu có thể gọi như vậy, là một quảng trường lát đá, một quảng trường tưởng tượng chưa từng tồn tại ở Kostekino, với đầy những đàn bà hoặc những bóng ma đàn bà tóc dựng đứng, đang vừa chạy từ bên này đến bên kia vừa rền rĩ trong khi hai lính Đức trông coi một toán thợ trẻ người Ukraina đang dựng một tượng đài bằng đá mà hình thù chưa thể nhận ra.
Các bức vẽ đều thô tháp và trông như tranh con nít còn phối cảnh thì như kiểu tiền Phục hưng, song bố cục lại toát lên một sự mỉa mai và bởi vậy bộc lộ một tài nghệ bậc thầy ẩn kín vĩ đại hơn nhiều so với ấn tượng lúc thoạt nhìn. Khi quay lại căn nhà gỗ Reiter nghĩ người vẽ các tranh ấy có tài, nhưng đã hóa điên như tất thảy những người Đức khác đã sống qua mùa đông năm 42 ở Kostekino. Anh cũng nghiền ngẫm về sự xuất hiện lạ lùng của chính mình trên bức tranh tường. Người vẽ rõ ràng đã tin rằng chính anh đã hóa điên, anh kết luận như vậy. Hình ảnh con vịt, kẻ khóa đuôi đoàn diễu hành do voi dẫn đầu, gợi cho anh nghĩ vậy. Anh nhớ rằng dạo ấy anh còn chưa nói lại được. Anh cũng nhớ rằng dạo đó anh không ngừng đọc lui đọc tới cuốn sổ của Ansky, thuộc nằm lòng từng câu từng chữ, và cảm thấy cái gì đó rất lạ đôi khi giống như hạnh phúc còn những lúc khác thì giống một tội lỗi cao rộng như bầu trời. Và anh chấp nhận cái tội lỗi ấy cùng hạnh phúc ấy và đôi khi giữa đêm anh đem cái nọ bù trừ cho cái kia và kết quả sau cùng của bài tính không tiền khoáng hậu này là hạnh phúc, song là một hạnh phúc thuộc loại khác, một hạnh phúc xé lòng mà đối với Reiter không phải là hạnh phúc, chỉ là Reiter thôi.
Một đêm nọ, ba ngày sau khi quay lại Kostekino, anh mơ thấy người Nga đã chiếm được làng và để chạy trốn họ anh phải lao xuống suối, dòng Suối Ngọt, bơi theo dòng Suối Ngọt đến tận sông Dnieper, nhưng cả sông Dnieper cũng nghìn nghịt quân Nga, cả bờ bên trái lẫn bờ bên phải, cả bọn bên này lẫn bọn bên kia trông thấy anh xuất hiện giữa dòng thì liền cười ha hả và bắn anh, và anh mơ thấy rằng để tránh đạn anh phải hụp sâu xuống dưới nước và để dòng nước cuốn mình đi, chỉ trồi lên mặt nước để hớp chút hơi rồi lại hụp xuống dưới, cứ vậy anh trôi xuôi dòng hết cây số này tới cây số nọ, đôi khi nín thở được hai phút ba phút hay bốn phút, kỷ lục thế giới, cho đến khi dòng sông đã đưa anh đi xa khỏi bọn người Nga, nhưng kể cả khi đó Reiter vẫn không thôi lặn dưới nước, trồi lên thở rồi lại lặn, và lòng sông nhìn cứ như một lối đi toàn sỏi, chốc chốc anh thấy những đàn cá nhỏ màu trắng và chốc chốc anh va vào một cái xác đã bị rỉa sạch thịt chỉ còn trơ xương, và những bộ xương điểm xuyết cho dòng sông này có thể là Đức có thể là Xô viết, điều ấy không thể biết được, bởi quần áo họ mặc đã mục rữa hết và dòng sông đã lôi họ xuôi dòng, và trong mơ dòng sông cũng lôi anh xuôi dòng, và thi thoảng, nhất là về đêm, anh trồi lên trên mặt nước tựa như chết trôi, để nghỉ hoặc để ngủ trong năm phút trong khi dòng sông ôm anh trong dạ mải mốt đưa anh về phương Nam, và khi mặt trời lên Reiter lại hụp xuống và lặn xuống, quay trở về lòng sông sền sệt của dòng Dnieper, cứ thế ngày lại ngày cứ trôi qua, đôi khi anh trôi qua một thành phố và thấy những ánh đèn của nó, hoặc nếu không có ánh đèn thì anh nghe một âm thanh mơ hồ, giống như tiếng cọt kẹt lách cách của đồ đạc gỗ, làm như có những người bệnh đang xê dịch bàn tủ giường ghế, rồi thỉnh thoảng anh trôi qua những cầu phao quân sự và anh thấy những cái bóng đông cứng của binh lính giữa bóng đêm, những cái bóng hắt lên trên mặt sóng dập dềnh, và một sáng nọ, cuối cùng dòng Dnieper cũng đổ vào Biển Đen, nơi nó thôi không tồn tại nữa hoặc được chuyển hóa, và Reiter lại gần bờ sông hay bờ biển bằng những bước run run, tuồng như anh là một cậu học trò, cậu học trò mà anh chưa bao giờ có dịp trở thành, quỵ xuống trên mặt cát sau khi bơi đến kiệt cùng sức lực, lóa mắt trước mặt trời thiên đỉnh của một kỳ nghỉ hè, chỉ để rồi phát hiện ra với nỗi kinh hoàng, trong khi ngồi đó trên bãi biển mà ngắm cái mênh mông của Biển Đen, rằng cuốn sổ của Ansky, cuốn sổ mà anh mang trong áo khoác, đã biến thành một cục bột giấy, mực đã nhòe đi vĩnh viễn, nửa cuốn sổ dính bết vào quần áo anh hoặc vào da anh còn nửa kia biến thành những phân tử trôi xa dưới những làn sóng biển hiền hòa.
Ngay lúc ấy Reiter sực tỉnh và quyết định rằng mình phải rời khỏi Kostekino càng nhanh càng tốt. Anh lặng lẽ mặc quần áo và gói ghém mấy món tư trang ít ỏi. Anh không thắp đèn cũng không khêu lửa. Anh nghĩ ngợi xem ngày hôm đó mình sẽ phải đi bao xa. Trước khi rời căn nhà gỗ anh thận trọng cất lại cuốn sổ của Ansky vào chỗ nấp phía sau lò sưởi. Hãy để một người khác tìm ra nó, anh nghĩ. Đoạn anh mở cửa, khép lại thật cẩn thận và sải bước rời làng.
♣ ♣ ♣Mấy ngày sau anh gặp một nhánh của sư đoàn mình và lại quay về với cái đơn điệu của cầm cự một chút rồi rút lui, cho đến khi họ bị quân Xô viết hủy diệt ở Bug, phía Tây Pervomaysk, và tàn quân của sư đoàn 79 được sáp nhập vào đại đoàn số 303. Vào năm 1944, trong khi họ tiến đến Jassy với một lữ đoàn cơ giới Nga bám theo sát gót, Reiter và các lính khác thuộc tiểu đoàn anh thấy một đám bụi màu xanh biếc dựng lên đến tận bầu trời giữa ngọ. Sau đó họ nghe những tiếng hét những tiếng hát rất khẽ khàng và lát sau Reiter thấy qua ống nhòm một nhóm lính Rumani đang hộc tốc chạy qua một cánh đồng, cứ như họ đang bị quỷ ám hoặc khiếp đảm, rồi rẽ sang một đường đất chạy song song với con đường mà sư đoàn của anh đang rút.
Họ chẳng có nhiều thì giờ, bởi người Nga có thể đến bất cứ lúc nào, song Reiter cùng vài chiến hữu của anh vẫn quyết định đi xem chuyện gì đang xảy ra. Họ rời ngọn đồi đang dùng làm cứ điểm quan sát và ngồi trên một chiếc xe bọc thép có trang bị súng máy băng qua vạt đất lắm bụi cây ngăn giữa hai con đường. Họ thấy một thứ kiểu như lâu đài của Rumani, vắng ngắt, cửa sổ thảy đều đóng, với một khoảnh sân lát đá trải dài đến chỗ dãy chuồng. Sau đó họ ra đến một bãi đất trống nơi vẫn còn lác đác vài lính Rumani đang chơi xúc xắc hoặc đang khuân những bức tranh và bàn ghế giường tủ từ trong lâu đài ra chất lên mấy cỗ xe bò rồi sau đó tự mình kéo xe đi. Cuối bãi đất trống, cắm sâu xuống đất vàng khè, là một cây thánh giá to đùng làm bằng những phiến gỗ to đánh véc ni sắc thẫm hẳn là bị rứt ra từ trong đại sảnh của lâu đài. Trên cây thánh giá có một người đàn ông trần truồng. Những lính Rumani biết chút tiếng Đức hỏi họ làm gì ở đó. Toán lính Đức trả lời là họ đang chạy quân Nga. Bọn Nga sắp tới rồi, mấy người Rumani nói.
“Vậy là nghĩa làm sao?” một người Đức hỏi, tay ra hiệu về phía người bị đóng đinh trên thập giá.
“Tướng của binh đoàn tụi tao,” đám Rumani vừa tất bật chất đồ thuổng được lên xe vừa nói.
“Tụi mày đào ngũ à?” một trong mấy người Đức hỏi.
“Đúng vậy,” một người Rumani nói, “đêm qua Đại đoàn quân thứ ba quyết định rã hàng.”
Mấy người Đức nhìn nhau, như thể không biết nên bắn nhóm Rumani kia hay nên rã hàng cùng họ.
“Giờ tụi mày đi đâu?” họ hỏi bọn kia.
“Về phía Tây, về nhà tụi tao,” một trong mấy người Rumani nói.
“Tụi bây nghĩ kỹ chưa?”
“Ai cản đường là tụi tao bắn sạch,” mấy người Rumani nói.
Như để khẳng định, hầu hết bọn họ cầm súng lên, vài người thậm chí chẳng nể nang gì nhắm thẳng vào nhóm lính Đức. Trong thoáng chốc có vẻ như hai nhóm sắp bắn nhau tới nơi. Ngay lúc đó Reiter xuống xe, và, chẳng ngó ngàng gì đến tình hình căng thẳng giữa nhóm Rumani và nhóm Đức, anh đi thẳng về phía cây thập giá và người bị đóng đinh trên đó. Người đàn ông đó có vết máu khô trên mặt, hình như đêm trước y bị người ta dùng báng súng nện vào mũi, mắt y bầm đen và môi y sưng vêu song Reiter vẫn nhận ra y tức khắc. Đó là tướng Entrescu, người đã làm tình với nữ nam tước Von Zumpe trong tòa lâu đài trên dãy Karpat và anh cùng với Wilke đã nhìn trộm từ chỗ lối đi bí mật. Quần áo ông bị người ta xé phăng hết cả, có lẽ là giữa lúc ông đang còn sống, khiến ông trần truồng tô hô ngoại trừ đôi bốt đi ngựa. Dương vật của Entrescu, một cái củ đầy kiêu hãnh mà theo anh và Wilke tính toán hồi đó là khi cương lên dài ba chục phân, giờ ẽo ợt lắc lư trong gió nhẹ hoàng hôn. Dưới chân thập giá là một hộp đựng chỗ pháo mà tướng Entrescu hay dùng để mua vui cho khách. Thuốc pháo chắc bị ướt hoặc là pháo chắc cũ quá bởi khi pháo nổ thì thứ duy nhất chúng sinh ra là một cụm khói xanh bốc ngay lên trời rồi biến mất. Một trong các lính Đức, sau lưng Reiter, đưa ra một nhận xét về dương cụ của tướng Entrescu. Vài người Rumani cười rộ và rồi tất cả bọn họ, người nhanh người chậm, liền tiến về phía cây thập giá tuồng như đột nhiên nó vừa lấy lại được sức hút xưa của mình.
Các khẩu súng không còn chĩa vào ai nữa. Những người lính cầm súng giống như cầm nông cụ, tuồng như họ là những nông phu mỏi mệt bước dọc bờ vực thẳm. Họ biết quân Nga đang ở gần kề và họ sợ quân Nga, song không ai cưỡng nổi ý muốn bước lại gần thập giá của tướng Entrescu lần cuối.
“Hắn ta là loại người nào?” một người Đức hỏi, biết rằng câu trả lời có là gì thì cũng vậy thôi.
“Không phải người xấu,” một người Rumani nói.
Thế rồi tất cả đắm mình trầm ngâm suy nghĩ, vài người cúi đầu còn những người khác thì nhìn viên tướng bằng đôi mắt của kẻ bị thôi miên. Chẳng ai nghĩ đến chuyện hỏi xem người ta đã giết ông ra sao. Có lẽ họ đã nện ông một trận, vật ông xuống đất rồi tiếp tục đánh ông. Thân thập giá thẫm lại vì máu và vết thẫm, đen sì như nhện, kéo dài xuống tận đất vàng khè. Chẳng ai nghĩ đến chuyện dỡ ông xuống khỏi thập giá.
“Phải còn lâu nữa mới mong gặp lại một mẫu vật như gã này,” một người Đức nói.
Những người Rumani không hiểu anh ta. Reiter xem xét khuôn mặt của Entrescu: mắt ông nhắm song lại khiến người ta ngỡ chúng đang mở thao láo. Hai bàn tay ông bị neo chặt vào gỗ bằng những cây đinh tướng màu bạc. Mỗi bàn tay ba cây đinh. Hai bàn chân ông bị những cây đinh thợ rèn dày cộ xuyên thủng qua. Bên tay trái Reiter, một tay Rumani trẻ măng, chưa quá mười lăm tuổi, mặc quân phục rộng thùng thình, làm dấu thánh giá. Reiter hỏi liệu có còn ai khác trong lâu đài không. Toán Rumani đáp chỉ có họ thôi, quân đoàn 3 hay là tàn dư còn lại của quân đoàn 3 đã đến ga Litacz từ ba hôm trước và viên tướng, thay vì tìm một chỗ an toàn hơn ở phía Tây, lại quyết định ghé thăm lâu đài của mình, và đến nơi mới thấy nó vắng tanh vắng ngắt. Chả có gia nhân nào cũng chẳng có con thú nào để giết mà ăn. Suốt hai ngày liền viên tướng giam mình trong phòng, không bước ra ngoài. Lính tráng lang thang tha thẩn khắp ngôi nhà cho đến khi tìm được hầm rượu liền phá tung cửa. Mặc cho một số sĩ quan ngần ngừ bất quyết, cả bọn liền bắt đầu nhậu say túy lúy. Đêm đó một nửa quân đoàn 3 đào ngũ. Những người còn ở lại là do tự nguyện chứ không phải bởi bị ai ép buộc, họ ở lại vì họ yêu mến tướng Entrescu. Hoặc vì cái gì đó tương tự. Vài người đi cướp bóc ở mấy làng lân cận và không trở về. Một số người đứng ngoài sân lớn tiếng gọi viên tướng, bảo ông hãy trở lại nắm quyền chỉ huy và quyết phải làm gì. Nhưng viên tướng vẫn giam mình trong phòng, không chịu mở cửa cho ai cả. Một đêm say nọ lính tráng phá cửa vào. Tướng Entrescu ngồi trên ghế, xung quanh là bao nhiêu nến to nến nhỏ, đang xem một tập album. Thế rồi chuyện gì xảy ra đã xảy ra. Ban đầu Entrescu tự vệ, lấy roi ngựa quất họ. Nhưng lính tráng đều đã phát điên vì đói và vì sợ nên họ giết ông ta rồi đóng đinh lên thập giá.
“Làm cái thập giá to cỡ này chắc vất vả lắm,” Reiter nói.
“Tụi tao làm cái này trước khi giết viên tướng,” một tay Rumani nói. “Tao chả biết tụi tao làm nó ra làm gì nữa, nhưng tụi tao làm nó thậm chí từ trước khi tụi tao say cơ.”
Đoạn mấy người Rumani lại quay sang chất đồ xoáy được lên xe và một số người Đức liền giúp họ còn những lính Đức khác thì quyết định đi một vòng quanh nhà để xem trong tầng hầm có còn tí rượu nào không, thế là dáng người trên thập giá một lần nữa bị bỏ lại bơ vơ. Trước khi rời khỏi đó, Reiter hỏi xem hội kia có biết một người tên Popescu không, anh này độ trước luôn luôn đi cùng viên tướng, kiểu như làm thư ký cho ông ta hay sao đó.
“À, đại úy Popescu,” một tay Rumani gật đầu nói, với cái giọng như thể anh ta đang nói về đại úy Thú mỏ vịt. “Giờ chắc thằng cha đã ở Bucarest rồi.”
Trong khi họ tiến về phía vạt đất đầy cây bụi, tung lên một quầng mây bụi dọc con đường, Reiter nghĩ hình như mình thấy vài con chim đen bay trên khoảnh đất phẳng nơi tướng Entrescu đã đứng chiêm quan diễn tiến của cuộc chiến tranh. Một trong các lính Đức, ngồi cạnh súng máy, vừa nói vừa cười rộ, rằng không biết khi thấy cái gã trên thập giá kia thì tụi Nga sẽ nghĩ gì. Chẳng ai trả lời.
♣ ♣ ♣Thua hết trận này đến trận khác, cuối cùng Reiter cũng về được Đức. Vào tháng Năm 1945, ở tuổi hai mươi lăm, sau khi ẩn náu trong một khu rừng suốt hai tháng trời, anh nộp mình cho một nhóm lính Mỹ và bị giam trong một trại tù binh ở ngoại vi Ansbach. Ở đấy lần đầu tiên sau nhiều ngày anh mới được tắm vòi sen và đồ ăn khá ngon. Phân nửa số tù nhân ngủ trong những doanh trại do lính Mỹ da đen xây lên còn phân nửa kia thì ngủ trong mấy lều bạt lớn. Ngày ngày có những người đến thăm trại và kiểm tra giấy tờ của tù binh, theo đúng thứ tự bảng chữ cái. Đầu tiên họ kê một cái bàn ở ngoài trời và tù binh xếp hàng một lần lượt đi qua bàn trả lời các câu hỏi. Sau đó thì các lính da đen, được một số người Đức giúp sức, lắp đặt một doanh trại đặc biệt, có ba phòng, và các tù binh xếp thành hàng trước doanh trại này. Reiter chẳng quen biết ai trong trại. Các chiến hữu của anh ở sư đoàn 79 rồi thì sư đoàn 303 thảy đều đã chết hoặc bị người Nga bắt làm tù binh hoặc đã đào ngũ giống như anh. Tàn quân còn lại của sư đoàn đang trên đường tiến đến Pilsen, và ở Protectorate, Reiter đã bỏ đi một mình một đường giữa cơn hỗn loạn. Ở trại tù binh Reiter cố không làm thân với một ai. Tối tối có vài lính Đức hát. Đứng trên vọng canh, các lính da đen nhìn cảnh đó mà cười ha hả, song có lẽ vì không ai hiểu lời bài hát nên họ cứ để tù binh hát cho đến giờ đi ngủ. Những người khác lững thững tản bộ từ đầu này trại đến đầu kia trại, tay trong tay, trò chuyện về những chủ đề kỳ quặc nhất. Người ta đồn chẳng mấy nữa mà hai bên Liên Xô và Đồng minh sẽ thù nghịch nhau cho xem. Họ đoán già đoán non về tình huống xảy ra cái chết của Hitler. Họ nói về cái đói và về chuyện vụ mùa khoai tây sẽ một lần nữa cứu nước Đức khỏi thảm họa.
Ngủ cạnh chõng của Reiter là một ông trạc năm mươi tuổi, lính của đội quân Volkssturm*. Ông này để mặc râu hàm mọc không thèm cạo và nói bằng một thứ tiếng Đức mềm mại nhẹ nhàng, cứ như chẳng có gì xảy ra xung quanh có thể tác động tới ông được. Ban ngày ông thường trò chuyện với hai cựu binh Volkssturm khác thường đi dạo và ăn cùng ông. Tuy nhiên, đôi lần Reiter thấy ông ngồi một mình, viết cái gì đó bằng bút chì lên những mẩu giấy đủ loại mà ông rút trong túi quần túi áo ra rồi sau đó cất đi vô cùng cẩn thận. Một lần, trước khi đi ngủ, Reiter hỏi ông viết gì vậy, thì ông bảo ông đang cố viết ra giấy những gì mình nghĩ. Nhưng việc này chẳng dễ, ông nói thêm. Reiter không hỏi gì thêm, tuy nhiên từ đó trở đi ông cựu binh Volkssturm, đêm nào cũng vậy, trước khi đi ngủ, luôn luôn tìm cớ nào đó trao đổi đôi lời với anh. Theo lời ông kể, vợ ông đã chết khi người Nga tiến vào Küstrin, vợ chồng họ vốn dân ở đấy, tuy nhiên ông không oán hận ai, chiến tranh là chiến tranh, ông nói, khi nào chiến tranh chấm dứt thì tốt nhất là tha thứ cho nhau và bắt đầu lại từ đầu.
Bắt đầu như thế nào? Reiter muốn biết. Bắt đầu từ con số không, với niềm vui và với cả trí tưởng tượng nữa, ông kia thì thầm bằng thứ tiếng Đức nhẩn nha chậm rãi của ông. Tên ông ta là Zeller và ông mảnh khảnh, kín đáo. Khi Reiter thấy ông tản bộ dọc suốt trại, bao giờ cũng cùng với hai cựu binh Volkssturm kia, ông, có lẽ tương phản với hai người bạn đồng hành, toát ra một sự đường hoàng cao nhã lớn lao. Một đêm kia Reiter hỏi ông có gia đình không.
“Tôi có vợ,” Zeller đáp.
“Nhưng vợ ông chết rồi mà,” Reiter nói.
“Tôi còn có đứa con trai với đứa con gái,” anh nghe ông kia thầm thì, “nhưng chúng cũng chết rồi. Thằng con tôi chết trong trận Kursk còn con gái thì chết trong một trận ném bom ở Hamburg.”
“Ông có họ hàng nào khác không?” Reiter hỏi.
“Hai đứa cháu, sinh đôi, một trai một gái, nhưng tụi nó cũng chết trong chính trận bom ấy rồi.”
“Lạy Chúa tôi,” Reiter nói.
“Thằng con rể tôi cũng chết, không phải trong trận bom, mà nhiều ngày sau, do đau khổ vì mất vợ con.”
“Khủng khiếp quá,” Reiter nói.
“Nó uống thuốc chuột tự sát,” Zeller thầm thì trong bóng tối. “Nó quằn quại đau đớn suốt ba ngày mới chết.”
Reiter không biết nói sao, phần vì anh sắp ngủ đến nơi, và điều cuối cùng anh nghe được là giọng của Zeller nói rằng chiến tranh là chiến tranh và tốt nhất hãy quên hết, quên hết, quên hết. Sự thật là Zeller có một sự bình tâm thật đáng ghen tị. Sự bình tâm này chỉ bị khuấy động khi xuất hiện những tù binh mới hoặc khi các khách thăm lại đến và thẩm vấn họ từng người một bên ngoài khu trại. Sau ba tháng thì đến lượt những người có họ bắt đầu bằng Q, R và S, thế là Reiter nói chuyện với những người lính và một số người mặc thường phục, họ nhã nhặn bảo anh quay mặt đằng trước rồi thì xoay nghiêng và sau đó họ lục lọi trong hai ba tập hồ sơ chắc hẳn đầy những ảnh. Đoạn, một trong những người mặc thường phục hỏi Reiter làm gì hồi chiến tranh và anh phải kể cho họ nghe mình đã ở tại Rumani cùng sư đoàn 79 rồi sau đó ở Nga, tại đấy anh bị thương mấy lần.
Mấy người lính và mấy người mặc thường phục muốn thấy các vết thương của anh thế là anh phải cởi quần áo cho họ xem. Một trong những người mặc thường phục, nói tiếng Đức bằng giọng Berlin, hỏi ở trong trại anh có ăn uống tốt không. Reiter nói anh ăn như một ông hoàng và khi người vừa hỏi dịch lại cho những người kia, cả bọn cả cười.
“Anh thích đồ ăn Mỹ không?” một trong mấy người lính nói.
Người mặc thường phục dịch lại và Reiter nói:
“Thịt của Mỹ là ngon nhất trần đời.”
Cả bọn lại cười rộ.
“Anh có lý,” người lính nói, “nhưng thịt anh ăn không phải thịt của Mỹ mà là đồ ăn cho chó.”
Lần này người thông dịch (anh này quyết định không dịch câu trả lời) và vài người lính cười đến nỗi ngã lăn xuống đất. Một lính da đen từ ngoài cửa nhòm vào với vẻ mặt lo âu, hỏi xem họ có đang gặp rắc rối gì với gã tù không. Họ lệnh cho anh ta đóng cửa lại rồi đi đi, chả có rắc rối gì ráo, chỉ là người ta đang kể chuyện tiếu lâm thôi. Kế đó một trong số họ rút ra một gói thuốc lá và mời Reiter một điếu. Tôi sẽ hút sau, Reiter nói, đoạn giắt nó vào sau tai. Sau đấy những người lính bỗng trở nên nghiêm túc và bắt đầu ghi lại những thông tin do Reiter cung cấp: ngày tháng năm sinh, tên cha mẹ, địa chỉ của cha mẹ và của ít nhất hai thành viên trong gia đình hoặc bạn bè, vân vân.
Đêm đó Zeller hỏi chuyện gì xảy ra trong buổi thẩm vấn, thế là Reiter kể lại hết cho ông nghe. Họ có hỏi anh nhập ngũ vào tháng nào năm nào không? Có. Họ có hỏi văn phòng tuyển quân của anh ở đâu không? Có. Họ có hỏi anh phục vụ ở sư đoàn nào không? Có. Có ảnh không? Có. Anh có thấy ảnh không? Không. Khi kết thúc phần thẩm vấn của riêng mình, Zeller kéo chăn lên che mặt và có vẻ như đã ngủ nhưng một chốc sau Reiter nghe tiếng ông lẩm bẩm trong bóng tối.
Tuần sau đó, những người thẩm vấn lại đến, lần này chỉ có hai người và chẳng có ai xếp hàng chờ cũng chẳng có thẩm vấn nào. Họ bảo tù binh đứng thành đội hình, sau đó các lính da đen đi duyệt các hàng, lôi ra chừng chục người, dẫn chục người này đến hai chiếc xe tải, còng tay họ ẩy lên xe. Trưởng trại cho họ biết các tù này bị tình nghi là tội phạm chiến tranh, kế đó ông ta lệnh cho họ giải tán, trở lại sinh hoạt bình thường. Khi những người thẩm vấn đến trại lần kế, sau đấy một tuần, họ chuyển sang các chữ cái T, U và V và lần này Zeller thực sự đâm ra bồn chồn lo lắng. Giọng nói nhẹ nhàng của ông vẫn y nguyên, song lời lẽ và cách nói thì thay đổi: từ ngữ ra khỏi môi ông cứ lập bà lập bập và về đêm ông cứ lẩm bẩm không sao ngừng được. Ông nói nhanh, như thể bị thúc bách bởi những lý lẽ ngoài tầm kiểm soát của ông, những lý lẽ mà ông hầu như không hiểu. Ông rướn cổ về phía Reiter, tì lên cùi chỏ mà bắt đầu thì thào và rên rỉ và mường tượng ra những cảnh huy hoàng, những cảnh ấy hợp với nhau làm thành một khối ráp hỗn độn của những khối lập phương đen thủi đen thui chồng chất lên nhau.
Ban ngày thì sự thể lại khác. Zeller lại toát lên vẻ đường hoàng cao nhã, và tuy ông không đánh bạn với ai trừ hai cựu chiến hữu trong đội quân Volkssturm, song hầu như tất cả mọi người đều tôn trọng ông và coi ông là người chính trực. Tuy nhiên, với Reiter, kẻ phải chịu đựng những lời dông dài hằng đêm của ông, tư thái của Zeller ngày càng tệ dần đi, như thể bên trong ông đang diễn ra một cuộc đấu tranh khốc liệt giữa những lực đối nghịch nhau một trời một vực. Những lực nào vậy? Reiter không biết, song anh có trực cảm rằng cả hai lực ấy nảy sinh từ một nguồn duy nhất, từ sự điên. Một đêm nọ Zeller bảo anh rằng tên ông không phải Zeller mà là Sammer và bởi vậy nếu tuần sau ông không trình diện những người thẩm vấn khi họ gọi theo thứ tự vần chữ cái thì cũng hợp lý thôi.
♣ ♣ ♣Đêm ấy Reiter không buồn ngủ và trăng tròn lọc qua vải lán giống như cà phê lọc qua một cái tất.
“Tên tôi là Leo Sammer và những chuyện tôi đã kể với anh có vài chuyện thật vài chuyện không thật,” ông Zeller rởm vừa nói vừa trở mình trên chõng làm như toàn thân ông đang ngứa. “Anh có nhận ra tên tôi không?”
“Không,” Reiter nói.
“Chẳng có lý gì để cậu phải nhận ra cả, con trai ạ, tôi không phải và cũng chưa bao giờ là người nổi tiếng, cho dù trong thời gian cậu xa nhà thì tên tôi đã lớn phổng lên như một khối u ác tính và giờ nó được viết ra trên những giấy tờ khó ngờ được nhất,” Sammer nói bằng thứ tiếng Đức êm mềm và càng lúc càng nhanh. “Dĩ nhiên, tôi chưa hề ở trong đội Volkssturm. Tôi từng chiến đấu, tôi không muốn có ai nghĩ rằng tôi chưa từng chiến đấu, tôi đã chiến đấu, như bất cứ người Đức nào mang dòng dõi gia phong, nhưng tôi phụng sự ở những sân khấu khác, không phải trên chiến trường quân sự mà là chiến trường kinh tế và chính trị. Vợ tôi chưa chết, tạ ơn Chúa,” ông nói tiếp sau một hồi im lặng dài, suốt trong im lặng ấy ông cùng Reiter nhìn ánh sáng quét qua lều như một cánh chim hoặc như một cái móng vuốt. “Con trai tôi chết, chuyện đó thì đúng. Thằng con tội nghiệp của tôi. Một thằng thông minh, thích thể thao và đọc sách. Còn có thể đòi hỏi gì hơn ở một thằng con nữa. Nghiêm túc, một vận động viên, người đọc sách nhiệt thành. Nó chết ở Kursk. Dạo ấy tôi là phó giám đốc của một tổ chức chuyên cung cấp nhân lực cho Đế chế, các văn phòng chính của nó nằm ở một thành phố nhỏ của Ba Lan chỉ cách lãnh thổ của Chính phủ Trung ương có vài cây số.
“Khi người ta báo tin cho tôi thì tôi thôi không tin vào chiến tranh nữa. Đã vậy, vợ tôi lại còn bắt đầu có dấu hiệu bị bệnh tâm thần. Tôi ước sao đừng ai lâm vào hoàn cảnh như tôi. Kể cả kẻ thù tôi! Một đứa con trai chết khi đang tuổi hoa niên, một người vợ đau nửa đầu không dứt, và một việc làm vắt kiệt sức ta, đòi ta phải nỗ lực và tập trung tột độ. Song tôi vẫn tiến lên phía trước, nhờ bản tính có phương pháp và nhờ sự ngoan cường của mình. Sự thật là tôi làm việc để quên đi bất hạnh. Kết quả là tôi được bổ làm lãnh đạo tổ chức chính phủ mà tôi đang phục vụ. Rồi đột ngột, công việc của chúng tôi tăng gấp ba. Tôi không chỉ phải gửi nhân công đến các nhà máy Đức mà giờ tôi còn phải bảo đảm cho bộ máy quan quyền vận hành đâu ra đó ở cái vùng lắm mưa ấy của xứ Ba Lan, một chốn tỉnh lẻ u sầu mà chúng tôi mưu toan Đức hóa, chốn mà ngày nào cũng xám xịt như ngày nào và mặt đất cơ hồ phủ một tấm màn bồ hóng khổng lồ và chẳng ai tự giải khuây theo một cách văn minh, thế nên cho đến cả bọn nhóc mười tuổi cũng nát rượu, anh có tin được không, lũ trẻ đáng thương, nhưng mà cũng hoang dã nữa, chúng chỉ quan tâm có mỗi một thứ là rượu mà thôi, như tôi đã nói, và bóng đá.
“Đôi khi tôi đứng nơi cửa sổ phòng làm việc mà nhìn chúng: chúng chơi ngoài phố với một quả bóng làm bằng giẻ rách và chúng chạy chúng nhảy trông thật thảm thương, bởi vì rượu chúng nốc vào người khiến chúng luôn luôn té ngã hoặc để hụt những pha ngon ăn. Nhưng tôi không muốn kể hoài kể mãi chuyện ấy. Nói gọn, đó là những trận bóng đá thường kết thúc bằng những quả đấm. Hay những cú đá. Hay những chai bia rỗng nện lên đầu đội đối phương. Và tôi đứng nơi cửa sổ nhìn hết cảnh đó mà chả biết làm gì. Chúa ơi, làm sao chấm dứt được cơn dịch này, làm sao cải thiện được tình cảnh của những con người vô tội này đây.
“Tôi thú nhận: tôi cô đơn, rất cô đơn, rất cô đơn. Tôi không thể trông cậy vào vợ tôi. Tội nghiệp, lần duy nhất sinh vật khốn khổ ấy ra khỏi căn phòng tối om của mình là để quỳ gối cầu xin tôi để cho bà ấy quay về Đức, về Bavaria, cho bà đoàn tụ với em gái. Con trai tôi đã chết. Con gái tôi sống ở Munich, hạnh phúc bên chồng và cách xa những vấn đề nan giải của tôi. Công việc cứ chất chồng trong khi các đồng nghiệp tôi ngày một ngã lòng. Cuộc chiến đang không thuận lợi và dẫu sao nó cũng chẳng còn làm tôi quan tâm nữa. Làm sao một người đã mất con trai còn có thể quan tâm đến chiến tranh? Nói gọn, đời tôi diễn tiến dưới những đám mây đen thường trực.
“Rồi tôi nhận được lệnh mới: tôi phải đảm trách một nhóm người Do Thái từ Hy Lạp đến. Ắt là họ từ Hy Lạp đến. Họ có lẽ là người Hungary hoặc Croatia. Nhưng chắc không phải, người Croatia đã tự giết những người Do Thái ở nước mình rồi. Có lẽ họ là người Serbia. Thôi thì cứ cho họ là người Hy Lạp. Người ta chuyển đến cho tôi một đoàn tàu đầy chật người Do Thái ở Hy Lạp. Cho tôi! Mà tôi thì chẳng biết nhét họ vào chỗ nào cả. Đấy là một cái lệnh đến đột ngột, bất ngờ. Tổ chức của tôi là dân sự, không phải tổ chức của quân đội hay bên SS. Tôi chẳng có chuyên gia nào về lĩnh vực này, tôi chỉ cử công nhân đến các nhà máy thuộc Đế chế, vậy tôi sẽ làm gì với đám người Do Thái này đây? Cuối cùng, tôi tự nhủ mình: Can đảm lên, và một sáng nọ tôi ra nhà ga đón họ. Tôi mang theo viên chỉ huy cảnh sát địa phương và tất thảy các sĩ quan mà tôi huy động được vào phút chót. Đoàn tàu từ Hy Lạp tới dừng ở một đường ngách. Một sĩ quan bảo tôi ký vài thứ giấy tờ xác nhận đã giao cho tôi năm trăm người Do Thái, đàn ông, đàn bà, trẻ em. Tôi ký. Sau đó tôi lại gần vài toa, và cái mùi thật không chịu nổi. Tôi cấm mở tất cả các toa. Việc này có thể khiến dịch bệnh lan rộng, tôi tự nhủ. Sau đó tôi gọi điện cho một người bạn, người này nối máy cho tôi gặp một tay đang điều hành một trại tập trung Do Thái gần Chelmno. Tôi trình bày cho anh ta nghe nỗi khó của mình, hỏi anh ta tôi có thể làm gì với mớ người Do Thái này. Lẽ ra tôi phải nói cho anh ta biết ở cái làng Ba Lan này không có người Do Thái, chỉ có bọn nhóc nát rượu những mụ đàn bà nát rượu và đám người già cả suốt ngày chả làm gì khác ngoài đuổi theo những tia nắng lâu lâu mới có. Tay ở Chelmno bảo tôi hai hôm nữa gọi lại, bảo rằng anh ta cũng có những nỗi khó của riêng mình, dù tôi có tin hay không.
“Tôi cảm ơn anh ta rồi gác máy. Tôi quay lại chỗ đường tàu ngách. Viên sĩ quan và tay kỹ sư đang chờ tôi. Tôi mời họ ăn sáng. Cà phê, xúc xích, trứng rán và bánh mì nóng. Họ ăn như heo. Tôi thì không. Đầu tôi nghĩ những chuyện khác. Họ bảo tôi phải giải phóng đoàn tàu, họ được lệnh phải quay về Nam Âu ngay đêm đó. Tôi nhìn vào mắt họ mà nói tôi sẽ làm như vậy. Viên sĩ quan nói tôi có thể cậy nhờ anh ta cùng đội lính gác của anh ta dọn trống các toa tàu, đổi lại thì nhân viên nhà ga giúp một tay chùi rửa các toa. Tôi nói được thôi.
“Chúng tôi bắt tay vào việc. Mùi từ trong các toa tàu xộc ra khi chúng tôi mở cửa toa khiến cho cả bà lao công chuyên cọ rửa các buồng vệ sinh của nhà ga cũng phải nhăn mũi. Tám người Do Thái chết trên đường đi. Viên sĩ quan ra lệnh những người sống sót xếp thành hàng. Họ trông chẳng lấy gì làm khỏe. Tôi ra lệnh đưa họ đến một nhà máy thuộc da bỏ không. Tôi bảo một trong các nhân viên của tôi đến hiệu bánh mì mua tất tật bánh mì có đấy đem về phát cho người Do Thái. Bảo họ hết bao nhiêu tiền tính cả cho tôi, tôi trả, tôi nói, nhưng làm nhanh nhanh lên. Đoạn tôi về lại văn phòng làm những việc cấp bách khác. Đến trưa tôi được báo rằng đoàn tàu từ Hy Lạp tới đang rời thị trấn. Từ cửa sổ phòng làm việc tôi nhìn bọn nhóc say khướt kia chơi bóng đá và trong thoáng chốc tôi có cảm giác như cả tôi nữa cũng đã nốc quá nhiều.
“Từ lúc đó cho đến hết buổi sáng tôi tìm một cách thu xếp lâu dài hơn cho những người Do Thái. Một trong các thư ký của tôi đề nghị tôi cho họ làm việc. Ở Đức à? tôi hỏi. Ở đây, anh ta nói. Không phải ý tồi. Tôi ra lệnh phát chổi cho chừng năm chục người Do Thái, chia họ thành từng đội mà quét dọn cái thị trấn ma của tôi. Thế rồi tôi quay về công việc chính. Một vài nhà máy của Đế chế cần ít nhất hai ngàn công nhân và tôi lại còn đang tiếp phái viên của Chính phủ Trung ương yêu cầu cung cấp thêm lao động. Tôi gọi vài cuộc điện thoại: tôi bảo tôi đang có sẵn năm trăm người Do Thái, nhưng họ lại muốn tù binh Ba Lan hoặc Ý.
“Tù binh Ý? Cả đời tôi chưa gặp một tù binh Ý bao giờ! Còn tù binh Ba Lan thì có bao nhiêu tôi đã gửi đi hết rồi, chỉ giữ lại những người hết sức cần thiết mà thôi. Thế là tôi lại gọi đến Chelmno hỏi lần nữa xem người ta có cần những người Do Thái Hy Lạp của tôi không.
“‘Nếu người ta gửi họ đến cho ông thì ắt có lý do,’ một giọng kim khí đáp. ‘Ông đi mà tự lo với họ.’
“‘Nhưng tôi có điều hành trại tập trung đâu,’ tôi nói. ‘Tôi đâu có kinh nghiệm phù hợp.’
“‘Ông chịu trách nhiệm về họ,’ giọng kia đáp, ‘nếu ông thắc mắc gì thì đi mà hỏi những người đã gửi họ đến cho ông ấy.’
“‘Thưa ông thân mến, những người gửi họ đến cho tôi chắc là đang ở Hy Lạp,’ tôi nói.
“‘Vậy thì hỏi Vụ Hy Lạp ở Berlin ấy,’ giọng ấy nói.
“Câu trả lời hay. Tôi nói cảm ơn rồi gác máy. Trong khoảng mấy giây tôi phân vân liệu gọi đến Berlin có thật là ý hay không. Bỗng nhiên, ngoài phố, xuất hiện một nhóm quét rác người Do Thái. Bọn nhóc xỉn đã thôi không đá bóng nữa mà bước lên vỉa hè, quan sát những người Do Thái tuồng như họ là thú vật. Ban đầu mấy người Do Thái cắm mặt xuống đất mà quét đầy cúc cung tận tụy, có một tay cảnh sát làng canh gác cạnh bên, nhưng rồi một người trong số họ ngẩng đầu lên, là một thiếu niên không hơn, cậu ta nhìn bọn nhóc rồi sau đó nhìn quả bóng đang kẹp dưới chân một trong những thằng du côn ấy. Trong một thoáng tôi nghĩ chắc họ sắp chơi đá bóng. Một bên là quét rác một bên là nhóc xỉn. Song tay cảnh sát biết việc mình làm thế cho nên một chốc sau tốp người Do Thái đi mất và bọn nhóc lại chiếm lĩnh con phố với quả bóng tàn tạ đó.
“Tôi lại vùi đầu vào đống giấy tờ. Tôi xử lý vấn đề một chuyến hàng khoai tây đã bị thất lạc ở đâu đó giữa khu vực do tôi kiểm soát và thành phố Leipzig, nơi lẽ ra nó phải đến. Tôi ra lệnh điều tra cho rõ ngọn ngành. Tôi chưa bao giờ tin tưởng cánh lái xe tải. Tôi cũng xử lý một chuyện về củ cải đường. Một vụ về cà rốt. Một vụ về cà phê thế phẩm. Tôi yêu cầu nối máy với ông thị trưởng. Một trong các thư ký của tôi đem tới một tờ giấy trong đó người ta cam đoan khoai tây đã rời khỏi khu vực của tôi bằng tàu hỏa chớ không phải bằng xe tải. Khoai tây đến được nhà ga trên những cái xe do la hay ngựa hay lừa kéo, những giống người nông dân vẫn nuôi, nhưng không phải trên xe tải. Có một bản sao vận đơn, nhưng nó lạc mất rồi. Tìm cái bản sao ấy, tôi ra lệnh. Một thư ký khác của tôi tới đưa tin thị trưởng bị ốm, hiện nằm nhà.
“‘Có nặng không?’ tôi hỏi.
“‘Cảm lạnh,’ viên thư ký nói.
“‘Vậy bảo ông ta dậy mà đến đây,’ tôi nói.
“Khi còn lại một mình tôi bắt đầu nghĩ về bà vợ tội nghiệp của tôi, nằm liệt giường, rèm che kín mít, và ý nghĩ ấy khiến tôi bứt rứt đến độ tôi bắt đầu đi tới đi lui trong phòng làm việc bởi cứ ngồi im một chỗ tôi sẽ có nguy cơ bị đột quỵ. Thế rồi tôi thấy một đội quét đường đang quay về dọc theo con phố khá là sạch sẽ và đột nhiên tôi tê liệt vì cái cảm giác rằng thời gian đang lặp lại.
“Nhưng, tạ ơn Chúa, không phải là nhóm quét đường ban nãy. Vấn đề ở chỗ họ giống nhau quá sức. Tuy nhiên, tay cảnh sát canh chừng họ thì khác. Viên cảnh sát ban nãy vừa cao vừa gầy và ngồi thẳng tắp trên xe. Viên thứ hai này thì vừa lùn vừa mập và sáu chục tuổi, tuy rằng trông già hơn cả chục tuổi. Bọn nhóc Ba Lan đang chơi bóng đá rõ ràng cũng cảm thấy như tôi nên lại bước lên vỉa hè nhường đường cho mấy người Do Thái. Một đứa trong bọn nói gì đó. Từ nơi tôi đang đứng bất động bên cửa sổ, tôi đồ rằng nó đang sỉ nhục những người Do Thái. Tôi mở cửa sổ gọi viên cảnh sát.
“‘Ông Mehnert,’ tôi gọi từ phía trên, ‘ông Mehnert.’
“Ban đầu viên cảnh sát không biết ai gọi nên cứ nhìn quanh, bối rối, khiến cho bọn nhóc xỉn cười nghiêng ngửa.
“‘Trên đây này, ông Mehnert, trên đây này.’
“Rốt cuộc anh ta cũng thấy tôi, liền đứng nghiêm. Những người Do Thái ngưng làm việc mà chờ. Tất cả bọn nhóc xỉn ngước lên nhìn cửa sổ phòng tôi.
“‘Nếu bất cứ đứa nào trong lũ oắt con kia sỉ nhục công nhân của tôi, cú bắn nó luôn, ông Mehnert,’ tôi nói, đủ to để cả thế giới đều nghe được.
“‘Không có vấn đề gì, thưa ngài,’ ông Mehnert nói.
“‘Tôi nói ông nghe có rõ không?’ tôi hét.
“‘Hoàn toàn rõ, thưa ngài.’
“‘Bắn thoải mái, thoải mái, rõ chưa, ông Mehnert?’
“‘Rõ như ban ngày, thưa ngài.’
“Sau đó tôi đóng cửa sổ quay lại làm việc tiếp. Tôi đang nghiên cứu một thông tư của Bộ Tuyên truyền chưa được năm phút thì một trong các thư ký của tôi lại cắt ngang mà nói với tôi rằng bánh mì đã được phát cho người Do Thái nhưng không có đủ cho tất cả. Và nữa, trong khi giám sát người ta phát bánh mì, anh ta phát hiện ra có thêm hai người chết. Hai người Do Thái chết à? tôi nhắc lại, choáng váng. Nhưng khi rời khỏi đoàn tàu tất cả bọn họ đều tự đi được cả mà! Thư ký của tôi nhún vai. Họ chết rồi, anh ta nói.
“‘Ôi, ôi, ôi, ta đang sống trong một thời kỳ lạ, phải không?’ tôi nói.
“‘Ấy là hai người già,’ thư ký nói. ‘Chính xác hơn là một ông già, một bà già.’
“‘Còn bánh mì?’ tôi nói.
“‘Không đủ cho tất cả,’ thư ký của tôi nói.
“‘Phải chấn chỉnh chuyện đó,’ tôi nói.
“‘Chúng tôi sẽ cố,’ thư ký của tôi nói, ‘nhưng hôm nay không được rồi, phải để mai.’
“Giọng điệu của y nghe hết sức khó chịu. Tôi phẩy tay cho y lui. Tôi cố tập trung trở lại vào công việc nhưng không được. Tôi lại gần cửa sổ. Bọn nhóc xỉn đã đi rồi. Tôi quyết định đi dạo một vòng, không khí trong lành làm tinh thần ta dịu lại và thể xác ta khang kiện, mặc dù lẽ ra tôi chỉ muốn đi về nhà, nơi ngọn lửa trong lò và một cuốn sách hay đang đợi tôi để cho qua khắc qua giờ. Trước khi ra phố tôi bảo cô thư ký nếu có gì cấp bách thì có thể tìm tôi ở quán bar nhà ga. Ra ngoài phố, khi rẽ vào một góc đường, tôi gặp ông thị trưởng, ngài Tippelkirsch, đang trên đường đến gặp tôi. Ông ta mặc áo khoác, khăn quấn lên thấu mũi, trong độn mấy lượt áo len khiến người ông ta phình tướng ra. Ông ta giải thích rằng không thể đến sớm hơn vì ông ta đang sốt bốn mươi độ.
“Thôi ta đừng phóng đại nào, tôi nói, không bước chậm lại. Ông hỏi bác sĩ đi, ông ta nói sau lưng tôi. Khi đến nhà ga tôi gặp vài nông dân đang chờ một chuyến tàu địa phương từ phía Đông đến, từ lãnh thổ của Chính quyền Trung ương. Họ cho tôi hay tàu đã trễ một tiếng rồi. Toàn tin xấu thôi. Tôi uống một tách cà phê với ông Tippelkirsch và chúng tôi nói chuyện về những người Do Thái. Chuyện ấy tôi nghe cả rồi, ông Tippelkirsch nói, ấp tách cà phê bằng cả hai tay. Hai bàn tay ông rất trắng và thanh tú, chằng chịt những mạch máu.
“Trong một thoáng tôi cứ nghĩ đến đôi tay của chúa Giêsu. Hai bàn tay đáng lên tranh. Sau đó tôi hỏi chúng ta có thể làm gì. Gửi trả họ lại, ông Tippelkirsch nói. Một dòng nước nhỏ từ mũi ông nhểu xuống. Tôi lấy ngón tay chỉ nó. Ông có vẻ không hiểu. Ông xì mũi đi, tôi nói. À, xin lỗi, ông nói, và sau khi lục hết các túi khoác ông rút ra một chiếc khăn tay trắng, rất to và chẳng mấy sạch.
“‘Làm sao ta trả họ về được?’ tôi nói. ‘Liệu tôi có đoàn tàu nào trong tay để tùy nghi sử dụng không? Mà nếu có thì chẳng phải tôi nên dùng vào việc khác thiết thực hơn sao?’
“Ông thị trưởng kiểu như rùng mình một cái và nhún vai.
“‘Cho họ làm việc,’ ông nói.
“‘Vậy ai lo cái ăn cho họ? Thị trấn à? Không, ông Tippelkirsch ạ, tôi đã cân nhắc mọi khả năng rồi. Chỉ có một giải pháp thôi: ta phải bàn giao họ cho một cơ quan khác.’
“‘Thế nếu ta phân cho nông dân trong vùng mỗi người được hai người Do Thái, chỉ như biện pháp tạm thời thôi, thì chẳng phải ý hay sao?’ ông Tippelkirsch nói. ‘Ít nhất là cho đến khi ta nghĩ ra được phải làm gì với họ.’
“Tôi nhìn vào mắt ông ta và hạ giọng:
“‘Làm vậy là trái luật và ông biết thế,’ tôi nói.
“‘Có,’ ông nói, ‘tôi biết, ông biết, nhưng tình thế của chúng ta đang gay go, và chúng ta có thể được giúp một tay, tôi tin mấy người nông dân họ không phản đối đâu,’ ông nói.
“‘Không, tuyệt đối không thể được.’
“Nhưng tôi có nghĩ đến chuyện đó và ý nghĩ của tôi vùi tôi vào một vực thẳm cực sâu cực tối ở đó tôi chỉ thấy, được soi tỏ bằng những tia lóe chẳng rõ từ đâu, khuôn mặt con trai tôi, cái khuôn mặt chập chờn giữa một đằng là sống một đằng là chết.
“Tôi thức dậy bởi tiếng hai hàm răng ông Tippelkirsch đánh vào nhau cầm cập. Ông thấy không khỏe à? tôi hỏi. Ông làm cử chỉ như muốn trả lời tôi song không được và thoáng sau ông ngất. Tôi gọi điện từ quán bar về văn phòng bảo người ta cử một chiếc xe đến. Một trong các thư ký của tôi anh ta đã liên lạc được với Vụ Hy Lạp ở Berlin và cái chỗ ấy không nhận bất cứ trách nhiệm nào về vấn đề này. Khi xe tới, ông chủ quán bar, một nông dân và tôi loay hoay một hồi rồi cũng đưa được ông Tippelkirsch lên xe. Tôi bảo tài xế thả ông thị trưởng xuống nhà ông rồi quay lại nhà ga. Trong khi đợi tôi chơi xúc xắc bên lò sưởi. Một nông dân từ Estonia di cư đến chơi ván nào cũng thắng. Ông ta có ba thằng con đang ở ngoài mặt trận và cứ mỗi lần thắng ông ta lại buông một câu mà tôi thấy rất lạ, thậm chí bí hiểm. Vận may và cái chết đi cùng nhau tay trong tay, ông nói. Và ông nhìn chúng tôi với cặp mắt như của con cừu bị chọc tiết, tuồng như tất cả chúng tôi đều phải thương hại ông.
“Tôi nghĩ ông ta chắc là người được dân làng yêu mến, nhất là các bà các cô Ba Lan, họ chẳng có gì để sợ một người đàn ông góa bụa có ba thằng con lớn xa nhà, một ông già bình thường, theo như tôi thấy, song không keo bẩn như hầu hết nông dân, lâu lâu lại tặng cho bà nọ chị kia một ít đồ ăn hay cái váy cái áo để đổi lấy một đêm trong nông trại. Một thú Don Juan. Lát sau, khi cuộc chơi đã vãn, tôi tạm biệt mọi người rồi quay lại vă