⚝ 2 ⚝ Cảm giác tích cực là kim chỉ nam
Tại sao chúng ta lại có cảm giác? Cảm xúc kiểm soát cơ thể nhưng cũng như các phản ứng, chúng chỉ có thể làm tốt điều đó nếu chúng ở đằng sau, trong trạng thái tĩnh lặng. Khi bác sĩ dùng búa gõ vào đầu gối bạn, chân bạn sẽ giật lên mà không có bất cứ cảm xúc đặc biệt nào xuất hiện nơi bạn. Máy móc có thể điều khiển các quá trình nội bộ của nó một cách cực kỳ tinh vi, nhưng chưa từng có cái máy hàn tự động nào nhảy cẫng lên vì vui sướng, hay khóc lóc nghẹn ngào, hay hổn hển vì nghẹt thở.
Thực tế, thậm chí có một số người không hề có cảm giác gì. Bệnh nhân nổi tiếng của Damasio, Elliot, chính là một trong số đó. Elliot đã là một luật sư thành đạt, một người chồng và người cha tốt cho đến khi một khối u to bằng quả quýt phá hủy vỏ não trước trán ngay phía trên khoang mũi. Khối u, gọi là u màng não, được phẫu thuật cắt bỏ, nhưng Elliot không còn là con người cũ nữa.
Mỗi buổi sáng thức dậy, anh ta lề mề ra khỏi giường như một đứa trẻ lười biếng phải chuẩn bị đi học. Anh phung phí cả ngày vì không có khả năng sắp xếp thời gian trong Công việc. Do không thể giải quyết nhanh đống giấy tờ trên bàn, anh lãng phí hàng giờ đồng hồ chỉ để tìm ra phương pháp sắp xếp chúng vào trật tự. Anh mất khả năng đánh giá cái gì là quan trọng cái gì không, và không thể ra nổi quyết định nữa.
Elliot bắt đầu đánh mất chỗ đứng xã hội. Anh bị đuổi việc. Bị ám bởi những tính cách u ám này, anh thường xuyên sa lầy trong những mối lợi kinh doanh mới và những rủi ro tài chính. Dù là một doanh nhân đầy kinh nghiệm, anh vẫn thất bại và phá sản. Cuộc hôn nhân của anh tan vỡ, và mối quan hệ lần hai cũng nhanh chóng xôi hỏng bỏng không. Trước khi sang tuổi bốn mươi, Elliot đã phải sống dựa vào sự quan tâm của anh chị em ruột như một kẻ tàn phế.
Thế nhưng, như Damasio đã phát hiện ra, trí thông minh của Elliot không hề bị ảnh hưởng sau khi bộ não chịu tổn hại. Các phản ứng cũng hoạt động bình thường. Khi bị đe dọa, anh ta vẫn thể hiện các phản ứng vật lý bình thường. Các bác sĩ không thể tìm thấy bất kỳ dấu hiệu tổn hại nào khác. Elliot rất quyến rũ, chu đáo, thậm chí còn dí dỏm - và luôn luôn ở trạng thái bình tĩnh. Anh ta điềm tĩnh, không có khả năng bị kích động. Anh ta còn có thể kể về thảm kịch của mình một cách khách quan đến nỗi ai cũng nghĩ là anh ta đọc đâu đó về nó [chứ không phải đó là chuyện xảy ra với chính anh ta]. Với sự trợ giúp của hàng loạt thí nghiệm tâm lý,Damasio đã phát hiện ra bệnh nhân của mình là một người không có cảm giác. Mặc dù những cảm xúc vô thức của anh ta đôi khi xuất hiện, nhưng Elliot không thể tiếp cận được chúng nữa.
Khi cộng sự của Damasio cho Elliott xem ảnh chụp mọi người đang chạy tán loạn khỏi ngôi nhà bị cháy hoặc đang bị đe dọa trong cơn lũ lụt dâng cao, anh ta giải thích một cách bình thản rằng, anh biết rất rõ lẽ ra mình phải cảm thấy những cảnh này thật kinh hoàng, nhưng lạy Chúa, anh chẳng cảm thấy gì. Điều tương tự cũng xảy ra khi mọi người cho anh ta xem ảnh của người thân hay nghe bản nhạc mà anh ta yêu thích trước khi bị bệnh: phản ứng của anh ta không bị tác động chút nào, y như một cái máy tính.
Máy tính chỉ thích hợp cho các loại công việc lặp đi lặp lại, chứ không thể thích nghi với hoàn cảnh mới. Đối với Elliot cũng y như vậy. Mặc dù trí thông minh của anh ta có thể sắp xếp tất cả các thông tin cần thiết thành hồ sơ theo thứ tự, nhưng anh không thể quyết định xử lý như thế nào nữa, vì anh không đánh giá được các thông tin này. Logic có thể tìm ra các khả năng thay thế và loại bỏ những thứ vô tác dụng. Nhưng khi lý trí cần phải lựa chọn giữa hai cơ hội tốt tương đương nhau, thì nó thất bại. Diễn trình hành động duy nhất của nó là suy nghĩ kỹ về tất cả các hậu quả có thể xảy ra của một quyết định để rồi đi đến kết luận cuối cùng, một quá trình thường tốn nhiều thời gian một cách bất hợp lý (cái giá mà Elliot phải trả cho công việc của mình) và bản chất là vô dụng, vì cuộc sống luôn luôn có những thứ không thể đoán trước được. Đó là lý do tại sao lý trí cần sự trợ giúp.
Cảm giác giúp ta linh hoạt
Sự trợ giúp này đến từ những cảm giác. Trong khi cái đầu tạo ra một danh sách dài những thức ăn tốt và xấu, thì cái bụng đã quyết định từ lâu thứ gì chúng ta thích, thứ gì chúng ta không thích mà chẳng đưa ra lý do nào. Các đánh giá bắt nguồn từ cảm xúc không đến từ logic mà từ hai nguồn có căn nguyên trong quá khứ xa xôi. Một mặt, việc lập trình gien quyết định trực giác của ta. Món ăn quá đắng sẽ không cho cảm giác ngon nữa: đây là cách cơ thể bảo vệ ta khỏi bị ngộ độc. Chúng ta sẽ phản ứng tiêu cực - một cách tự động - đối với nguy cơ gây nguy hiểm cho chúng ta.
Mặt khác, cảm giác của ta còn dựa trên những trải nghiệm vốn được lưu trữ dày đặc và sinh động hơn hẳn trong hệ thống cảm xúc của bộ não so với nếu như lưu trữ trong ý thức của ta. Cũng như một bức tranh có thể nói lên nhiều điều hơn cả nghìn từ ngữ, một cảm xúc có thể truyền tải tốt hơn cả nghìn suy nghĩ. Nếu bạn thấy một cái bật lửa cháy đang hướng về phía tay bạn, bạn đâu phải trước tiên là nghĩ ngợi về những hậu quả có thể xảy ra nếu chạm vào. Một lần bị bỏng là nhớ suốt đời.
Lắng nghe cảm giác của mình là khôn ngoan, nhưng không phải lúc nào cũng nên tuân theo chúng một cách mù quáng. Hùng hổ cãi lại khi bị sếp khiển trách sẽ dẫn đến kết thúc sự nghiệp chứ không phải có sự nghiệp hứa hẹn hơn, và không phải cứ ai biết cách tâng bốc đưa ta vào tâm trạng dễ chịu là đều chiếm được niềm tin của ta. Cảm xúc phát triển trong quá trình tiến hóa để các sinh vật có thể giải quyết nhanh chóng những vấn đề tương đối đơn giản. Chúng là những phương thức đúng đắn để quyết định xem có nên chạy khi gặp rắn hay đáp lại sự tấn công bằng cú phản đòn. Như ta đã thấy, trong những tình huống như vậy cảm xúc luôn đưa cho con người, loài chuột và các động vật sống khác, những giải pháp sống còn.
Tuy nhiên, hầu hết các vấn đề hằng ngày của chúng ta thường phức tạp hơn nhiều. Hành động quá nhanh theo cảm xúc thường làm cho vấn đề giữa các cá nhân với nhau càng trầm trọng hơn. Một cơn giận bùng nổ không kiểm soát được có thể giúp loại đối thủ ngay tức khắc, nhưng cũng có thể phá tan một mối quan hệ. Con vật phải hành động theo mệnh lệnh của cảm xúc, còn chúng ta thì không. Chúng ta có thể quyết định không tuân theo cảm giác, điều này cho phép ta có nhiều lựa chọn hơn để phản ứng hợp lý.
Chỉ khi ý thức được cảm xúc của mình thì ta mới có thể tự do quyết định xem có theo nó hay không hiểu được các cảm giác của mình cho chúng ta sự linh hoạt. Chỉ khi ý thức được cơn thịnh nộ của mình thì ta mới có thể triệt được con rung trong cổ họng và quyết định nói năng một cách bình tĩnh - việc này thường đem lại hiệu quả hơn là để cho cơn thịnh nộ bùng nổ. Không muốn để cho hai đầu gối run lẩy bẩy tước đoạt mất của ta một trải nghiệm mới, ta có thể kiềm chế những cảm giác rụt rè và sợ hãi. Lũ chó sẽ không dám nhảy bungee 6 ngay cả nếu chúng có thể nhảy; cảm xúc sợ hãi vô thức đã ngăn chúng lại - chúng là nô lệ cho cảm xúc đó.
Cuộc sống không có bất hạnh thì cũng không có hạnh phúc
Trong cuộc sống thật, anh chàng Spock, người của hành tinh Vulcan vô cảm trong phim Star Trek 7 sẽ là một ví dụ về lòng nhân hậu. Thậm chí khi chúng ta quyết định chống lại tiếng gọi của cảm xúc, khả năng cảm giác vẫn là tối quan trọng nếu chúng ta phải hành động với sự tiên liệu, vì cảm giác là cần thiết ngay cả trong những tình huống hãn hữu mà ở đó chỉ cần lý trí cũng đủ.
(2) Khi các nhà nghiên cứu não bộ cho Elliot làm bài trắc nghiệm cơ hội, anh đã cho thấy một sự thật kinh ngạc. Anh được yêu cầu quyết định xem mình thích rút bài từ tập bài thường xuyên có thưởng 50 đô la và hiếm khi mất 100 đô la, hay tập bài có thưởng 100 đô la nhưng cũng bị mất tới 1.000 đô la.
Sau một vài lần rút, đối tượng thí nghiệm là người khỏe mạnh chỉ chọn rút bài ở tập bài thứ nhất. Tuy nhiên, người không có cảm giác lại kiên quyết thử vận may của mình với tập bài rủi ro. Sau vài vòng chơi Elliot đã hết tiền, anh đề nghị người tiến hành thí nghiệm cho mượn tiền.
Elliot, một người rất thông minh, nhanh chóng hiểu trò chơi và có thể kết nối các quy tắc chơi lại, nhưng thật kinh ngạc, anh ta rõ ràng đã không thể sử dụng kiến thức của mình. Thế mà việc lựa chọn trong trò chơi may rủi này hoàn toàn dễ hiểu, trái ngược với chẳng hạn như việc phân loại tài liệu, nơi có nhiều khả năng lựa chọn hợp lệ. Một khi đã hiểu trò chơi thì chỉ mất vài phép tính toán thống kê đơn giản là có thể đoán ra kết quả. Thậm chí một cái máy tính được lập trình để tối đa hóa lợi nhuận cũng ngay lập tức quyết định chọn tập quân bài thưởng 50 đô la, thế mà Elliot lại đánh mất hết tiền.
Thí nghiệm cho ta thấy tại sao anh ta không thể làm tốt hơn trong cuộc sống thực. Vì như Elliot giải thích, anh ta hết sức muốn thắng cuộc, và chính mong muốn này dẫn đến thất bại của anh. Anh theo đuổi mọi cơ hội. Những bộ não lại đưa ra những đánh giá theo cảm xúc chứ không theo lý trí. Điều này xảy ra ở vùng vỏ não trước trán, vùng bị khối u của Elliot phá hủy, là nơi não bộ duyệt qua các khả năng khác nhau, hình dung xem chúng ta cảm thấy thế nào trong trường hợp này trường hợp kia để ra quyết định.
Quá trình này đã bị phá hỏng trong Elliot, người không thể phát triển mối ác cảm với những quân bài rủi ro ngày cả khi, vừa rút bài từ tập bài đen đủi xong, một lần nữa anh lại mất thêm nhiều tiền. Rõ ràng là với anh cuộc chơi này có thể dẫn đến những thua thiệt thảm hại, nhưng nỗi sợ hãi và khó chịu hoàn toàn xa lạ với anh, nên anh cảm thấy chẳng có lý do gì để làm theo nhận thức sâu sắc bên trong. Sự thất bại của Elliot cho thấy chỉ riêng lý trí không đủ hướng đạo cho hành vi của chúng ta.
Ưa thích bi kịch
Những người hướng dẫn của tự nhiên - hạnh phúc và bất hạnh - đã dạy dỗ chúng ta. Chúng ta nhận chỉ dẫn của chúng một cách trực tiếp nhất trong các khía cạnh cơ bản nhất trong cuộc sống, những mục đích chúng ta theo đuổi để duy trì sự tồn tại của ta và mang lại cho ta hạnh phúc: ăn, uống, tình dục, bạn bè.
Sự thiếu thốn lúc trước của chúng ta càng lớn thì niềm vui về sau càng mạnh. Ngụm nước đầu tiên uống khi cổ họng đã khô cháy là ngụm nước ngon nhất. Niềm vui thú là công cụ mà tự nhiên đã dùng để thuyết phục chúng ta làm những điều có lợi nhất cho ta.
Vì những lý do sinh học, những chỉ dẫn mà niềm vui thú hay nỗi khó chịu đưa ra, trên tất cả, phải hướng đến giữ cho cơ thể luôn ở điều kiện tối ưu. Đây là lý do tại sao đau đón luôn lấn át mọi cảm giác khác. Chúng ta được lập trình để không lờ đi những tín hiệu cho biết có gì đó bất ổn xảy ra. Chúng ta sẽ bị giày vò cho đến khi làm bất kỳ điều gì có thể giúp cho cơ thể mình, và thường không may là chúng ta vẫn còn bị giày vò tiếp.
Nói chung, chúng ta trải nghiệm các cảm giác tiêu cực một cách sẵn sàng hơn và mãnh liệt hơn so với cảm giác tích cực. Một vở kịch thống thiết dễ dàng làm ta xúc động hơn nhiều so với một vở hài kịch làm ta cười. Chúng ta có thói quen khó chịu này là do sinh học. Nếu cho đối tượng thí nghiệm tâm lý học thần kinh xem những bức ảnh vui và buồn, họ ngay lập tức sẽ phản ứng mạnh với những bức ảnh buồn, ta có thể đọc thấy điều này qua độ võng mạnh trong điện não đồ (EEG). Mọi người thường thích bi kịch hon.
Giá trị của sự ưa chuộng bi kịch này đã được thể hiện trong suốt quá trình tiến hóa. Tổ tiên chúng ta nghe những tiếng sột soạt nhẹ nhất trong bụi rậm cũng bị lay động bởi nỗi sợ hãi, buồn rầu và giận dữ, đến nỗi quên cả con mồi dù béo tốt ngon lành đến đâu, để đảm bảo an toàn cho mình. Ngày nay, chúng ta dường như hướng đến ngăn chặn rủi ro hơn là tìm kiếm hạnh phúc. Trên các tờ báo, tin xấu luôn
được giật tít to hơn tin tốt. Với một lượng tương đương thì cái mất mát gây ra đau đớn nhiều hơn so với cái mang lại niềm vui. Nếu cơ chế chịu trách nhiệm về độ lệch trong các phản ứng này bị hỏng thì số phận giống như số phận của Elliot đang sừng sững đó đợi ta.
Hệ thống của ta được thiết kế nghiêng về những trải nghiệm bất hạnh hơn là trải nghiệm về niềm vui, và chúng ta tiếp nhận sự bực mình, chán nản nhanh và mạnh hơn so với việc tiếp nhận niềm vui. Sự kế thừa này của tiến hóa là có tầm quan trọng sống còn trong những tình huống nghiêm trọng, nó giải thích cho nhiều bi kịch lớn nhỏ trong đời. Con ghen tuông điên rồ của Othello 8 lấn át tình yêu dành cho vợ đến nỗi anh ta đã ra tay giết vợ mình. Chỉ một con bực mình nho nhỏ khi bạn đang đi nghỉ mát cũng có thể gây ra những thiệt hại nặng nề. Khi ánh nắng mặt trời tỏa xuống, những cơn gió nhè nhẹ thổi mơn man trên da bạn, biển xinh đẹp và ấm áp, còn thức ăn thì thơm ngon không tả được, bạn và người đồng hành đều cảm thấy thời gian này thật tuyệt vời. Nhưng vào giữa cái khung cảnh yên bình thơ mộng này, thì một cái máy cẩu gầm gừ ngay trước phòng khách sạn của bạn. Suốt cả ngày, từ sáng đến tối. Chỉ là một thiếu sót nho nhỏ bám trên bề mặt những niềm vui của kỳ nghỉ, nhưng bạn không thể bỏ qua được nỗi khó chịu. Cơn tức giận của bạn đe dọa phá hỏng toàn bộ chuyến đi chơi.
Tại sao hạnh phúc không miễn phí
Bất hạnh tự nó xuất hiện, nhưng hạnh phúc thì chúng ta phải mưu cầu mới có. Trong khi sợ hãi, tức giận, đau buồn chính là các phản ứng với những nguy hiểm của thế giới bên ngoài, thì những cảm giác sung sướng của ta lại được tự nhiên nuôi dưỡng để dụ ta vào những tình huống đáng thèm muốn. Không phải chỉ có mỗi loài người là được lập trình theo cách này. Ví dụ, như những con chuột cái trong phòng thí nghiệm cứ liên tục quay đi quay lại những chỗ trong lồng mà chúng từng thích thú giao phối, như thể chúng làm mọi thứ có thể miễn sao trải nghiệm được sự thích thú ấy một lần nữa.
Điều làm cho con người khác con chuột ở đây là khả năng nhìn thấy trước vấn đề. Không như con vật, chúng ta không nhất thiết phải trải nghiệm một tình huống để có thể rút ra những kết luận đúng cho tương lai. Chỉ cần suy nghĩ thấu đáo về một trải nghiệm là đủ. Chỉ cần một nỗi sợ hãi tình cảnh khốn đốn cũng đủ ngăn một doanh nhân không sa vào những vụ đầu cơ kinh doanh quá rủi ro. Và trong tình yêu, chỉ tưởng tượng một đêm với người yêu mà ta không thể với tới cũng đủ làm trái tim thổn thức.
Sự trải nghiệm và nỗi mong chờ hạnh phúc dẫn dắt những hành động của ta. Với sự nhận thức này, nghiên cứu não bộ hiện đại đã chứng thực được lối tư duy vốn là trung tâm đối với triết học Hy Lạp cổ đại, nhưng lại có phần xa lạ với chúng ta. Trong khi rất nhiều người ngày nay vẫn quan niệm hạnh phúc như là một vận may, như là cái gì đó đến (hoặc không đến) với chúng ta từ bên ngoài ta, thì những triết gia Hy Lạp đã biết mối liên hệ: hạnh phúc có được là do hành động đúng. Aristotle 9 viết: “Hạnh phúc là kết quả của một hành động”. Hạnh phúc không phải là một món quà ngẫu nhiên hay thần thánh; nó được trao cho người biết cách sử dụng tối ưu các khả năng sẵn có để đạt được.(4) “Như một vị tướng giỏi biết chỉ huy quân của mình một cách xuất sắc nhất, hay một người đóng giày giỏi biết làm những đôi giày tốt nhất từ đống da có sẵn,” thì một người thông minh luôn luôn biết cách tận dụng mọi tài năng và cơ hội của mình. Bí mật của hạnh phúc và viên mãn chính là nằm trong những kiểu sống tích cực như thế.
Các triết gia cổ điển đã rút ra hai kết luận từ những hiểu biết này. Đầu tiên, nếu như hạnh phúc là sự phát huy hết mọi năng lực bản thân, vậy thì - bởi mọi người là giống nhau - phải có những quy tắc được áp dụng rộng rãi để đạt được mục đích này. Thứ hai, chúng ta có thể học được cách sống hạnh phúc bằng cách tuân theo những quy tắc này. Chúng ta không thể phó mặc cho tâm trạng hay môi trường quanh ta.
Trong thời đại ngày nay,vì coi hạnh phúc không khác gì một điều kiện dễ chịu nên chúng ta thấy không dễ tuân theo kiểu suy nghĩ này. Đúng hơn, chúng ta có xu hướng ghen tị với những người được coi là không xứng đáng mà lại hưởng những khoảnh khắc hân hoan quý báu nhiều hơn chúng ta. Chúng ta cố tình lờ đi sự thật rằng, mặc dù có rất nhiều khác biệt giữa người với người, con người ta vẫn có nhiều điểm chung với nhau hơn là những khác biệt, ở cả khía cạnh sinh học lẫn trong tâm tính. Chúng ta thường có xu hướng coi hạnh phúc như là một niềm thích thú mà không cần có lịch sử, không phải trả giá, không phải một quá trình. Và điều này là phi thực tế.
Với những hiểu biết sâu sắc ngày nay về chức năng của trí não, chúng ta cũng biết rằng những cảm xúc tích cực không tự nhiên sinh ra. Khi mà các tư tưởng gia cổ đại nói về “đức hạnh” và sự “thỏa mãn tối ưu các khả năng của con người”, thì khoa học hiện đại nhấn mạnh sự đạt được “điều kiện tối ưu của cơ thể”. Những tư tưởng chủ đạo của triết học Cổ đại về hạnh phúc, dưới ánh sáng của sinh học thần kinh ngày nay, vẫn còn nguyên giá trị: những cảm giác tích cực không phải là may rủi số phận - chúng ta có thể và phải cố gắng để đạt được chúng.