Chương 18:
Amy không thể tin điều đó.
Có điều gì đó đã xảy ra giữa nó và Kurt. Con bé thực sự không thể giải thích điều đó. Phải, chúng đã chơi cờ. Nhưng đã có nhiều hơn thế. Giống như tất cả các giác quan của nó đã đột nhiên được cắm phích.
Lần đầu tiên trong nhiều tuần, nó đã có thể nghĩ về thứ gì đó khác cuộc săn tìm.
Sau đó, chỉ như là, nó phải đi.
Chỉ có đủ thời gian cho một lời tạm biệt.
“Chúc may mắn,” Kurt đã nói với nó.
Nhưng tất cả nó cảm nhận được là sự không may của khoảnh khắc.
Và sau đó có việc hủy hoại tin nhắn Churchill của Dan.
“Sao em có thể làm thế?” nó hỏi khi Nellie đưa chúng đi khỏi mỏ Witbank… và Kurt.
Em trai nó nhìn nó hoài nghi. “Thôi nào, Amy. Chị không nghĩ rằng chỉ bởi vì em xé nó đi –”
“Chị biết, chị biết, em đã nhớ nó!” Amy nói. “Đó là Chương trình Thể dục Tâm trí Dan Cahill. Nhưng đó không phải là lý do! Sao em có thể làm trò liều lĩnh ngu ngốc không thể tin được đó trong hầm mỏ? Em có thể đã chết! Một lần nữa!”
“Em đã tìm thấy thứ mà không ai khác đã tìm được trong hàng trăm năm,” Dan nói, “vậy có lẽ chị nói, như là, cảm ơn?”
“Thằng bé cũng lừa hai người kia nghĩ rằng tờ giấy không có nghĩa gì,” Nellie nói.
“Chị cũng chỉ xấu xa như nó!” Amy phản lại.
Dan giơ một ngón tay ra. “Winston Churchill từng nói, ‘Trong thời gian chiến tranh, sự thật đáng giá đến nỗi nó phải luôn được chăm sóc bởi một đội bảo vệ những lời nói dối.’”
“Sao em biết điều đó?” Amy hỏi.
“Nó ở ngay đó, trên trang mà cuốn sách của chị mở,” Dan nói, chỉ về cuốn tiểu sử trên ghế xe. “Churchill là về tất cả những tin nhắn bị ẩn giấu đi. Ông làm việc với những nội gián. Em đã nhốt nhóc này vào đầu em rồi, chị gái.”
Trên trang trống khác mà Nellie đã đưa cho nó nó viết ra thứ mà nó đã tìm thấy trong hầm mỏ:
AM LOST,
TIRED, GONE IN,
DRIVEN NOUGHT.
WE HIT
A SHARK
- O CONFUSED LETTERS
FLEE, LOVER, FROM THESE LINES!
WLSC -29.086341/ 31.32817
“Churchill không hề điên khùng,” Dan nói. “Và ông ấy không say xỉn. Em cá tất cả những thứ này có nghĩa gì đó.”
Amy nhìn chằm chằm các từ. “‘Chúng tôi đã đánh một con cá mập’?”
“Chị sẽ mua cái kịch bản ngớ ngẩn,” Nellie nói.
“Được rồi, được rồi, nó nghe hơi lạ lùng, nhưng hãy nghĩ đi,” Dan nói. “Đó không phải là điều chị làm khi chị bị một con cá mập tấn công – đập vào mũi nó ư?”
“Churchill chỉ vừa thoát khỏi nhà tù, đúng chứ?” Nellie nói. “Vì vậy nó là biểu hiện người Anh gì đó cho chiến thắng. Giống như, ‘Hô hô, chúng ta thực sự đánh một con cá mập ở đó, phải không, ông tướng?’ Rất Kabra, em không nghĩ vậy à?”
“Dan?” Amy nói. “Nhớ mật mã chúng ta đã phải giải ở chỗ của chú Alistair, để mở cửa sập ở sân sau của ông ấy chứ? Nơi mà gợi ý thực sự là một trò chơi với các từ? Điều gì nếu cái này thực sự là hai phần – phần trên là mật mã, và phần dưới là hướng dẫn để giải mã nó?”
“Hmm…” Dan nhìn vào dòng cuối cùng của tin nhắn. “Vậy, “O những chữ cái lộn xộn’ sẽ là phần của gợi ý.”
“Phải, và ‘lộn xộn’ có thể là một mật mã cho ‘bị làm rối lên.’ Những chữ cái bị làm rối lên có nghĩa là một phép đảo chữ,” Any nói. “Và ‘flee’ (bỏ đi) – nó có cùng nghĩa với ‘leave’ trong câu đố của chú Alistair. Em phải lấy gì đó đi, như là một chữ cái hay từ…”
“Lover (Người yêu)!” Dan nói. “Là nó. Ông ấy không có ý là người yêu thực sự. Ông ấy có ý là từ l-o-v-e-r! Và ‘từ những dòng này’ – năm chữ cái, năm dòng! – đợi đã, em nghĩ em biết…”
AM LOST, - L = AMOST
TIRED, GONE IN, - O = TIRENDGNEIN
DRIVEN NOUGHT. - V = DRIENNOUGHT
WE HIT - E = WHIT
A SHARK - R = ASHAK
Dan gõ đầu. “Agggh, nó là tiếng Hà Lan.”
“Chị không nghĩ vậy,” Amy nói. “Churchill là một người Anh, không phải Boer. Vì vậy giờ chúng ta phục hồi trật tự các từ. Được rồi, từ cuối cùng thứ hai đơn giản – with.”
“Shaka!” Dan thốt ra. “Đó là từ cuối cùng! Vậy những từ cuối là with Shaka! Được rồi, em sẽ hiểu phần còn lại của nó trong hai phút. Tính giờ cho em. Tới nào.”
Nhưng Amy đang nhìn chằm chằm vào từ đầu tiên rồi. “Dan, chị nghĩ chúng ta vớ bở rồi.”
Gương mặt Dan sáng lên, cái cách nó sáng lên bất cứ khi nào siêu thị trữ kem Red Sox. Chậm chạp, nó tấn công câu đố và không dừng lại đến khi nó hoàn thành:
AMOST = TOMAS
TIREDGNEIN = INGREDIENT
DRENNOUGHT = IN THE GROUND
WHIT = WITH
ASHAK = SHAKA
“Tomas ingredient in the ground with Shaka (Thành phần Tomas ở trong đất với Shaka)!” Dan thốt lên.
“Đó là ba phút bảy giây,” Nellie nhận xét.
“Ông ấy đã biết!” Amy nói. “Churchill đã biết vị trí của manh mối Tomas!”
“Ông ấy hẳn đã tìm ra trong khi ở tù,” Dan nói. “Hoặc có lẽ có một Cahill điều hành mỏ.”
“Vậy… manh mối hẳn được chôn với xác của Shaka,” Amy nói.
“Giờ chúng ta đang nói chuyện!” Dan trả lời.
“Ôi,” Nellie gọi từ ghế trước. “Chúng ta phải đào một cơ thể lên?”
“Dan?” Amy hỏi. “Shaka được chôn ở đâu?”
Dan lôi cuốn sách Shaka của nó ra và đọc lướt tới cuối. “Ừm, không ai chắc chắn một trăm phần trăm. Nhưng truyền thuyết nói là ông ấy đã bị giết ở một nơi gọi là Durban, nó ở tỉnh KwaZulu-Natal.”
“Nó ở, ừm, ở đâu?” Nellie nói.
“Đi qua tỉnh Mpumalanga,” Dan đáp.
“Cảm ơn rất nhiều.”
Nhưng Dan đang nhìn vào dòng cuối của tờ mật mã. “Một điều thôi. Những con số xổ số này thì sao?”
Amy nhìn sát chúng. “Chúng trông như tọa độ kinh độ/vĩ độ. Chúng ta có thể tìm ra nó ở đâu không?”
Dan bắt đầu nghịch vớ vẩn với GPS. “Có Carlos, sẽ di chuyển.”
***
Điện thoại reo ngay khi giáo khi Robert Bardsley đang nghe đoạn cuối của bản giao hưởng của Mahler “Resurrection”. “Ôi, Winifred thân yêu?” ông nói, lau đi một giọt nước mắt khi ông cầm ống nghe lên. “Bà đã bắt được tôi trong lúc xúc động.”
Khi ông nghe giọng nói ở đầu bên kia, những giọt nước mắt của ông ráo hoảnh. Ông tắt nhạc. “Bà đã gặp ai? Phải, tôi biết bà ấy có cháu ngoại – bao nhiêu tuổi? – thật tuyệt. Buồn làm sao việc bà ấy đã ra đi. Vậy bà đã cho chúng xem bức thư của Churchill à? Aha… phải, tôi cũng không biết tại sao phải giữ bí mật. Đúng hơn là một bài thơ tình nhạt nhẽo, nếu bà hỏi tôi. Ồ, tôi chắc chúng là những đứa trẻ xuất sắc. Pah, không phải lo lắng, việc sao lãnh để đưa chúng thông tin liên lạc của tôi ổn cả. Tại sao chúng muốn gặp một viện sĩ già nhàm chán như tôi chứ? Cảm ơn vì cuộc gọi… phải đó tiệc trà, có lẽ khi tôi ở Joburg vào tháng Bảy. Phải, chúc ngủ ngon.”
Treo điện thoại lên, giáo sư Bardsley gói lại vài đĩa CD, một cái kính thiên văn, một ống sáo chỉnh âm điệu, và một bộ kính hồng ngoại trong một túi vải và nhìn ra cửa trước. Đường phố vắng vẻ, như ông có thể thấy. Nhưng ông sẽ cần cảnh giác.
Ông cúi vào lại, gọi một số, và gặp giọng thư thoại. “Xin chào, Nsizwa, Bardsley đây. Tôi sẽ cần anh tiếp quản buổi diễn tập sáng mai, bởi vì tôi bị gọi đi cả ngày.” Ngừng lại một lúc, ông thêm vào, “Hãy nghĩ về điều đó, tôi sẽ cần nhóm. Anh sẽ sớm nghe từ tôi…”
Trên đường rời khỏi, ông cầm lên một chiếc mũ mềm trên đầu tủ quần áo của mình, và một con dao đi săn.