PHẦN 1 HẠNH PHÚC LÀ GÌ? ⚝ 1 ⚝ Bí mật của nụ cười
Năm 1967, một chàng trai trẻ tuổi là Paul Ekman ở San Francisco đã tiến hành tìm kiếm một bộ lạc sống rất xa “nền văn minh đã biết”, xa đến mức nó cứ như đang ở trên một hành tinh khác. Có thể nào có những người sống trên trái đất này mà chưa từng bao giờ liên hệ với người bên ngoài, không hề có kiến thức gì về viết hay in cũng như mù tịt về ti vi? Ekman chỉ biết rằng mình không còn nhiều thời gian, chỉ trong vòng vài năm nữa những ngôi làng xa xôi hẻo lánh nhất trong rừng sâu có thể sẽ được trang bị mọi thư điện đường trường trạm.
Tại thời điểm đó, Papua New Guinea được coi là nơi tận cùng của thế giới, một hòn đảo khiến người ta liên tưởng ngay đến những kẻ săn đầu người và ăn thịt người. Nhưng Ekman, người đàn ông ba mươi ba tuổi không biết đến sợ hãi này đã đơm thương độc mã tiến vào Thời kỳ Đồ đá. Ông không quan tâm đến tập quán kỳ lạ hay ghi chép thêm những ví dụ mới về nền văn hóa còn xa lạ này với tư cách nhà nhân chủng học. Đúng hơn là, ông muốn khám phá một lĩnh vực quen thuộc đối với cả nhân loại. Đó là bí mật của nụ cười.(1)
Không mấy ai nghĩ Ekman sẽ thành công. Các đồng sự đã cảnh báo ông rằng chẳng có gì nhiều nhặn để khám phá từ biểu hiện của khuôn mặt. Người mẹ nhìn đứa con cười, và đứa con cười lại, vậy thôi. Khi Ekman bắt đầu ba mươi năm trước, không ai dám đặt thành nghi vấn cái giả định rằng loài người đến với thế giới này như một trang giấy trắng. Một đứa trẻ được coi như cái bình rỗng để cha mẹ nó và môi trường đổ đầy kiến thức lẫn tập quán vào. Chúng ta học biểu cảm khuôn mặt từ thời thơ ấu, cũng như ta học mọi thứ khác. Chỉ duy Ekman có suy nghĩ khác. Ông tự hỏi, liệu có thể nào các cảm giác đã hiện diện đó ngay tại thời điểm đứa trẻ sinh ra? Liệu chúng ta có một kiểu Công tắc nào đó được cài đặt sẵn cho việc cười? Và nếu như điều này là đúng thì tất cả mọi người trên thế giới đều thể hiện những biểu cảm khuôn mặt giống nhau tại những thời điểm tương đường. Không biết Charles Darwin có từng nghi ngờ như vậy hay chưa?
Những khuôn mặt của thời kỳ Đồ đá
Vác trên vai chiếc ba lô đầy những camera, máy ghi âm và những bức ảnh chụp các chân dung, nhà nghiên cứu trẻ hành quân đến vùng cao nguyên New Guinea với sự dẫn đường của một người địa phương. Sau vài tuần, họ tiến vào một vùng đất chưa từng có người châu Âu nào đặt chân đến. Đây là vùng đất bộ lạc South Fore sinh sống, bộ lạc này có tập tục đã bị cấm từ tám năm trước đó là ăn óc những người họ hàng bị bệnh. Họ sống trong những túp lều dựng bện bằng cỏ và lá cây và sử dụng công cụ đẽo gọt bằng đá. Phụ nữ mặc váy bằng cỏ đan, còn đàn ông thì mặc khố bằng da bò chưa thuộc. Nhà nghiên cứu và người dẫn đường được họ đón tiếp nồng nhiệt.
Ekman ngồi chính giữa làng và giở máy ghi âm ra. Mọi người ở đây chưa bao giờ nhìn thấy một loại hộp sáng như thế, mà trên nó lại gắn hai hình tròn quay, cứ như thể tự quay vậy. Và đột nhiên họ nghe thấy giọng nói của chính họ. Mồm họ há ra, gò má nâng cao, mắt sáng lên: họ đang cười. Rõ ràng sự ngạc nhiên làm cho họ phấn khích. Phía sau, người dẫn đường của Ekman quay phim để làm chứng cứ đầu tiên cho thấy những người ở cực kia của thế giới cũng cười y như chúng ta.
Từ đó trở đi, người bộ lạc South Fore không rời Ekman nửa bước. Họ vây quanh Ekman háo hức chờ đón những vui thú bất ngờ của ngày mới trong khi Ekman vẫn còn chưa tỉnh ngủ. Có những ngày, ông cầm con dao cao su đuổi bọn trẻ để người hướng dẫn có thể chụp những khuôn mặt sợ hãi. Những ngày khác ông cho họ xem các chân dung của những người Mỹ cả vui lẫn buồn. Thông qua người dẫn đường, ông yêu cầu bộ lạc South Fore xác định ảnh nào là ảnh của một người có con bị chết. Họ thảy đều chỉ vào khuôn mặt buồn - rõ ràng là họ có thể hiểu được biểu cảm trên khuôn mặt của người Mỹ ngoại quốc không khó khăn gì. Sau vài tuần, Ekman nhờ người dẫn đường thu xếp cuộc gặp giữa một người làng này với một người làng khác, như thể ngẫu nhiên.
Máy quay đã ghi lại được những nụ cười vui vẻ khi họ chào hỏi nhau.
Sau bốn tháng trong rừng, Ekman trở lại Mỹ và nghiên cứu những bức ảnh ông chụp được. Ông không nghi ngờ gì nữa: khuôn mặt của những người trong bộ lạc South Fore đều cho thấy những biểu cảm giống y như người thế giới phương Tây. Ngôn ngữ các dân tộc có thể khác nhau, nhưng khuôn mặt thì dù là người South Fore vùng cao nguyên New Guinea hay người San Francisco thì cũng đều diễn tả những cảm xúc theo cách giống nhau.
Các nhà khoa học rất phấn khích và hào hứng với phát hiện này. Một số người tìm cách bác bỏ lý thuyết của Ekman. Họ đã đến những nơi như rừng già Borneo, gặp những người du mục ở Iran, và tới các vùng xa xôi hẻo lánh nhất của Liên Xô [cũ] nhưng đều ra về tay trắng. Câu chuyện giống nhau ở mọi nơi: văn hóa gần như không có tác động gì đến vốn cảm xúc của con người. Một số người có thể thể hiện cảm xúc rõ ràng hơn, một số thể hiện kín đáo hơn, nhưng niềm vui và nỗi buồn, sợ hãi và tức giận thì ai ai cũng có.
Với khám phá này, Ekman đã bác được hai lý lẽ sai lầm. Một là, từ nay trở đi khó mà tuyên bố rằng đứa trẻ học cảm xúc từ những người xung quanh nó. Nếu đúng như vậy thì chắc hẳn phải có nhiều kiểu nụ cười trên thế giới, kiểu như “vui” ở Đức là “Freude” còn ở Trung Quốc là “gaoxing”. Một khi công nhận rằng biểu cảm trên khuôn mặt ở đâu cũng giống nhau thì chúng ta biết rằng những cảm xúc cơ bản và cách cơ thể chúng ta thể hiện chúng đều là bẩm sinh.
Một đứa bé bị mù bẩm sinh không thể bắt chước cách biểu cảm khuôn mặt, nhưng nó vẫn có thể cười một cách tự nhiên nhất. Sự thật này đã dấy lên nghi ngờ cho những người đã từng tin rằng niềm vui có thể học được. Thậm chí, Charles Darwin đã khởi xướng một nghiên cứu tại một ngôi nhà cho người mù để viết cuốn sách của ông, The Expression of Emotion in Man and Animals (Biểu cảm của loài người và loài vật, 1872). Những tác phẩm của nhà sinh học tiến hóa vĩ đại này nhanh chóng rơi vào quên lãng. Niềm tin rằng người ta có thể học để có được các cảm xúc bẩm sinh là vững chắc đến mức không một nhà khoa học nào nghĩ đến việc theo đuổi gợi ý của Darwin hay nói chuyện với giáo viên của người mù. Đó là lý do Paul Ekman đã phải đến tận vùng biển phía Nam. Khoa học cũng có thể bị thành kiến.(2)
Có một vấn đề nữa mà Ekman thậm chí còn gây ảnh hưởng nhiều hơn. Quay phim những biểu cảm trên khuôn mặt của người bộ lạc South Fore, Ekman đã cho thấy rằng cảm xúc có thể trở thành đề tài cho nghiên cứu khoa học. Đó không hề là một kỳ công nhỏ, vì tất cả những ai nghiên cứu cảm xúc cuối thập niên 1960 đều bị cho nằm bên rìa của tâm lý học hàn lâm. Những chủ đề được cho là đáng nghiên cứu nghiêm túc là nhận thức, tư duy và hành vi. Việc khảo cứu các cảm xúc làm hé lộ bản chất bên trong con người, dường như không thể nhìn thấy, được dành cho các nhà thơ và triết gia. Nhưng Ekman đã xóa bỏ mọi nghi ngờ về khả năng tiếp cận của những trải nghiệm cá nhân từ góc độ khoa học.
Người đàn ông sống ở vùng cao nguyên xa xôi thuộc Papua New Guinea này chưa bao giờ nhìn thấy một ai ở bộ lạc khác hay quốc gia khác, nhưng niềm vui tỏa ra trên khuôn mặt ông không khác gì chúng ta. Những cảm xúc cơ bản này, và cách chúng ta thể hiện chúng đều là bẩm sinh, đó là lý do tại sao ngôn ngữ của tiếng cười lại được chia sẻ trên toàn thế giới. Bức ảnh này do nhà tâm lý học Paul Ekman chụp trong hành trình nghiên cứu của mình.
Điệu cười đích thực và điệu cười hữu dụng
Được khích lệ bởi thành công của mình, nhà nghiên cứu trẻ tuổi đã sáng tạo ra cả một hệ thống chuyển đổi những biểu hiện cảm xúc sang dạng bảng biểu và con số, như thể chia ra nó thành các phần tử cấu thành. Để tạo ra những biểu cảm trên khuôn mặt, phải dùng đến bốn mươi hai cơ mặt. Ekman đã thống kê cụ thể những con số cho từng trường hợp. Ví dụ, chín cơ mặt để chun mũi, mười lăm có mặt để mắm môi. Bây giờ các nhà nghiên cứu có thể dữ liệu hóa trên máy tính cả những biểu cảm rối rắm nhất của khuôn mặt.
Với công cụ này, Ekman đã phát hiện ra mười chín điệu cười khác nhau. Trong số này thì mười tám kiểu là không đích thực, mặc dù là chúng rất có ích, chúng được sử dụng như chiếc mặt nạ khi ta không muốn cho người khác nhìn thấy toàn bộ sự thật về cảm xúc của ta. Có điệu cười thể hiện thái độ nhã nhặn khi ta bối rối vì một câu đùa ác; có điệu cười che đậy nỗi sợ, trong khi điệu cười khác giấu đi sự khó chịu. Mặc dù tất cả các điệu cười đều liên quan đến cơ xương gò má kéo dài từ xương gò má đến môi trên và kéo lên góc miệng, song những nhóm cơ khác trên khuôn mặt làm nhiệm vụ phối hòa để tạo ra những điệu cười giả khác nhau. Những điều này giúp cho con người có khả năng tương tác, nhưng chúng hầu như không có liên quan gì đến sự vui sướng cả.
Chỉ có một điệu cười là đích thực: không chỉ hai góc miệng nhếch lên, mà hai mắt còn hơi co hẹp lại, những nếp nhăn nhỏ xuất hiện tại hai khóe mắt (“vết chân chim”), trong khi đó phần cơ trên của gò má thì đẩy lên. Chỉ khi nào cơ vòng mắt co lại thì lúc đó khuôn mặt mới thể hiện cảm giác hạnh phúc. Ekman gọi chuyển động cơ mặt này là điệu cười Duchenne để tưởng nhớ nhà tâm lý học người Pháp Guillaume-Benjamin Duchenne vào năm 1862 đã đi tiên phong trong nghiên cứu cơ vòng mắt, loại cơ thắt bao quanh toàn bộ mắt.
Với sự trợ giúp của hệ thống số hóa khuôn mặt, Ekman có thể cho ta thấy rằng duy chỉ điệu cười Duchenne là biểu lộ cảm giác mãn nguyện chân thực nhất. Khi Ekman trình chiếu những bộ phim mang chủ đề vui vẻ, thì điệu cười này - và hầu như không có kiểu nào khác - thường xuyên lướt qua khuôn mặt khán giả. Hai khóe mắt của họ càng nhắn lại nhiều hơn theo kiểu chân chim thì họ càng vui thích với bộ phim một cách mãnh liệt hơn. Nhưng khi họ nhìn thấy những cảnh đáng sợ như nạn nhân hỏa hoạn hay bị cụt chân tay thì kiểu cười Duchenne biến mất. Do vậy, sự chuyển động cơ vòng mắt này là một tín hiệu không thể nhầm lẫn của niềm vui sướng.)
Duchenne gọi sự co lại này là “cảm xúc ngọt ngào của tâm hồn”. Ông cũng biết rằng, chúng ta rất khó mà điều khiển được cơ này bằng sức mạnh ý chí, đó là lý do tại sao hầu hết chúng ta thất bại thảm hại khi được yêu cầu “cười trước máy quay”. Cho nên Duchenne đã sử dụng một phương pháp khác để giúp cho đối tượng thí nghiệm của ông cười: ông dẫn điện vào má họ qua các sợi dây điện nhỏ gắn trên máy bằng cách đó kích thích thật mạnh cơ vòng mắt để đối tượng thí nghiệm phải nở nụ cười nhân tạo đầy vui vẻ. Bức ảnh của thí nghiệm này hiện được treo trong Bảo tàng Nghệ thuật Đương đại New York.
Chỉ khoảng 10% nhân loại có thể điều khiển cơ mặt để cười kiểu Duchenne khi được yêu cầu mà không cần qua cuộc đào tạo đặc biệt nào. Khả năng này có lẽ là bẩm sinh. Hầu hết phần còn lại chúng ta đều phải học để có thể tạo ra được một nụ cười đích thực. Một câu nói đùa khôi hài hoặc nhớ lại một trạng thái đặc biệt tuyệt vời nào đó cũng có tác dụng tạo ra nụ cười này.
Ngay cả các diễn viên và đặc biệt là các chính trị gia cũng gặp khó khăn để tạo ra nụ cười kiểu này. Một bộ phim truyền hình nhiều tập rẻ tiền luôn cho ta thấy, điều khiển được các chuyển động cơ mặt cũng như cảm xúc là việc khó khăn đến thế nào. Không mất đến một giây chúng ta có thể nhận ra biểu cảm của một diễn viên là thiếu kỹ năng. Tuy nhiên, trong những diễn viên tài năng, có nhiều người được đào tạo cách điều khiển cơ mặt của họ. Ví dụ, Laurence Olivier nổi tiếng là biết cách biểu cảm mỗi loại cảm xúc như thế nào theo quan điểm của khán giả. Nhưng thậm chí một số ngôi sao Hollywood cũng chưa bao giờ học được cách điều khiển nét mặt. Đó cũng là lý do mà Steve McQueen và John Wayne 4 dùng khuôn mặt lạnh như tiền làm thương hiệu của họ.
Năm 1862, khi dùng dây điện gắn vào khuôn mặt của đối tượng thí nghiệm, nhà tâm lý học Guillaume-Benjamin Duchenne có thể kích thích một nụ cười nhân tạo. Cường độ dòng điện nhỏ kích thích có mặt của người đàn ông này vừa đủ để tạo ra một nụ cười thực thụ: các góc miệng đều kéo lên phía trên, các cơ vòng mắt thì co lại.
Hạnh phúc sinh ra từ cơ thể
Đã ai từng khen bạn, hoặc gửi hoa cho bạn, hoặc mời bạn một bữa ăn ngon tuyệt chưa? Không phải chỉ duy nhất khuôn mặt biểu hiện những cảm giác tích cực. Cơ thể bạn cũng hưởng ứng bằng sự phấn khích đối với bất cứ thứ gì khiến bạn vui sướng. Đây cũng là điều đáng để quan tâm, bởi vì khi đó ta có thể ý thức được nhiều những thay đổi từ đó mà ra.
Khi bạn hạnh phúc, máu lưu thông nhanh hơn trong tĩnh mạch. Ở hầu hết mọi người, trạng thái hạnh phúc làm tăng ba đến năm nhịp tim đập trên một phút so với trạng thái bình thường. Bởi vì tuần hoàn máu tăng lên, nhiệt độ da cũng tăng lên khoảng một phần mười độ. Sự kích thích này làm cho da trở nên ẩm ướt hơn và độ dẫn điện của da giảm. Thậm chí các ngón tay của bạn cũng run lên, dù không phải theo cách giật cục. Bạn chỉ có thể sẽ nhận thấy sự khác biệt này - khoảng một phần mười mi li mét - nếu đang xỏ chỉ vào kim khâu. Nhưng có lẽ bạn có thể nắm được căn nguyên của sự run rẩy này: những chuyển động cực nhỏ của ngón tay mà các nhà khoa học đã đo đều được phản ánh qua sức căng hệ cơ bắp của vai, cánh tay và tay. Khi bạn cảm thấy dễ chịu, những cơ này thả lỏng và trở nên linh hoạt hơn. Thêm nữa, vì hạnh phúc cũng làm chuyển biến sự cân bằng hoóc môn của chúng ta, những thay đổi xảy ra mà chúng ta không cảm thấy trực tiếp - nhưng ta sẽ bàn kỹ hơn về chuyện này sau.
Trước khi bạn hoặc những người xung quanh bạn nhận ra được sự xuất hiện của nụ cười thì mọi thứ đã xảy ra trên khuôn mặt rồi. Cơ gò má giúp kéo miệng lên phía trên đã căng ra một chút. Cơ vòng mắt với các vết chân chim cũng đã có nhẹ lại. Mặt khác, cơ vùng lông mày, vốn làm cho lông mày rướn lên tạo ra những biểu cảm về sự căm ghét, buồn chán và sợ hãi, thì được thả lỏng ra.
Hạnh phúc được biểu hiện theo cách như vậy. Như với mọi loại cảm giác, nó khởi phát trong não cũng ngang bằng với trong cơ thể, bởi vì cảm giác hạnh phúc chỉ xảy ra khi bộ não nhận và giải mã những tín hiệu cần thiết từ tim, da và các cơ. Không có cơ thể, chúng ta không thể hạnh phúc được.
Ban đầu điều này dường như là một ý tưởng kỳ lạ. Rõ ràng, một số cảm giác hạnh phúc - ví dụ như khi ăn uống hay ân ái - là nhờ ở một niềm vui sướng gần như thuần khiết về thể xác. Nhưng điều gì xảy ra khi chúng ta nhớ lại khoảng thời gian vui vẻ với bạn bè hay ngóng chờ một kỳ nghỉ? Trong những khoảnh khắc hạnh phúc như vậy thì dường như trí tưởng tượng của ta đóng vai trò chính. Song đây là một kiểu ảo ảnh. Suy nghĩ, ký ức và hy vọng đơn thuần không thể làm cho chúng ta trải nghiệm được cảm xúc. Chỉ khi chúng có kết nối với những tín hiệu cơ thể đúng thì chúng ta mới có thể trải nghiệm được niềm vui, bởi vì chính từ những tín hiệu cơ thể mà não bộ xây dựng nhận thức về hạnh phúc. Hãy thử hạnh phúc với cơ bắp căng cứng và trạng thái toát mồ hôi lạnh xem nào!
Do vậy, hạnh phúc sinh ra từ cơ thể - tay chân, tim và da - cũng như từ tưởng tượng và suy nghĩ của chúng ta. Vì lý do này, chúng ta nên quan tâm nghiêm túc đến cơ thể của mình hơn chúng ta vẫn quen làm..
Tính độc lập của những cảm giác tích cực
Cảm giác tích cực được kết nối với cơ thể. Đây là lý do tại sao chúng ta cực kỳ khó cảm thấy hay thể hiện được hạnh phúc theo yêu cầu - một sự thật khó chịu có liên quan đến cấu trúc của não bộ. Có những dây thần kinh chịu trách nhiệm điều khiển cơ thể và do đó chịu trách nhiệm định hướng cảm xúc mà ý thức của ta không có chút quyền lực tác động nào. Để hiểu được điều này, chúng ta phải xem xét kỹ hơn cách thức cơ thể con người xử lý dữ liệu.
Sách giải phẫu học thường thể hiện hệ thần kinh của cơ thể như là một cái cây lộn ngược, ít nhiều bắt rễ trong não bộ. Các đường dẫn truyền tín hiệu chia thành cành nhánh càng lúc càng tinh vi hơn từ thân não đến các các cơ quan và tứ chi.
Điều này gợi nên hình ảnh một cấu trúc thống nhất đan kết tất cả những đường truyền tín hiệu này lại với nhau, nhưng không phải thế. Trên thực tế, hệ thần kinh của con người được chia ra làm hai phần làm việc độc lập với nhau: hệ thần kinh thực vật và hệ thần kinh vận động. Hệ thần kinh vận động (hệ thần kinh cơ xương) chỉ huy hầu hết các Cơ để chuyển động xương của chúng ta. Chỉ thị điều khiển ngón tay tôi tiếp tục gõ những dòng chữ hiện giờ là tuân theo những dây thần kinh này. Những mệnh lệnh này sinh ra từ vỏ não, vùng có cấu trúc luống, hình vòm, có màu xám, nằm trực tiếp dưới đỉnh hộp sọ, nơi những mơ ước, tưởng tượng và suy nghĩ của chúng ta xuất hiện. Hệ thần kinh vận động liên kết trực tiếp với phần này của não bộ.
Hệ thần kinh thực vật thì ngược lại, bắt nguồn từ phía bên kia của não. Nó bắt đầu ở thân não, ngay trong những tế bào xám đầu tiên ở vùng cổ. Hệ thống này chứa các hệ mạch thần kinh chỉ huy những chức năng cơ bản của cơ thể. Chúng chỉ thị việc ngủ và thức, kiểm soát nhịp tim, và kích thích các cơ quan sinh dục của chúng ta. Các dây thần kinh của hệ thần kinh thực vật này hầu như hoàn toàn không chạy đến các cơ xương, mà đi đến các cơ quan nội tạng, mạch máu và cuối cùng đến những cơ dưới da nhỏ xíu có chức năng giữ từng sợi lông. Hệ thần kinh này làm đỏ mặt khi chúng ta bối rối, làm tóc dựng ngược lên khi chúng ta sợ, và làm nhịp tim đập loạn xạ khi chúng ta yêu.
Do vậy, đúng như cái tên của nó, chúng ta không điều khiển được hệ thần kinh thực vật, chúng ta không thể quyết định hạnh phúc là hạnh phúc được ngay. Hệ thần kinh này không những điều khiển cơ vòng mắt, điều kiện cần cho nụ cười đích thực, mà còn kiểm soát cả nhịp tim, sự tuần hoàn và tuyến mồ hôi, tức là tất cả các hoạt động không có ý thức của cơ thể mà bộ não nhận thức để tạo ra những cảm giác tích cực. Đây là lý do chúng ta không thể thay đổi trực tiếp được cảm xúc của mình. Chúng ta phải hành động khôn ngoan hơn.
Cơ thể biết nhiều hơn chúng ta
Có một lý do nữa cho thấy việc chúng ta cố gắng chi phối hệ thần kinh thực vật là vô nghĩa. Bởi vì nó chỉ huy những chức năng cơ thể tối quan trọng cho cuộc sống, nên một quyết định sai lầm cũng có thể dẫn đến những kết cục bi thảm. Do vậy, bộ não được lập trình để ngăn chúng ta nhịn thở quá lâu hay làm tim ngừng đập.
Hệ thần kinh thực vật thực hiện hầu hết các nhiệm vụ trong mối liên kết với các chất hóa học truyền tín hiệu gọi là hoóc môn. Điều này giúp não bộ có hai cách để kiểm soát cơ thể: tín hiệu điện thì truyền qua hệ thần kinh, còn tín hiệu hóa học thì qua hoóc môn. Não bộ cũng có thể tự sản xuất các hoóc môn trong tuyến yên và tiết chúng vào máu - một kiểu điều khiển rất thiết thực, vì nó giúp cho mạch não có thể tiếp xúc trực tiếp với các cơ quan hơn là đi đường vòng qua dây thần kinh. Các hoóc môn truyền tín hiệu này giúp cho bộ não quan sát liên tục mức độ các chất trong cơ thể vốn có tầm quan trọng thiết yếu cho sự sống, và để can thiệp khi cần thiết. Theo cách này, hệ thần kinh thực vật và các hoóc môn cùng nhau giữ cơ thể luôn hoạt động ở trạng thái tối ưu.
Chương trình sinh tồn tự động này còn có một ưu điểm khác là tránh không để chúng ta phải tốn quá nhiều tâm trí chú ý đến các chức năng đơn giản của cơ thể. Nó giúp ta rảnh rang đầu óc để đối phó với các vấn đề hiếm khi gặp phải nếu như chúng ta cần bận tâm với vấn đề chẳng hạn như liệu gan của mình có sản xuất đủ enzym để chuyển hóa lượng rượu uống tối qua không.
Chúng ta chỉ nhận biết về hệ thần kinh này khi nó mất cân bằng một cách nghiêm trọng. Khi đó các phản ứng của cơ thể ép ta phải hành động. Nếu như lượng đường trong máu quá thấp, cơn đói sẽ hành hạ chúng ta. Nếu như lượng rượu chúng ta uống tối qua ngoài phố không chuyển hóa kịp trong máu thì đầu ta sẽ đau như búa bổ, một cảnh báo cho lần tới.
Việc điều khiển cơ thể của chúng ta cũng giống như giao diện người dùng của một cái máy tính. Cả hai đều tạo ra một vỏ bọc xung quanh bảo vệ các quá trình phức tạp nội bộ trong hệ thống, ngăn không cho chúng ta gần chúng. Thông tin kỹ thuật duy nhất mà người dùng thỉnh thoảng nhìn thấy là những thông điệp báo lỗi, khi mà chính chương trình không còn tự sửa lỗi được nữa. Rất nhiều cảm giác khó chịu xuất hiện tương ứng chuẩn xác với thông điệp báo lỗi đó.
Vì lý do này, bản thân cảm xúc cũng được bảo vệ tránh khỏi ảnh hưởng trực tiếp của ý chí, chứ không chỉ riêng các quá trình chi phối cơ thể. Chúng ta chỉ có thể kiểm soát cảm xúc một cách gián tiếp bằng cách đối xử tốt với chính mình - thông qua việc thay đổi môi trường sống hoặc suy nghĩ, hay bằng cách nhớ lại những hoàn cảnh dễ chịu. Nhưng nếu trong rừng một con gấu khổng lồ bất ngờ xuất hiện tiến về phía chúng ta, chúng ta không thể chọn xem mình có muốn sợ hay không. Chúng ta sợ trước khi chúng ta có thể phản xạ. Lúc đó, tim ta đập thình thịch, hơi thở nghẹt lại, cơ thể sẵn sàng để chạy. Nếu ta đã nhìn thấy gấu mà còn phải mất vài giây suy nghĩ xem nên quyết định thế nào cho đúng thì trong vài giây ấy con thú hung hăng đã có thể xé tan xác nạn nhân của nó rồi. Cho nên, cơ thể ta đã phản ứng lại mối đe dọa trước khi chúng ta bắt đầu cảm thấy sợ.
Do vậy, chúng ta cũng cảm thấy dễ chịu ngay khi nhận ra những thứ có thể hữu dụng với mình. Đây là những khoảnh khắc hạnh phúc ngắn ngủi: khi chúng ta đói và mùi bánh nướng thoảng qua mũi, nước miếng bắt đầu ứa ra. Khi gặp một người bạn, lúc chúng ta nở nụ cười chào thì cũng là lúc ta trải nghiệm niềm vui. Chúng ta trải nghiệm những cảm xúc khi nhận biết được những phản ứng không chú ý của cơ thể.
Các nhà khoa học phát hiện ra trực giác
Phản ứng của cơ thể có xảy ra trước khi cảm xúc xuất hiện, như là sóng xuất hiện trước mũi tàu không? Antonio Damasio, một người Mỹ gốc Bồ Đào Nha, đã tiến hành một cuộc thí nghiệm có tính bước ngoặt để trả lời câu hỏi trên tại phòng thí nghiệm của trường Đại học Iowa, một trong những trung tâm quan trọng nhất nghiên cứu lĩnh vực cảm xúc. Trong số những nguồn dữ liệu mà Damasio và vợ ông, Hanna, đã thu thập được có bộ sưu tập các hình ảnh não bị bệnh lớn nhất trên thế giới. Nhờ Công nghệ chụp cắt lớp vi tính CAT-scan tạo ra những bức ảnh không gian của bộ não sống, Damasio đã khảo sát được hơn 2.500 bộ não. Việc khảo sát này đem lại cái nhìn sâu hơn về những bộ não bị bệnh cùng với nghiên cứu các trường hợp bệnh nhân não, những người bị đủ thứ chứng rối loạn suy nghĩ, cảm xúc và hành vi, giúp Damasio gặt hái được những hiểu biết sâu sắc trong quá trình làm việc với trí óc của con người. Bởi bộ sưu tập hình ảnh của họ là độc nhất vô nhị, nên các thí nghiệm tại phòng thí nghiệm của Damasio được trích dẫn thường xuyên trong cuốn sách này.
Sử dụng những phương tiện tương đối đơn giản, các nhà khoa học ở Iowa đã cho ta thấy những biểu hiện trước tiên của niềm vui, ác cảm, sợ hãi và tức giận thực sự thuộc về thể xác như thế nào. Họ đưa ra cho các đối tượng thí nghiệm một trò chơi may rủi và nối đối tượng với máy phát hiện nói dối. 6 Trò chơi này trở nên nổi tiếng với tên gọi Iowa Card Test - gồm nhiều lần rút quân bài từ hai tập bài đóng kín. Tập quân bài tốt đem lại phần thưởng vừa phải và thua thiệt nhỏ; tập quân bài xấu chứa phần thưởng rất lớn, nhưng thua lỗ cũng thường nặng nề.
Sau khoảng lần rút thứ mười, đối tượng thí nghiệm bắt đầu tránh tập bài xấu, và máy phát hiện nói dối cho thấy đối tượng toát mồ hôi, tim đập thình thịch ngay khi chạm tay vào những quân bài rủi. Tuy nhiên đối tượng không biết tại sao họ lại bị như vậy, và cũng không ý thức được những phản ứng của cơ thể. Phải sau khoảng năm mươi lần rút bài, họ mới nói được về mối ác cảm có ý thức của mình đối với tập bài mang vận rủi. Và thậm chí phải mất nhiều thời gian hơn, đến khoảng lần rút thứ tám mươi, họ mới có thể giải thích được những phản ứng này và nguyên tắc của trò chơi.
Trực giác - thỉnh thoảng chúng ta có cảm giác kỳ lạ này khi lần đầu tiên gặp mặt một người mà về sau hóa ra rất đáng ghét - là cảm giác có thật, mặc dù chúng ta không thể giải thích được những linh cảm loại này vì chúng sinh ra từ những cảm xúc vô thức. Ví như khi chúng ta lần đầu gặp ai đó mà sau trở thành kẻ thù của ta, thì có lẽ một biểu hiện đe dọa đã lướt nhanh qua khuôn mặt đó, làm lóe lên trong ta khoảnh khắc sợ hãi không thể nhận thức được [bằng lý trí].
Trực giác làm việc cho chúng ta ngay cả khi chúng ta không thể biết chuyện gì đang xảy ra. Một vài người kém thông minh không bao giờ hiểu được nguyên tắc đằng sau trò chơi rút bài, nhưng dù sao thì họ vẫn chọn đúng. Ở điểm này,niềm tin thông thường được chứng minh là khôn ngoan hơn khoa học, vốn hàng thế kỷ qua đã phủ nhận khả năng đạt được bất kỳ tri thức nào ngoại trừ những tri thức có được qua suy luận.
Nhưng - ngược lại với lối nghĩ thông thường - hiểu biết có tính cảm xúc không hề dựa trên nền tảng hiện tượng siêu cảm giác. Đúng hơn, trực giác mọc rễ rất sâu trong cơ thể chúng ta. Chúng ta có được nó bằng những trải nghiệm. Lần đầu tiên rút bài, người tham gia thí nghiệm chưa có cảm giác đối với tập bài tốt. Trước hết bộ não phải học cách dự đoán kết quả. Một linh cảm xuất hiện khi sự tính toán này - tập bài này hên tập bài kia rủi - được truyền đến cơ thể trước khi đến ý thức.
Trong ví dụ về con gấu hung hãn (do nhà tâm lý học người Mỹ William James đưa ra), chúng ta đã biết sự lợi hại của hành vi [dựa trên] trực giác khi nó đi trước suy nghĩ có ý thức. Trực giác giúp cho cuộc sống con người dễ dàng hơn và tiết kiệm thời gian quý báu của con người mỗi khi đối diện với hiểm nguy. Đôi khi, cơ thể ta biết nhiều hơn là lý trí, hoặc nói theo cách của nhà triết học pháp Blaise Pascal, “Trái tim có những lý lẽ mà lý trí không hề biết được.” (8)
Hình ảnh từ thế giới bên trong ta
Giống như những đối tượng thí nghiệm lo lắng với tập bài xấu, chúng ta thường không ý thức được chiều sâu những cảm xúc của mình trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta có thể biết mình đang đỏ mặt chỉ khi một ai đó nói cho hay. Và mắt ta có thể lấp lánh niềm hân hoan khi chính chúng ta không biết mình đang hạnh phúc thế nào.
Trong những khoảnh khắc như thế, ta mới biết rõ cảm xúc và cảm giác không giống nhau và không phải là một, mặc dù trong lời ăn tiếng nói chúng ta thường dùng hai từ thay thế cho nhau. Nhưng có một sự khác biệt: cảm xúc là phản ứng tự nhiên của cơ thể trước tình huống đặc biệt - mắt ánh lên khi vui vẻ, hoặc mặt đỏ nhừ khi bị bắt quả tang nói dối. Cảm giác xuất hiện khi chúng ta tiếp nhận những cảm xúc này một cách có ý thức như niềm vui hay sự xấu hổ chẳng hạn.)
Vậy nên, cảm xúc là vô thức; còn cảm giác là có ý thức. Vì chúng ta nhận thức rằng hầu hết những cảm xúc đều là cảm giác, nên đây là lý do vì sao người bình thường không phân biệt chúng. Dù sao, chúng ta cũng không thể biết hết mọi cảm xúc được, ví dụ như chúng ta không biết mình đỏ mặt nếu như không có ai nói ra.
Cảm xúc tạo ra cảm giác như thế nào? Với trang thiết bị đầy đủ, các nhà khoa học làm việc cùng Antonio Damasio đã có thể quan sát bộ não trong lúc nó đang suy nghĩ. Họ yêu cầu đối tượng là những người khỏe mạnh nghĩ về những thời điểm rất vui hoặc rất buồn trong cuộc sống của họ: đoàn tụ với người yêu dấu, hay cái chết của bố mẹ. Trong vài lần tiến hành thí nghiệm, các nhà nghiên cứu đã kiểm tra phản ứng của đối tượng thí nghiệm bằng máy phát hiện nói dối, và chọn ra người có những phản ứng đặc biệt mạnh. Sau đó, họ đưa các đối tượng vào máy chụp cắt lớp phóng xạ Positron (PET), một chiếc máy có kích thước choán hết diện tích phòng. Đối tượng nằm gọn trong một ống kim loại hẹp, được Cột chặt để hình ảnh không bị mờ - không phải là một không gian có thể khơi gợi những suy nghĩ về Đảo Huyền Diệu 5 . Một dung dịch đường glucose đã biến đổi có phóng xạ yếu (hoạt động như là chất cản quang) chảy nhỏ giọt qua một ống vào máu. Dù vậy, đối tượng được đẩy sâu vào ký ức của mình đến nỗi họ quên đi tất cả những máy móc thiết bị quanh mình. Một số thậm chí bắt đầu gào khóc. Trong khi đó, Damasio cùng cộng sự nhìn màn hình và quan sát những phần não bộ mà các cảm giác mạnh mẽ của bệnh nhân đang kích hoạt. (10)
Bên phải: Cấu trúc của não bộ giống như một tòa nhà vài tầng. Nền móng là thân não, phần tiếp nhận những tín hiệu từ cơ thể. Nó sinh ra từ tủy sống rồi đi vào não giữa. Phía trên não giữa là não trung gian, chịu trách nhiệm cho sự hưng phấn. Nó kiểm soát cơ thể bằng cách tiết ra các hooc môn thông qua tuyến yên. Ở trên cùng, dưới đỉnh sọ não là vòm đại não hình cung, giám sát toàn bộ phần còn lại của não bộ. Chức năng của nó là những nhận thức cảm quan, suy nghĩ, lập kế hoạch, và tất cả các hoạt động của ý thức.
Bên trái: Hình ảnh chụp X quang cho thấy hạnh phúc và đau buồn được hình thành như thế nào trong não bộ. Với mỗi loại cảm giác, đều có mô hình hoạt động tương ứng của não bộ. Tuy nhiên, có vài phần của não bộ hoạt động trong cả hai trường hợp cảm giác dữ liệu đi từ cơ thể qua thân não. Ở đây, não giữa hoạt động đặc biệt tích cực, có thể nhìn thấy điều này qua những phần màu tối. Tiểu não, phần treo như một cái ba lô trên thân não, xử lý những xung động từ thân não và đưa mệnh lệnh tới các cơ - chẳng hạn, nếu điều gì đó làm ta khoái chí, mệnh lệnh đưa ra là cười. Phía trên nó là não trung gian, phần được kích hoạt để giải phóng ra những hưng phấn xúc cảm. Ở trong đại não, nếp nhăn (nếp gấp của não) phía sau mắt, phần được gọi là thùy trước trán, hoạt động đặc biệt mạnh. Nó chuyển những xúc cảm thành kế hoạch và hành động. (Damasio, 2000)
Những hình ảnh mà các nhà khoa học giới thiệu năm 2000 thu hút được sự quan tâm của dư luận vì hai lý do. Trước hết, chúng cho thấy chi tiết cái xảy ra trong bộ não khi chúng ta cảm thấy hạnh phúc và u buồn, bực tức và cáu giận, điều chưa từng được thấy trước đây. Với máy chụp PET, ta có thể thực sự nhìn thấy cảm giác nào đang xảy ra trong một người tại thời điểm nhất định. Thứ hai, những hình ảnh này đưa ra những chứng cứ thuyết phục hơn bất cứ gì khác cho đến thời điểm hiện tại rằng, những cảm giác thực sự xuất hiện theo sau những phản ứng của cơ thể. Chính xác thì những vùng đó hiện rõ trên màn hình máy tính, điều này rất cần thiết để tạo ra một hình ảnh cơ thể trong bộ não: ở phía dưới, thân não là bộ phận kiểm soát toàn bộ cơ thể; ở giữa, một số phần tiểu não và não trung gian xử lý những dữ liệu này, và cuối cùng, phía trên cùng, đại não có nhiệm vụ tập hợp những thông tin này dưới dạng một hình ảnh mạch lạc và kết nối nó với nhận thức, suy nghĩ và trí tưởng tượng có ý thức của ta. Chúng ta chỉ có thể ý thức được cảm xúc của mình khi nó đã được đại não xử lý.
Mỗi cảm giác - gồm cả cảm giác hạnh phúc - đều phụ thuộc vào việc não tiếp nhận và xử lý các tín hiệu từ cơ thể. Thậm chí trong những thời khắc phục lạc cực điểm, khi mà chúng ta như ở một thế giới khác, thì cũng chỉ thông qua nhận thức về cơ thể mình mà ta mới trị nhận về cảm giác hân hoan đang diễn ra. Như Damasio lưu ý, trí óc, theo nghĩa đúng nhất của từ, là hiện thân của cơ thể, chứ không phải là hiện thân của não bộ. Một linh hồn đã rời khỏi xác thì không thể cảm nhận được cả hạnh phúc lẫn buồn đau. Và nếu ta mệt mỏi với những kích thích vật lý, thì cơ thể của chúng ta, theo như Damasio, có thể bị não bộ kích thích, thậm chí một cách vô thức. Giống như con mắt bên trong của ta có thể nhìn thấy một hình ảnh tưởng tượng, hành não cũng có thể làm giả các xung động mà thực tế nó không nhận được. Damasio tin rằng điều này giúp cho cơ thể không phải nhọc công đẩy mạnh nhịp độ và trải qua toàn bộ chương trình cảm xúc tích cực trong những tình huống không mấy quan trọng, ví dụ như khi trải nghiệm một niềm vui nho nhỏ, song vẫn cho phép tạo ra một cảm giác dễ chịu trong những tình huống ấy] mà không phải tiêu hao năng lượng quá nhiều, có thể nói vậy. Rất có thể cơ chế này đã giúp những người bị bại liệt do tại nạn giữ nguyên được khả năng cảm xúc (12)
Cười có làm cho ta hạnh phúc?
Người ta thường cho rằng một người cáu bẳn chỉ cần cười một cái là tinh thần đã thay đổi hẳn. Chính vì thế mà Robert Baden-Powell, người sáng lập ra phong trào Hướng đạo sinh (Boy Scouts) luôn khuyên các hướng đạo sinh trẻ của mình phải chủ động cười khi sợ hãi hoặc trải qua những điều khó chịu, như vậy thế giới sẽ trở nên thân thiện hơn.1
Liệu chúng ta có thể thực sự làm mình hạnh phúc bằng cách dùng các cơ mặt trợ giúp? Paul Ekman đã theo đuổi câu hỏi này một cách khoa học nhằm chứng minh cho cái quan niệm rằng nụ cười quả thật làm cho ta hạnh phúc. Nếu như cảm giác bắt nguồn từ cơ thể, vậy thì kết luận theo logic là cơ thể cũng có thể làm cảm giác thay đổi. Than ôi, con đường dẫn tới hạnh phúc hóa ra không hề bằng phẳng như chúng ta thích nghĩ, bởi không thể nào mọi nụ cười đều đến được cái mục đích cuối cùng của nó. Vẻ mặt lịch thiệp mà ta cố khoác lấy khi xin sếp tăng lương có thể che giấu sự mất tự tin của ta, nhưng nó không làm ta cảm thấy hân hoan được, bởi vì ta chỉ đang giả vờ mình đang trong tâm trạng tốt. Chúng ta chỉ thực sự cảm thấy hạnh phúc khi cười kiểu Duchenne, nâng hai góc miệng lên và đồng thời nheo khóe mắt thành dạng vết chân chim.
Bởi vì hầu hết mọi người không thể điều khiển được những chuyển động cơ kiểu này. Ekman đã dạy những người tham gia các thí nghiệm của ông luyện cơ vòng mắt, song không cho biết lý do tại sao. Sau đó ông có thể chỉ ra rằng, tín hiệu hạnh phúc không đến từ một phía. Người tham gia thí nghiệm cùng học được cách điều khiển cơ vòng mắt tốt hơn thì họ càng cảm thấy tâm trạng dễ chịu mà không biết tại sao. Nhưng điều này chưa đủ đối với Ekman. Ông cũng ghi lại sóng não của các sinh viên thí nghiệm khi họ chủ ý buộc khuôn mặt mình cười kiểu “đích thực”.(14) Và quả thật, những tín hiệu điện được tạo ra từ những nụ cười này không thể phân biệt được với những tín hiệu xuất hiện trong một phản ứng thích thú trước một câu chuyện hài hước khéo kể. Cười làm cho ta hạnh phúc, nhưng chỉ với điều kiện là cười đúng kiểu. Cần có kỹ năng để đánh lừa bộ não.