← Quay lại trang sách

⚝ 3 ⚝ Hệ hạnh phúc

Chúng ta có thường xuyên nhận thấy mình đang hy vọng cảm giác hạnh phúc sẽ đến với mình bởi chính ý chí của nó? Rằng rốt cuộc thì khó khăn vất vả của chúng ta cũng đi đến hồi kết? Giá như cái dự án mà chúng ta phải nghiền ngẫm hết đêm này sang đêm khác tại cơ quan kết thúc tốt đẹp! Giá như, cuối cùng, người trong mộng của ta xuất hiện và chữa lành nỗi cô đơn của ta! Vậy thì mọi thứ khác cũng sẽ tự lo cho bản thân chúng.

Đằng sau những tình cảm ủy mị này chính là tư tưởng cho rằng một cuộc sống không có khổ đau phải là một cuộc sống hạnh phúc. Hạnh phúc là người đàn ông hay đàn bà không bị lây căn bệnh bất hạnh. Dường như theo logic thì hạnh phúc và bất hạnh phải triệt tiêu lẫn nhau, như là trẻ con chơi trò bập bênh: chỉ có một thứ xuất hiện tại một thời điểm.

Nhưng không phải như vậy. Như chúng ta biết hiện nay, cảm giác tích cực và tiêu cực được sinh ra do những hệ thống khác nhau trong bộ não. Thoát khỏi đau khổ hoàn toàn không đảm bảo có hạnh phúc. Đây là một nhận thức quan trọng, bởi vì nó sẽ dẫn đến một loạt gợi ý cho việc hướng đạo cuộc sống của ta. Đầu tiên, tôi đề nghị bạn tiến hành một thí nghiệm nho nhỏ.

Hạnh phúc không phải là mặt đối lập của bất hạnh

Hãy tưởng tượng, bạn là một nhà leo núi và bị lạc đường khi đang ở trên cao của dãy Alps. Sau khi đi lòng vòng mất vài giờ, bạn tìm lại được đường đi, nhưng đã khá muộn. Bạn biết rằng không thể trở xuống thung lũng trước khi trời tối. Gió mạnh, mây đen kéo về dày đặc, ngay sau đó là những giọt mưa đầu tiên rơi. Nhìn quanh chẳng thấy một nơi nào trú ẩn. Gió tạt mưa vào mặt, quần thì dính chặt vào chân. Bạn lạnh cóng và cảm thấy đau khổ, bạn bực tức vì đã bất cẩn và đánh mất quá nhiều thời gian. Bây giờ thì bạn không có lựa chọn nào khác là tiếp tục lê bước bất kể mưa, lạnh và trời thì đang tối dần.

Bất ngờ, bạn tìm thấy một mái che. Bạn chui vào trong. Ở đây không có gió thổi, nền đất thì khô ráo, bạn mở phích nước ra, nhấp những ngụm trà nóng, và cảm nhận hơi ấm đang lan tỏa khắp cơ thể. Bạn cảm thấy nhẹ nhõm, thư thái và dễ chịu. Sau đó bạn nhớ ra rằng mình vẫn phải quay về, và quần áo thì vẫn ướt, vẫn dính bết vào người. Nhưng chẳng lẽ bạn không cảm thấy cái gì giống như hạnh phúc sao? Hoặc có lẽ thậm chí là hạnh phúc và bất hạnh song hành cùng nhau?

Thực vậy, trong những khoảnh khắc đó, rất nhiều loại cảm giác quay cuồng trong đầu bạn, một số dễ chịu, số khác khó chịu, và tất cả cùng tồn tại. Những cảm giác tiêu cực không hề loại bỏ những cảm giác tích cực.

Chúng ta thường xuyên trải nghiệm trạng thái mâu thuẫn này, nhưng thường thì chúng ta không ý thức được những sắc thái tinh tế của nó. Nếu bạn mong chờ một khoản thưởng 500 đô la một tháng cho thành tích làm việc xuất sắc nhưng rồi chỉ nhận được có 250 đô la, bạn thấy buồn bực vì cảm thấy những cố gắng của bạn đã không được công nhận, nhưng cũng tại thời điểm đó, bạn hài lòng về khoản thu nhập thêm này. Cảm giác tích cực này hòa trộn với nỗi tức giận, một cảm giác tiêu cực. Tất cả chúng ta đều biết rằng đôi khi cảm giác thích thú là do nỗi sợ hãi mang lại, như những phản ứng hãi hùng rất dễ chịu khi xem một bộ phim kinh dị. Vừa yêu vừa ghét - như rất nhiều cặp đôi trẻ đã trải nghiệm, dù chỉ trong khoảnh khắc ngắn - không phải chỉ là một cách nói.

Dường như ở đây chúng ta đang đối mặt với một nghịch lý, nhưng đó chỉ là cái nhìn thoáng qua ban đầu. Dường như đương nhiên rằng khi ai đấy kêu rằng mình bất hạnh thì người ấy không thể hạnh phúc được. Nhưng thế thì cái gì có nghĩa là “hạnh phúc” và “bất hạnh” đây? Những cảm giác như vậy hầu như luôn có thể được nhận diện một cách chính xác hơn nhiều, và điều dường như là một mâu thuẫn khó hiểu lại trở nên có thể hiểu được khi ta coi cảm giác tích cực là sự thích thú còn cảm giác tiêu cực là sự tức giận, vì hai loại này hoàn toàn có thể song hành tồn tại.

Để hiểu rõ hơn loại mâu thuẫn này, chúng ta nên coi nó như một kiểu nhận thức cảm giác. Chúng ta đều biết rằng một số vị và mùi có vẻ như chỏi nhau lại có thể dung hòa được với nhau ra sao. Thực tế, sự hấp dẫn của món ăn hóa ra thường do sự có vẻ như mâu thuẫn về mùi vị này đem lại: sô cô la ngọt đắng và món thịt lợn chua ngọt của Trung Quốc là những ví dụ. Theo như vua đầu bếp Pháp Brillat-Savarin thì sắc thái của mùi vị là không giới hạn.

Công việc bếp núc sẽ tẻ nhạt đi bao nhiêu nếu bị giới hạn trong năm thành tố cơ bản của vị - ngọt, chua, đắng, mặn, ngọt lợ (umami) - trong dạng thuần khiết của chúng! Vậy cho nên, nghệ thuật sống với những cảm giác phức tạp hơn của cuộc sống nằm ở khả năng nhìn thấy hạnh phúc và bất hạnh hòa trộn vào nhau của chúng ta.

Mạch thần kinh của vui sướng và đau khổ

Vui sướng và đau khổ không triệt tiêu lẫn nhau. Cơ thể của ta không chứa một cái máy phát ra những cảm giác khó chịu với cường độ lúc cao lúc thấp, và tắt ngấm hoàn toàn trong những khoảnh khắc các cảm giác vui sướng nhất xuất hiện. Đúng hơn, bộ não có những hệ thống khác nhau dành cho cảm giác dễ chịu và cảm giác khó chịu, những hệ thống này có thể làm việc cùng nhau, độc lập và đối lập với nhau.

Thậm chí “ngôn ngữ của hóa học thần kinh cũng sử dụng các dấu hiệu khác nhau để thể hiện những cảm giác vui sướng và khó chịu. Những chất truyền dẫn như dopamine, oxytocin và beta-endorphine 10 đều đóng vai trò quan trọng trong sự ham muốn, thỏa mãn hay hấp dẫn giới tính. Mặt khác thì sợ hãi, căng thẳng và đau buồn được kiểm soát bởi những chất khác như acetylcholin và cortisol 11 , một hoóc môn gây căng thẳng.

Sự thực là, ham muốn và khiếp sợ sinh ra khác nhau trong não bộ và có thể quan sát thấy được. Bức ảnh mà Damasio chụp bộ não của một người vừa hạnh phúc vừa buồn khổ cho ta thấy rằng có các mạch thần kinh khác nhau dành cho cảm giác dễ chịu và khó chịu. Và những trung tâm nhất định trong não bộ luôn hoạt động, dù ở những cấp độ khác nhau. Đây không phải điều gì gây ngạc nhiên đặc biệt, bởi vì não bộ phải điều chỉnh các trạng thái của cơ thể khi chúng ta đang cảm thấy hạnh phúc, buồn đau, sợ hãi hoặc tức giận.

Nhưng, tùy thuộc vào loại cảm giác cụ thể, các khu vực não bộ nói trên có thể bước vào hoạt động một cách rất khác nhau. Nếu hạnh phúc và bất hạnh đối lập nhau thì các vùng não bộ nào sáng lên trong những khoảnh khắc hạnh phúc sẽ mờ đi tương ứng khi tinh thần xuống thấp và ngược lại. Nhưng thực tế lại không như vậy. Những hình ảnh của não bộ lúc hạnh phúc hay bất hạnh đều không thể hiện mô hình đối lập dưới bất kỳ hình thức nào. Ở hình trang 40, các khu vực có màu tối nhạt hơn tương ứng với hoạt động ở mức thấp, các khu vực màu tối đậm hơn tương ứng với hoạt động ở mức cao. Ví dụ, chỉ nửa phần bên trái tiểu não là đang hoạt động trong khoảnh khắc hạnh phúc, nhưng khi một người thấy buồn, tức giận hay sợ hãi thì cả hai nửa đều hoạt động mạnh. Hồi đai (cingulate gyrus) với cấu trúc hình vòm phía mặt dưới đại não sáng rực lên ở bên phải phía trước tại thời khắc hạnh phúc và chuyển màu tối ở bên trái phía sau, trong khi đó lúc buồn thì sáng ở cả hai phía trước và tối cả hai phía sau.

Khi chúng ta trải nghiệm một cảm giác, thì luôn luôn có nhiều phần khác nhau của não bộ cùng hoạt động, điều này có thể xem được qua ảnh chụp não. Không có một trung tâm xử lý nào dành riêng cho niềm vui hay cho nỗi buồn. Não bộ không làm việc đơn giản như thế. Việc tạo ra cảm xúc trong bộ não có thể so sánh với những vị trí chơi bóng trong bóng đá. Mọi thành viên trong đội đều cần thiết, song không ai có thể quyết định cuộc chơi một mình, cũng như một trung tâm não bộ đơn lẻ không thể tạo ra được cảm xúc nếu chỉ dựa vào chính nó. Và hệ mạch ở giữa các vùng của não cũng thay đổi khác nhau theo mỗi loại cảm xúc, giống như đội bóng trên sân di chuyển khác nhau tùy thuộc vào tình huống cụ thể của cuộc chơi. Vị trí thành viên đội bóng khi đá phạt góc bố trí khác với khi sút phạt trực tiếp. Trong một trận chơi thiên về tấn công thì tiền đạo quan trọng hơn hậu vệ, mặc dù thế trận vẫn dựa vào hậu vệ và tiền vệ. Cuối cùng, cá nhân mỗi cầu thủ đều không quan trọng bằng việc phối hợp nhịp nhàng trong toàn đội.

Bất hạnh bên phải, hạnh phúc bên trái

Thường thì hai phần của vỏ não dường như được phân chia chức năng rõ ràng, mặc dù không phải theo cách như báo chí truyền hình hay nói. Nó không phải như kiểu một nửa của não bộ cảm nhận, nửa còn lại suy nghĩ và phân tích các tình huống khó khăn. Đúng hơn, cả hai nửa của não bộ đều xử lý cảm xúc, mặc dù phần bên phải có xu hướng hoạt

động mạnh hơn với những cảm giác tiêu cực, còn phần bên trái sẽ hoạt động mạnh hơn với cảm giác tích cực. Sự khác biệt này có thể nhận ra rõ ràng nhất ở mặt bên của não, ví dụ khi ta so sánh những hình ảnh chụp khoảnh khắc hạnh phúc với hình ảnh chụp khi đối tượng đang sợ hãi. Dường như là nửa bộ não của ta điều khiển hạnh phúc, nửa còn lại kiểm soát bất hạnh.(1)

Thêm dẫn chứng mới: cuộc sống cảm xúc của ta sẽ đảo lộn nếu như một nửa não bộ của ta bị hỏng. Ví dụ, bệnh nhân đột quỵ đôi khi cư xử rất kỳ lạ. Những người có thùy trước trán bị ảnh hưởng thì thường xuyên chìm đắm trong trạng thái trầm cảm nặng nề; rõ ràng hệ thống tinh chỉnh các cảm giác tích cực đã bị hỏng. Mặt khác, chỉ một cục máu đọng trong thùy trước trán cũng có thể gây tác động ngược lại, đẩy bệnh nhân vào trạng thái hưng phấn suốt đời. Điều này không hẳn là tồi tệ nếu như cảm giác về thực tại của họ không bị mất nốt, dẫn đến việc họ mất khả năng nhìn thấy bất cứ điều gì có thể làm suy giảm niềm tin của họ rằng đây là thứ tốt nhất trên thế giới rồi.

Thậm chí họ phủ nhận cả tình trạng bệnh tật của mình. Nhà thần kinh học người Mỹ gốc Ấn Ramachandran lấy ví dụ một bệnh nhân, bà Dodds, đang chịu chứng liệt nửa người sau khi bị một cơn đột quỵ bên não phải.” (Các mối liên kết giữa hai nửa cơ thể và não bộ là kiểu kết nối chéo nhau). Không những bà không muốn nghe bất kỳ điều gì liên quan đến chứng bại liệt, bà còn thực sự không hề biết gì về nó. Khi Ramachandran hỏi bà vỗ tay được không, bà ta trả lời,“Tất nhiên rồi”, sau đó là chuyển động tay phải trong không khí và tuyên bố rất nghiêm túc rằng mình đã vỗ tay rồi. Rõ ràng là não bộ của bà đã mất đi sự đối trọng lẽ ra phải chặn được cái ý niệm tích cực quá mạnh của não trái và kéo bà trở về với thế giới thực.

Một phát hiện của phòng thí nghiệm Damasio cho thấy những phần nhất định của não bộ phản ứng lại với hạnh phúc hay bất hạnh một cách chính xác ra sao. Một số tế bào thần kinh đặc biệt trong phần bên phải của thùy trước trán chỉ phản ứng với những điều bất hạnh. Những tế bào não xử lý bất hạnh này phản ứng nhanh hơn nhiều So với khả năng của ý chí hữu thức và quyết định trong vài phần trăm giây xem một tình huống là tốt hay xấu.(3)

Khi một người vốn sợ nói trước công chúng bị chứng sợ sân khấu làm cho tê liệt trong khi chờ đến lượt mình phát biểu, phần thùy trước trán của anh ta thực tế cũng đang lộn tùng phèo rồi.” Thậm chí trẻ sơ sinh cũng phản ứng với axit chua gắt trong nước chanh với những sóng não hoạt động mạnh bên não phải. Nhưng khi chúng được uống nước ngọt thì phần não trái lại hoạt động mạnh. 5) Vì vậy, dường như có khả năng cao là chúng ta được sinh ra với não trái chịu trách nhiệm chính cho việc tạo ra cảm giác tích cực, còn cảm giác tiêu cực chủ yếu là do não phải kiểm soát. 6)

Việc những cảm giác dễ chịu hay khó chịu đó được phân chia không đồng đều giữa hai nửa bán cầu não có liên quan đến cách thùy trước trán xử lý dữ liệu. Phần não bộ này hoạt động như trung tâm chỉ huy hành vi, và như chúng ta đã biết, cảm xúc đóng một vai trò quan trọng trong việc truyền mệnh lệnh đến hành vi: cảm giác tích cực nói cho ta biết nên làm gì, trong khi cảm giác tiêu cực nói không nên làm gì. Bộ não được chỉ dẫn bởi cả những khuynh hướng bẩm sinh - ví dụ, ta không thích loại thức ăn quá chua - và bởi kho trải nghiệm.

Đây là lý do tại sao cả hai nửa thùy trước trán, nơi trí nhớ cư trú, thường xuyên kiểm duyệt mọi thứ trải nghiệm tùy theo mức độ hữu ích của chúng cho cơ thể. Theo cách này một cơ sở dữ liệu được tạo ra để lưu trữ những điều ta thích và những điều ta không thích. Tổ chức một khối lượng thông tin lớn như vậy và triệu hồi thông tin từ trí nhớ là cả một công việc khổng lồ - thùy trước trán làm cho việc này trở nên dễ dàng hơn bằng cách phân chia trách nhiệm. Nửa phải chịu trách nhiệm cho những vấn đề khó chịu trong cuộc sống, trong khi nửa trái giải quyết những việc dễ chịu hơn.

Các tế bào xám của não trái xử lý kỳ nghỉ sắp tới của ta, còn vé phạt vi phạm tốc độ do những tế bào thần kinh não phải lo. Thời điểm xuất hiện nụ cười đích thực, như Paul Ekman phát hiện ra, cũng trùng với cường độ hoạt động mạnh của nửa bên trái thùy trước trán. (8)

Cặp đôi kỳ dị

Cả hạnh phúc lẫn bất hạnh đều có mạch thần kinh và hệ hóa học riêng của nó. Nhưng điều này không có nghĩa là cảm xúc khó chịu và dễ chịu độc lập với nhau. Dù chúng ta có thể vừa buồn vừa vui, nhưng thường thì chỉ là một trong hai. Các hệ não bộ dành cho cảm giác tích cực và tiêu cực được phối hợp chặt chẽ đến nỗi cảm giác tích cực có thể chặn được cảm giác tiêu cực và ngược lại. Bực tức về một điều gì đấy mà bọn trẻ gây ra buổi tối có thể phá hỏng cảm giác thỏa mãn do một ngày làm việc hiệu quả đem lại.

Và chỉ một chút vui vẻ cũng có thể xua tan được những cơn buồn chán - như ta có thể thấy trên gương mặt cư dân thành phố khi mặt trời rốt cuộc cũng rọi những tia nắng đầu tiên sau chuỗi ngày mưa triền miên.

Trong não bộ, những cảm xúc mâu thuẫn luôn luôn đối mặt với nhau, một nguyên lý được thực hiện trong từng tế bào thần kinh. Bạn có 100 triệu khớp thần kinh nhỏ này trong não, nhiều hơn tổng các sao trong toàn dải Ngân Hà. Mỗi một tế bào thần kinh đều tiếp xúc với những tế bào thần kinh khác, một vài trong số chúng đưa ra tín hiệu để kích hoạt các hoạt động của tế bào, số khác tạo ra các xung động ức chế, gây ra một cuộc đua sức mạnh giữa các kích thích. Cũng như một chiếc máy vi tính nhỏ, tế bào thần kinh rút ra kết luận cho mình từ các tín hiệu trái ngược rồi đến lượt mình liên lạc với các tế bào khác.

Mối tương tác của “cặp đôi kỳ dị” này không chỉ xảy ra ở cấp độ hiển vi. Hầu hết các quá trình trong não bộ đều được quyết định bởi sự tác động lẫn nhau của hai kẻ chơi đối lập, và mạng thần kinh cảm xúc cũng hoạt động tương tự. Cảm giác tích cực có thể loại bỏ cảm giác tiêu cực và ngược lại.

Bánh sừng bò chống lại sự căng thẳng

Nguyên tắc hai kẻ chơi đối nghịch cho chúng ta một đòn bẩy kép để chi phối tâm trạng ta. Montaigne 12 , một quý tộc Pháp thích triết lý, đã rất đúng khi bắt đầu các bài luận của ông về cách sống khôn ngoan với lời đề từ “Par pers moyens on arrive à pareille fin”, nghĩa là “Bằng những phương tiện khác nhau, chúng ta đến cùng một đích”. Và những người biết cách kết hợp nhiều phương tiện sẽ gặt hái được thành công lớn lao nhất. Hiểu được hệ thống phản hồi của trí não sẽ giúp ta có khả năng này.

Bị kẹt xe trên đường đi làm mỗi buổi sáng là một sự đau khổ nỗi sợ bị nhốt lâu trong xe, tiếng ồn động cơ xung quanh, lo lắng bị lỡ buổi hẹn, và tệ nhất là trải nghiệm bị kẹt trong một chuỗi xe nối đuôi nhau, cản xóc chiếc này sát sạt vào cản Xóc chiếc kia - tất cả điều này tạo ra một phản ứng sinh học để thoát ra, hoặc để chiến đấu, và phản ứng tự động của cơ thể là một kiểu căng thẳng. Sau đó là tức giận, sốt ruột, kích động không mục đích, và kiệt sức, khi cuối cùng chúng ta đến được đích.

Đương nhiên, thuốc giải dễ dàng nhất cho nỗi đau khổ này là tránh hoàn toàn các vụ kẹt xe hằng ngày. Nhưng thường điều này là không thể. Tuy nhiên, nếu hiểu biết về cảm xúc, ta lại có những lựa chọn khác, dùng những phương tiện đơn giản để nâng cao tinh thần, bất chấp sự căng thẳng.

Trước tiên, chúng ta có thể cố gắng thoát khỏi các cảm giác tiêu cực ngay lập tức bằng cách sử dụng thời gian trên xe để nghe đài, hay học ngoại ngữ, do đó làm dịu cảm giác bất lực khi đối mặt với một hoàn cảnh khó chịu. Hoặc chúng ta có thể cố gắng đánh thức những cảm giác tích cực. Ví dụ chúng ta có thể tạo thói quen uống một cốc cà phê cappuccino và ăn một cái bánh sừng bò có bơ trước khi làm việc, thay vì vùi đầu ngay vào nhiệm vụ của một ngày mới. Việc thấy trước hành động sắp xảy ra này sẽ nâng tinh thần ta khi kẹt trong xe, vì khi chúng ta đang mong chờ điều gì đó thích thú, não bộ tiết ra những chất truyền dẫn cho phép ta trải nghiệm cảm giác dễ chịu. Và bởi vì các hệ thống phản hồi niềm vui và căng thẳng được kết nối với nhau, nên sự mong ngóng niềm vui có thể trực tiếp hóa giải được điều đang làm chúng ta buồn bực (9)

Chúng ta sẽ học những cách khác để sử dụng các chức năng sinh lý thần kinh của não bộ nhằm đem lại cảm giác hạnh phúc lớn hơn. Rất nhiều cách trong các cách đó, như ví dụ đơn giản về người lái xe bị tắc đường, bắt nguồn từ hai điều chúng ta đã biết. Thứ nhất, thường thì ta có nhiều lựa chọn hơn ta nghĩ để cải thiện nhận thức của ta về tình huống - ngay cả khi ta không thể trực tiếp tác động đến tình huống đó. Thứ hai, ta có thể học cách ngăn cảm giác tiêu cực lại bằng những trải nghiệm tích cực.

Kể từ thời Hy Lạp cổ đại, các triết gia đã luôn trăn trở với câu hỏi, con đường đi đến hạnh phúc nằm ở việc tối đa hóa niềm vui hay ở việc hạn chế tối thiểu nỗi buồn.(10) Bây giờ ta đã biết rằng chọn một trong hai đều sai lầm. Chúng ta có thể làm cả hai cách.

Công tắc ngắt phiền toái và giận dữ

Vui sướng và đau khổ là hai địch thủ vĩnh viễn. Hai nửa của thùy trước trận luôn cạnh tranh nhau không ngừng để chiếm đoạt tâm trí ta. Bán cầu não trái có thể khuyến khích các cảm giác tích cực, hẳn bằng cách tiết chế những vùng não bộ được gắn sâu hơn trong sọ não, có lẽ thông qua một dây thần kinh đi từ thùy trước trận đến hạch hạnh (amygdala). Những trung tâm thần kinh hình hạnh nhân nằm dưới vỏ não này có thể gây ra sợ hãi, tức giận và căm ghét. Chúng ta vẫn chưa biết chính xác bằng cách nào mà phần trái của thùy trước trán chống lại những cảm xúc này, nhưng hầu hết các nhà tâm lý học thần kinh đều cho rằng nó gửi các xung động ức chế đến hạch hạnh. Tự nhiên có thể tạo ra những tín hiệu kiểu như một cuộc gọi lại để thông báo rằng cảm xúc tiêu cực, cuộc gọi cảnh báo, đã xuất hiện ở thùy trước trán và không còn cần thiết nữa. Cơ thể và trí não có thể trở lại trạng thái nghỉ ngơi.

Cho nên, chúng ta dường như có một công tắc ngắt tự nhiên đối với các cảm giác tiêu cực. Và, với đôi chút luyện tập, chúng ta có thể khởi động công tắc này một cách có thức (11)

Nhà tâm lý học thần kinh Richard Davidson ở Đại học Wisconsin-Madison đã làm việc trong nhiều năm để làm sáng tỏ vấn đề này. Ông và các cộng sự đã cho đối tượng thí nghiệm xem một loạt ảnh gây cảm xúc như ảnh phụ nữ và đàn ông khỏa thân khêu gợi, song cũng có ảnh bệnh nhân đang bị phẫu thuật tim, người đứng trên mái nhà xung quanh lũ lụt bủa vây, hay ảnh nạn nhân tai nạn ô tô. Sau đó các nhà khoa học bảo đối tượng thí nghiệm hãy chủ động tăng hay giảm cường độ cảm giác của họ.

Để tìm hiểu xem mình thành công đến đâu, ông gây một tiếng động lớn và bất ngờ ngay sau đó. Các đối tượng thí nghiệm vẫn còn bị bối rối bởi các bức ảnh liền phản ứng thậm chí còn mạnh hơn trước, còn mắt họ thì tự nhiên có rúm lại - một biểu hiện chắc chắn của nỗi sợ hãi.

Trong khi đó, các đối tượng thí nghiệm đã được gắn

128 điện cực vào đầu để đo các hoạt động của thùy trước trán. Nửa trái của não càng hoạt động mạnh thì đối tượng càng ít bị bối rối. Ngay sau khi họ xem những bức ảnh gây sợ hãi, ông làm họ giật mình bằng tiếng động, nhưng chỉ sau một giây họ đã hiểu rằng cảnh sợ hãi đấy chỉ là những bức ảnh và không việc gì phải kinh động lên. Cảm xúc đã biến mất. Và khi Davidson lặp lại tín hiệu, họ không có phản ứng gì.

Nhưng đối tượng nào có thùy trước trán hoạt động đặc biệt mạnh ở phía bên phải thì phản ứng khác hẳn. Sau khi xem một bức ảnh ảm đạm, họ bị âm thanh chói tai kia gây khó chịu thêm vài giây nữa. Mi mắt họ chớp dữ dội. Rõ ràng họ không thể làm dịu được nỗi đau khổ của mình. Một số tiếp tục cảm thấy đau đớn bởi các bức ảnh và bắt đầu khóc lóc (12)

Kiểm soát cảm xúc ở đây thường là chuyện chỉ diễn ra trong vòng vài phần mười giây. Nếu trong khoảng thời gian ngắn ngủi này đối tượng không thể nhận ra rằng cảm giác sợ hãi hay buồn đau là không thích đáng, thì các cảm giác tiêu cực cứ tiếp tục phát triển không thể dừng lại được, như tuyết bắt đầu lở. Bị sức mạnh cảm giác của chính mình lấn át, một người như thế phải vất vả hơn nhiều mới tự trấn tĩnh được mà quay lại trạng thái minh mẫn.

Xả cơn giận không ích gì

Việc giải phóng cảm xúc một cách đơn giản là một cơ chế có thể khiến chúng ta gặp nhiều khó khăn trong vô số tình huống hằng ngày. Nếu, ví dụ như, chúng ta dập máy kết thúc một cuộc điện thoại trong tâm trạng thất vọng, hoặc nếu chúng ta đóng sầm cửa lại bỏ đi ngay khi người đối diện đưa ra một nhận xét vô tâm, ấy là chúng ta không chỉ giày vò mình bằng cách bỏ lại đằng sau cái có thể chẳng qua chỉ là một hiểu lầm chưa được giải quyết, mà chúng ta còn kéo dài cảm giác tiêu cực lâu hơn cần thiết. Và giờ đây chúng ta đang thực sự bị cơn giận hành hạ.

Nhưng thí nghiệm của Davidson cho thấy, rõ ràng ta có thể kiểm soát được những cảm xúc tiêu cực ngay khi nó xuất hiện. Điều này chỉ xảy ra nếu chúng ta ý thức được tức thì cảm giác của mình, và gạt chúng sang một bên để tiếp tục cuộc sống. Đối với một số người điều này giống như thách thức dành cho siêu nhân, nhưng chúng ta có thể học cách để làm được vậy.

Ý tưởng rằng chúng ta nên kiểm soát cảm giác của mình mâu thuẫn với một niềm tin phổ biến rộng rãi hơn nhiều của tâm lý học. Nhiều người tin rằng họ sẽ thoát khỏi cơn giận dữ nếu xả nó ra, rằng nước mắt sẽ giải tỏa được nỗi đau. Điều này dựa vào một quan niệm tai hại đã được chứng minh là hoàn toàn sai lầm. Nó xuất phát từ kiến thức về cảm xúc thế kỷ 19, và sai cũng như quan niệm về trái đất phẳng vậy. Nó xem bộ não như một cái ấm đun nước mà cảm giác tiêu cực tạo nên áp suất bên trong. Để tránh phản ứng thái quá gây nguy hiểm, kiểu “tức nước vỡ bờ - lý thuyết này bảo vậy - những cảm giác này phải được xả ra. “Nào, hãy cứ khóc to lên và tống khứ nó ra”, một người bạn chân tình thường khuyên nhủ bạn mình như thế.

Tất nhiên, cũng không thể phủ nhận tác dụng việc nói ra trải nghiệm của mình và chia sẻ cảm giác với ai đó thân thiết. Như một câu thành ngữ, có người tâm tình thì

“niềm vui nhân đôi, nỗi buồn xẻ nửa”. Còn đẩy mình chìm đắm trong hố sâu những cảm giác tiêu cực thì không giúp gì được. Chưa từng có nhà tâm lý học nào chứng minh được hiệu quả xoa dịu của những chiếc van kìm giữ nước mắt và giận dữ được cho là an toàn. Ngược lại, cách đây hơn bốn mươi năm, các nghiên cứu được kiểm nghiệm đã chỉ ra rằng những cơn giận có khả năng càng đổ thêm dầu vào lửa, và nước mắt càng dìm chúng ta sâu hơn vào phiền muộn.(13) Đầu ta không đơn giản như cái ấm đun nước, não ta gồm những hệ thống phức tạp hơn nhiều so với cái được thấy qua những bức ảnh chụp bởi Công nghệ thế kỷ 19.

Tính khí vui vẻ

Kiểm soát được những cảm xúc tiêu cực là một trong những bí quyết của hạnh phúc. Cách chúng ta phản ứng lại những điều khó chịu liên quan mật thiết với trạng thái tinh thần khỏe mạnh tổng thể của ta. Khi Davidson khảo sát trạng thái tâm lý của đối tượng thí nghiệm, ông phát hiện ra rằng sự chiếm ưu thế vượt trội của phần bên trái hay phần bên phải trong thùy trước trán cũng được phản ảnh trong cuộc sống hằng ngày. Những người có não phải hoạt động mạnh hơn, ít kiểm soát cảm xúc tiêu cực hơn thường có xu hướng sống nội tâm, bi quan và hay nghi ngờ. Họ hay trầm trọng hóa những vấn đề nhỏ, có tỉ lệ mắc bệnh trầm cảm tương đối cao và nói chung có xu hướng bất hạnh.

Ngược lại, những người có thùy trước trán bên trái hoạt động mạnh hơn thường tỏ ra vui vẻ, hướng ngoại. Họ luôn tự tin, lạc quan, tinh thần phấn chấn. Họ thấy dễ dàng gần gũi mọi người và dường như được sinh ra với khả năng luôn nhìn thấy phía tươi đẹp của cuộc sống.

Trong một thí nghiệm, Davidson đã lọc những cảnh từ cả phim vui lẫn phim gây căng thẳng, ví dụ như phim về lũ khỉ con chơi trong bồn tắm, hay một ca phẫu thuật khó khăn. Phản ứng của đối tượng thí nghiệm phụ thuộc vào ưu thế tương đối của não trái hay phải. Những người có não phải hoạt động mạnh hơn phản ứng với những phim khó chịu với nhiều ác cảm hơn và sợ hãi hơn những người thiên về não trái, trong khi những đối tượng thiên về não trái lại cười nhiều hơn và vui thích hơn khi xem những đoạn phim vui vẻ.(14) Vậy dường như não bộ của ta được tính cách hóa bằng một tâm trạng chiếm ưu thế, nó quyết định việc chúng ta phản ứng mạnh hay yếu đối với các kích thích khác nhau. Tùy vào tính khí, ta sẽ sống trong thế giới cơ bản là màu hồng hay màu xám.

Những khuynh hướng tâm trạng này không những ảnh hưởng trí não mà còn cả thể trạng. Davidson quan sát thấy những người có não trái chiếm ưu thế thường đề kháng bệnh tật tốt hơn. Họ có nhiều tế bào đề kháng trong máu hơn để tiêu diệt các vi rút và vi khuẩn. Các nhà khoa học đã chứng minh sự tác động của khuynh hướng cảm xúc đối với hệ thống miễn dịch bằng cách tiêm một lượng nhỏ vi rút cúm vào đối tượng thí nghiệm. Người có não trái tập trung càng nhiều hoạt động mạnh thì càng phản ứng tốt hơn với sự miễn dịch (để xác định vài tuần sau đó bởi số lượng kháng thể trong hệ thống miễn dịch của họ).(15)

Chúng ta vẫn chưa hoàn toàn hiểu được hết những mối quan hệ này, nhưng có lẽ sự kiểm soát cảm giác hữu hiệu tạo ra một loại phản ứng dây chuyền. Những người có thùy trước trán bên trái hoạt động mạnh hơn thì ít thiên về những cảm xúc tiêu cực, nếu có cũng không kéo dài, nên cơ thể của họ ít sản sinh ra hoóc môn gây căng thẳng hơn. Và chúng ta biết rằng, hoóc môn gây căng thẳng như cortisol trong một thời gian đủ dài có thể làm hệ thống miễn dịch yếu đi.

Davidson cho rằng khi chúng ta kiểm soát những cảm giác tiêu cực, đấy là chúng ta đang tăng hoạt động của nửa trái thùy trước trán. Những người cố gắng làm điều này không những sống hạnh phúc hơn mà còn đang làm lợi cho sức khỏe của mình.

Liệu có gien hạnh phúc?

Davidson ước tính rằng, tỉ lệ người thiên về hạnh phúc, bất hạnh và trung tính ít nhiều ngang nhau, phát hiện này đã được khẳng định bằng nhiều cuộc khảo sát khác. Khoảng một phần ba số đối tượng trong nghiên cứu của ông có hoạt động mạnh ở phần bên trái thùy trước trán, trong khi đó, một phần ba thiên về bên phải, một phần ba còn lại trung tính. Làm lại khảo sát vài tháng sau đều cho kết quả tương tự. Việc bên nào của thùy trước trận chiếm ưu thế hơn không phụ thuộc vào tình huống tại bất kỳ thời điểm cụ thể nào, mà là một hình vẻ của tính cách ta.

Tình trạng mất cân bằng giữa hai nửa bán cầu não này còn được chứng minh là tồn tại ở cả những đứa bé chưa đầy tuổi. Davidson nghiên cứu những đứa bé mười tháng tuổi và cũng quan sát thấy ở chúng mối quan hệ trực tiếp giữa ưu thế của bán cầu não và tính khí của đứa bé. Những bé mà não phải hoạt động mạnh hơn thì khóc tức thì ngay khi mẹ chúng vắng mặt, và dễ bị lo lắng bứt rứt hơn. Còn những bé mà não trái chiếm ưu thế thì khóc nhè ít hơn, và khi bị bỏ lại một mình, chúng có vẻ hào hứng bò đi khám phá khắp căn phòng (16)

Khuynh hướng cảm xúc tiêu cực hay tích cực này từ đâu ra? Bởi vì nó xuất hiện rất sớm trong đời, nên dường như các khuynh hướng hoạt động của não ít nhất cũng có phần là bẩm sinh. Vậy, hạnh phúc có di truyền không? Hay có gien hạnh phúc không?

11 (17) Chưa có ai phát triển ý tưởng về tính di truyền của hạnh phúc một cách đầy đủ như David Lykken, giáo sư tâm lý danh dự của Đại học Minnesota, người đã từng viết, “Việc cố gắng sao cho hạnh phúc hơn cũng vô ích không kém việc cố gắng tăng chiều cao... Công trình của Lykken đặt cơ sở trên nghiên cứu so sánh sâu rộng nhất từng được tiến hành trên các cặp song sinh. Ông đã thực hiện một cuộc khảo sát điều tra xem 1.500 cặp sinh đội trưởng thành hài lòng đến mức độ nào đối với cuộc sống của mình. 700 cặp trong số đó là sinh đôi cùng trứng, nghĩa là vật liệu di truyền của họ giống hệt nhau. Dù người này không biết câu trả lời của người kia, những người anh em sinh đôi cùng trứng thường trả lời giống nhau hơn nhiều so với những cặp anh em sinh đôi khác trứng (bộ gien khác nhau). Đối với Lykken, đây là bằng chứng cho thấy rằng hạnh phúc có thể bị ảnh hưởng bởi di truyền.

Sau đó, ông tiến hành nghiên cứu sâu hơn. Trong kho dữ liệu ông có về các cặp song sinh - tất cả họ đều Minnesota - có 69 cặp song sinh cùng trứng bị tách ra ngay sau khi sinh và được nuôi dưỡng trong những gia đình khác nhau. Liệu họ cũng trả lời câu hỏi về hạnh phúc giống nhau? Nếu đúng vậy, thì hạnh phúc khó có thể là kết quả của giáo dục và hoàn cảnh sống.

Thực tế, câu trả lời của các cặp đôi này cũng gần tương tự như các cặp đôi được lớn lên cùng nhau, từ đó Lykken đi đến kết luận, trạng thái vui vẻ và hạnh phúc ít nhất 50% là do di truyền.(18) Các phương tiện truyền thông của Mỹ và châu Âu, vốn bị mê hoặc bởi những cơ hội mới trong nghiên cứu gien đem lại, đã nồng nhiệt nắm ngay lấy thông tin này. Điển hình của những phản ứng này là một bức tranh biếm họa xuất hiện trong một ấn bản năm 1996 của tờ The New Yorker, ngay sau khi Lykken công bố Công trình của mình. Nó miêu tả một người đàn ông trung niên đứng trước chiếc xe Rolls-Royce và một lâu đài có vườn tược xinh đẹp bao quanh, phàn nàn rằng, “Tôi phát khóc khi nghĩ đến những năm tháng phung phí để tích lũy của cải, chỉ để hiểu ra rằng tính khí vui vẻ của tôi là do di truyền.”

Chúng ta phải nghĩ về điều này như thế nào? Ngoài mối quan hệ đáng ngờ giữa tiền bạc và hạnh phúc, thì chắc chắn gien của ta có ảnh hưởng đến tính cách và theo đó, hướng ta theo chiều vui vẻ hay buồn bã. Điều này đã được chỉ ra một cách thuyết phục, ví dụ như, bệnh trầm cảm ít nhất một phần có nguồn gốc từ gien. Những người có người thân trực hệ bị trầm cảm có nguy cơ bị mắc bệnh trầm cảm cao gấp bốn lần so với người không kế thừa di truyền gian này. Nhiều loại bệnh tâm thần như tâm thần phân liệt cũng tương tự. Với các loại bệnh mà Lykken đã khảo sát, rõ ràng di truyền tác động vào khả năng hạnh phúc của mọi người. Và vì gien ảnh hưởng đến nguyên nhân gây bệnh và quá trình của bệnh tật, nên chúng có thể mang lại bất hạnh cho ta.

Gien không phải là định mệnh

Nhưng sẽ là quá võ đoán nếu ngoại suy từ những trường hợp cực đoan như vậy ra toàn xã hội, vì gien không hoạt động như một chương trình máy tính luôn làm các việc giống hệt nhau. Sự ảnh hưởng của một gien cụ thể đối với cơ thể phụ thuộc phần lớn vào những tương tác của nó với thế giới bên ngoài. Và không có phần nào của cơ thể mà những kích thích của môi trường lại ảnh hưởng đến chức năng của gien nhiều như ở trong não bộ và hệ thần kinh, những phần cơ thể này, phân tích đến kỳ cùng, sẽ quyết định hạnh phúc hay bất hạnh.

Michael Meaney, nhà sinh học thần kinh của Đại học McGill, đã chứng minh được tầm quan trọng cốt tủy của thời kỳ ấu thơ đối với khả năng của những con chuột, ví dụ như khả năng đối phó với các tình huống khó khăn khi chúng trưởng thành. Lũ chuột con được mẹ liếm láp vuốt ve thì sau này sẽ chịu đựng áp lực tốt hơn nhiều so với những con không được mẹ chăm sóc chu đáo. Sự quan tâm mà bọn chuột con nhận được chính là nhân tố cốt yếu, chứ không phải là gian của chúng. Điều này được Meaney chứng minh rõ hơn bằng cách hoán đổi mẹ của những con chuột con. Bây giờ chuột mẹ chu đáo sẽ nuôi con của chuột mẹ cẩu thả, sau này chúng trở thành những con chuột trưởng thành cứng cáp và kiên cường. Còn lũ con của chuột mẹ chu đáo được hoán đổi cho chuột mẹ cẩu thả thì ngược lại, sau này tỏ ra yếu đuối khi chịu đựng áp lực.

Do vậy, gien không phải là định mệnh. Thêm nữa, không như những con chuột, loài người không phải được định hình trong thời thơ ấu một lần là xong. Davidson đã phát hiện ra điều gì đó khi ông phỏng vấn những người mà ông đã đo sóng não khi họ còn bé tí, quay lại phòng thí nghiệm của ông sau mười năm. Những đứa bé hồi ấy nay đã là học sinh, và mô hình sóng não của chúng cho thấy chẳng có mấy liên quan đến các sóng não mười năm trước. Rất nhiều trong số bọn trẻ mà trước đây nửa trái thùy trước trán chiếm ưu thế thì bây giờ lại thể hiện hoạt động mạnh nhất bên nửa phải. Và ngược lại. Điều này cho thấy kinh nghiệm của những năm tháng trải qua đã ảnh hưởng đến tính khí của chúng mạnh thế nào.

Não bộ có thể thay đổi khi con người trưởng thành. Đôi khi nguyên nhân đến từ bên ngoài: những trải nghiệm mới thường thay đổi nhận thức của ta. Nhưng não bộ thì có khả năng làm những thứ thậm chí đáng kinh ngạc hơn nhiều. Nó có thể tái lập trình chính nó.

Sự rèn luyện tâm trí của chính ta có thể giải thích cho hoạt động mạnh nhất của thùy trước trán bên trái mà Richard Davidson đã đo được trong suốt hai thập kỷ nghiên cứu. Đối tượng trong nghiên cứu ấy là một nhà sư Tây Tạng, ông bay đến từ châu Á, và trải qua trên mười nghìn giờ ngồi thiền.