PHẦN 2 ĐAM MÊ ⚝ 5 ⚝ Nguồn gốc từ thế giới động vật
Dù đang sống ở thế kỷ 21, người ta cho rằng chúng ta vẫn bị chi phối bởi những cảm xúc từ Thời kỳ Đồ Đá, và chúng ta thực chất vẫn là những người Neanđéctan đeo cà vạt mà thôi. Một đồng sự om sòm chửi rủa trong văn phòng gọi ta liên tưởng đến một thợ săn đang khua khoắng gậy, sắp xếp bọn đàn ông trong bộ lạc vào vị trí săn bắn, trong khi để lại cho anh ta toàn bộ đám đàn bà.
Tuy nhiên, những ấn tượng như vậy không hoàn toàn đúng. Chắc chắn chúng ta có thừa hưởng phần nào đó những cảm giác và hành vi từ tổ tiên. Nhưng tại sao những di sản này lại chỉ bắt đầu trong Thời kỳ Đồ Đá?
Cảm xúc của ta, dù sao đi nữa, cũng có vẻ cổ xưa hơn nhiều. Có người yêu loài vật nào mà đôi khi lại không nhìn thấy dấu hiệu vui thích, khó chịu, yêu mến và căm ghét nơi con vật mình nuôi? Khi ta vuốt ve một con mèo,nó rên gừ gừ, duỗi mình ra, lim dim mắt, thả lỏng tứ chi, và kiên nhẫn chờ được vuốt ve thêm. Một con chó bị mắng sẽ len lén đi vào góc nhà. Ngay cả những con chim cũng hót líu lo để thu hút sự chú ý, và không phải ngẫu nhiên mà khái niệm “tổ ấm tình yêu” lại đến từ thế giới loài chim. Lũ chim dường như cũng phải chịu đựng cảm giác mất mát người thân như con người. Một con ngỗng xám khi bạn đời của nó bị chết sẽ chấp nhận ở vậy và có những biểu hiện đau khổ kéo dài nhiều năm trời.
Những hình ảnh ấy làm chúng ta xúc động, bởi vì ta nhìn thấy những cảm xúc của chính mình được phản chiếu lại trong các loài điều thú này. Nhưng điều đó cũng không thể dẫn ta kết luận rằng những sinh vật này thực sự có cảm giác như chúng ta. Chúng ta không thể nào đọc được những cái có thể là cảm giác bên trong đầu chúng, và chúng cũng không có ngôn ngữ để mà diễn tả đời sống bên trong. Câu hỏi loài vật có cảm giác không và cảm giác thế nào cho tới nay vẫn chưa được trả lời.
Đương nhiên không thể chối bỏ được rằng, ở vẻ bề ngoài, loài thú cũng biểu cảm giống chúng ta. Chính những hành vi này, chứ không phải những cảm giác chưa biết, là thứ giải thích cho cảm giác của chúng ta rằng ta có mối quan hệ bí mật với chúng. Cảm xúc càng cơ bản và càng mạnh thì tính tương đồng dường như càng cao. Những dấu hiệu sợ hãi mà chúng ta thấy ở mèo, chó, chuột, thậm chí ở chim bồ câu và thằn lằn cũng không khác mấy so với loài người. Nhưng cả sự thể hiện hạnh phúc của thế giới loài vật cũng rất quen thuộc: bọn mèo đang chơi đùa, lũ chuột đang khám phá thế giới, lũ voi quấn vòi lại khi chuẩn bị giao phối. Ta có thể nói rằng, những con vật này đang biểu hiện sự vui thích, sự tò mò hay thậm chí cả tình yêu.
Có thể nào loài vật sợ mà không trải nghiệm cảm giác sợ, yêu mà không cảm thấy yêu? Việc xem lại sự khác biệt giữa cảm xúc và cảm giác ở đây rất hữu ích. Một cảm xúc là một chương trình chạy tự động, thường liên quan đến cơ thể; còn cảm giác là thứ chúng ta trải nghiệm khi ta ý thức
được cảm xúc của mình. Đôi khi chúng ta biểu hiện cảm xúc mà không có cảm giác gì - ví dụ như, khi chúng ta đỏ mặt mà không hề ý thức được cảm giác ngượng ngùng, lúng túng.
Vậy thì, ý thức không phải là một điều kiện tiên quyết cho cảm xúc, cho nên có thể nói rằng những cảm xúc này xuất hiện đơn giản hơn cảm giác. Mặc dù các nhà khoa học không biết động vật có cảm giác không và cảm thấy những gì, nhưng không nghi ngờ gì về việc chúng thực sự có khả năng cảm xúc. Chúng ta cũng biết rằng những cảm xúc ở động vật, vốn tự động xuất hiện khi con vật bị đe dọa, được thưởng bất ngờ hay đang giao phối, đều hoạt động giống như ở loài người.
Do đó, chúng ta có thể kết luận rằng những đặc tính cơ bản của cảm xúc đã xuất hiện rất lâu trước khi có loài người. Chúng là di sản của quá khứ xa lơ xa lắc, chi phối chuyện chúng ta cảm thấy gì và cảm thấy lúc nào, vì những cảm xúc vẫn là tiền đề cho những cảm giác của ta. Thực tế là cảm xúc quyết định cảm giác. Xét cho cùng, ta nhìn thấy một trái táo chỉ khi trái táo đó được nhìn thấy (trừ phi ta bị ảo giác), điều này cũng đúng với những cảm giác như vui sướng và sợ hãi.
Bởi vì cảm xúc là cốt lõi của mọi cảm giác, chúng ta có lý do chính đáng để quan tâm đến nguồn gốc của chúng, và thông qua thế giới động vật, chúng ta có thể nghiên cứu được căn nguyên của những cảm giác phức tạp hơn của mình. Chó, mèo và chuột không thể hiện được những cảm xúc phong phú mà con người có, nhưng điều này chính là vì chúng tuân theo những khuôn mẫu thô sơ hơn, những gì càng thiết yếu thì càng rõ ràng. Qua phản chiếu của thế giới động vật, chúng ta nhận ra mình.
Sự tiến hóa của cảm giác
Trong quá trình tiến hóa, não bộ và cảm xúc phát triển đồng bộ với nhau. Não bộ càng phát triển, càng to ra và càng phức tạp thì cảm xúc cũng càng ngày càng phong phú và khác biệt.
Tại sao tự nhiên lại tốn nhiều công sức để tạo ra những bộ não càng ngày càng có nhiều khả năng hơn? Sẽ thật phí phạm nếu trang bị cho một con sứa - vốn chỉ có mỗi việc bơi trong đại dương để lọc các vi sinh vật từ trong nước - khả năng trực giác và một bộ óc mưu lược. Con sứa không cần nhiều hơn một hệ thần kinh đơn giản có thể điều khiển tiêu hóa, phản ứng với ánh sáng để biết nổi lên lặn xuống, và để bắn ra nọc độc khi con mồi chạm phải.
Nhưng một con vật thường phải săn đuổi con mồi thì phụ thuộc nhiều vào phản xạ và cảm xúc hơn là một con sứa đơn thuần. Nó phải nhận diện con mồi, chọn đúng thời điểm tấn công, và hiểu khi nào nên bỏ chạy nếu thứ sắp là bữa sáng của nó lại tự vệ quá hung hăng.
Mọi sinh vật đều có cách thức riêng để tồn tại, một hỗn hợp của ngụy trang và sự khôn khéo, sức mạnh và tốc độ. Con cá sấu đương đầu với kẻ thù của nó bằng bộ da thép và bộ hàm dũng mãnh, con ngựa phi nước đại để thoát khỏi hiểm nguy, sức mạnh và tốc độ của con hổ khiến nó hầu như không thể bị nguy hại. Chính các khả năng của cơ thể, với sự tham gia phù hợp của não bộ, sẽ quyết định số phận của mỗi sinh vật. Nhưng qua quá trình tiến hóa, trung tâm sức mạnh đã chuyển lên phía trên, khi bộ não ngày càng phát triển và tiêu thụ một phần ngày càng lớn năng lượng chuyển hóa của cơ thể - nhất là ở loài người, não bộ tiêu tốn hơn một phần ba năng lượng của cơ thể.
Vậy, Người thông minh [Homo sapiens] phụ thuộc gần như hoàn toàn vào trí thông minh và trực giác chứ ít phụ thuộc vào cơ thể. Không có những phẩm chất này thì chúng ta sẽ tiêu đời, bởi vì, nếu xét về kích cỡ và sự nhanh nhẹn, chúng ta kém thảm hại so với những con vật cùng kích cỡ. Thậm chí, họ hàng sinh học gần ta nhất là con tinh tinh cũng có thể dễ dàng tóm lấy một người và quay tròn anh ta trên không.
Tuy nhiên, xét về mặt tiến hóa, một số phần não bộ lớn và quan trọng có tuổi đời già hơn hẳn loài người. Và cho dẫu một số nhu cầu đã thay đổi, hầu hết các phần não bộ này vẫn thực hiện những chức năng giống như trong đầu những con cá hay thằn lằn. Nhờ những mạng thần kinh nguyên thủy này mà chúng ta sở hữu một số phẩm chất đặc biệt - ví dụ như nỗi kinh sợ khiến người ta xoay lưng cắm cổ chạy khi gặp một con rắn vô hại, mặc dù cũng chính người đó lại có thể đua mô tô trên đường cao tốc với tốc độ 160km/h.
Cùng với những thành tựu của tiến hóa, chúng ta cũng mang theo trong mình một số tàn dư của nó, vì thiên nhiên ít khi vứt đi bất cứ thứ gì từng một lần dùng đến. Vô vàn chi tiết trong não bộ cũng vô dụng như ruột thừa. Không có thay đổi cơ bản nào trong não bộ kể từ kỷ nguyên khủng long - tiến hóa chỉ có Cộng thêm các chức năng mới mà thôi, có thể nói vậy. Kiến trúc trong đầu ta giống y một thành phố rất CỔ: cuốn hút, hấp dẫn, nhưng đầy rẫy những tòa nhà mà theo quan điểm ngày nay sẽ phải thiết kế lại khác hoàn toàn và tốt hơn hẳn.
Ba bộ não của ta
Lịch sử của một thành phố cũng giống như sự phát triển của não bộ con người ở chỗ nó không phát triển dần dần mà theo từng giai đoạn nhất định. Cấu trúc não bộ của ta nối liền ba giai đoạn phát triển bùng nổ; ba giai đoạn này được đặt tên theo những sinh vật mà đặc tính của chúng ngay từ đầu đã phát triển mạnh mẽ nhất: não bò sát, não limbic (não động vật có vú) và vỏ não mới (não người).
Não bò sát được coi là già nua nhất trong cả ba. Nó chính là thân não; tiểu não cũng thuộc về nó. Nằm ở đầu trên của cột sống, nó kiểm soát những chức năng cơ bản của cuộc sống: tiêu hóa, sự thở và nhịp tim. Thân não cũng điều khiển các chuyển động đơn giản như co duỗi những bó cơ lớn và tư thế cơ thể. Nhưng trên hết, mạng thần kinh của nó đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo ra cảm xúc. Đói và sợ hãi bắt đầu từ thân não, điều đó giải thích tại sao con thằn lằn cũng có khả năng sợ hãi và thậm chí có thể học để biết sợ một số kích thích cụ thể. Nhưng thân não không chỉ là nguồn gốc của những cảm xúc tiêu cực: không những hoảng loạn và tức giận mà cả phấn khích và vui thú cũng không thể có được nếu không có phần não bộ cổ xưa này.
Phần lớn não tiếp theo của não bộ đã phát triển trong suốt kỷ khủng long khi những con thú nhỏ kiểu chuột chù đã sẵn sàng cho việc mang thai. Mặc dù các nguyên lý cơ bản của nó đã xuất hiện ở loài bò sát và lưỡng cư, nhưng chỉ khi những động vật có vú đầu tiên nổi lên từ đại dương bắt đầu cuộc hành quân chiến thắng của chúng trên mặt đất thì phần não này mới phát triển lên một kích thước vượt qua tất cả các phần khác của não bộ. Thùy hải mã và hạch hạnh - chịu trách nhiệm lưu trữ ký ức cảm giác và nơi chốn - thuộc về các trung tâm thần kinh đang phát triển, cho phép hành vi được linh hoạt hơn và giúp con vật dễ dàng học cách phân biệt bạn với thù, định vị thức ăn, và phát hiện loại thức ăn nào có mùi vị đặc biệt ngon.
Không phải ngẫu nhiên mà sự phát triển tiếp theo đến mức khổng lồ của kho tàng cảm xúc này lại xảy ra trùng với sự xuất hiện các động vật có vú đầu tiên. Mối quan tâm đến con cái của chúng, sự gắn kết với một bạn đời hay với một nhóm động vật cùng loài, cũng như sự thích thú chơi đùa cùng nhau, tất cả đều đòi hỏi nhiều hơn chứ không chỉ những phản ứng sợ hãi, đói khát và vui thích đơn giản của loài bò sát. Quá trình động vật có vú nuôi con kéo dài đòi hỏi não bộ của chúng phải phát triển hơn, bởi vì các cảm xúc xã hội cần thiết phụ thuộc vào hệ mạch não mới mạnh mẽ hơn và giàu khả năng hơn. Những loài có bộ não đơn giản như cá sấu rất ít quan tâm đến con cái của chúng. Mặc dù con mẹ cũng khư khư bảo vệ trứng và giữ gìn đám con cái, nhưng điều này không kéo dài lâu trước khi lũ cá sấu con phải trốn khỏi bố mẹ chúng nếu không muốn bị ăn thịt. Nhưng trái lại, lũ chuột con được mẹ chúng liếm láp, vuốt ve và cho bú hàng tuần liền. Con vật trưởng thành đó thể hiện những cảm xúc mà ở loài người ta gọi là tình yêu thương dưỡng dục.
Giai đoạn phát triển lớn cuối cùng của não bộ bắt đầu vào thời điểm cách đây một trăm triệu năm, khi mà vỏ não phát triển vượt bậc, chủ yếu ở khỉ, cá heo, cá voi và nhất là con người. Vỏ não mới mở rộng phủ lên trên những phần não cũ như một cái vòm. Bởi vì những loài vật này với bộ não mới to lớn có thể học tốt và nhanh hơn nhiều các sinh vật khác, chúng có thể điều chỉnh để thay đổi trạng thái đến mức chưa thể hình dung đến trước đây. Đại não mở rộng cho phép chúng có thể lập kế hoạch hành động trước và đánh lừa các con vật khác, có thể sống cùng nhau dưới dạng cộng đồng phức tạp như loài khỉ, hoặc có thể sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp với đồng loại như cá voi.
Những cảm xúc tinh tế như sự cảm thông cũng bắt nguồn từ vỏ não. Một trong những khám phá khoa học gây bất ngờ và quan trọng nhất trong những năm qua là lòng vị tha nói chung không phải thành tựu của văn hóa loài người mà là thành quả của vỏ não mới, và với vỏ não mới này các con vật khác cũng có khả năng như vậy. Các nhà nghiên cứu hành vi hay nhà nghiên cứu linh trưởng người Hà Lan Frans de Waal đã thu thập đủ chứng cứ cho giả thuyết này, đặc biệt là từ loài khỉ. Những con tinh tinh cái luôn hỗ trợ nhau trong quá trình lao động, tinh tinh trẻ cả đực lẫn cái gắn kết với nhau để chống lại một con đực đầu đàn bạo ngược, con khỏe mạnh trong nhóm thường bảo vệ những con ốm yếu.2)
Nếu xét về kích thước và khả năng thì vỏ não con người vượt xa tất cả các loài vật khác. Chúng ta có vô vàn loại cảm xúc khác nhau để tùy ý sử dụng khi cần và, quan trọng nhất, chúng ta có thể trải nghiệm chúng như là của riêng mình: chúng ta nhận thấy cảm giác, chúng ta có thể sắp xếp chúng trong trí tưởng tượng của mình, chúng ta có thể buồn bực hoặc vui thú với thứ này thứ kia, ngay cả khi chúng hoàn toàn không thiết yếu cho sự sống còn của chúng ta. Chỉ nhờ hai bán cầu đại não mở rộng mà chúng ta có khả năng trải nghiệm nỗi đau khổ của tình yêu không
được đền đáp trong một bộ phim, hoặc cảm nhận niềm vui chiến thắng của đội vận động viên quê nhà.
Con vật càng phát triển cao thì cảm xúc của nó càng phức tạp. Quy luật dễ hiểu này trở nên rõ ràng khi chúng ta nhìn lại lịch sử tự nhiên năm trăm triệu năm trước - khoảng thời gian để hệ thần kinh đơn giản của con sứa biển tiến hóa thành bộ não con người.
Nhưng dù các cảm giác của chúng ta nhiều và đa dạng, chúng đều dựa trên những cảm xúc cơ bản như ham muốn và sợ hãi, vốn đã tồn tại trong thế giới động vật rất lâu trước khi xuất hiện loài người. Và chúng vẫn là những phần cổ nhất trong não bộ có chức năng tạo ra các nhịp cho âm nhạc cảm xúc của ta. Mặt khác, đại não còn tạo thêm sự phong phú cho các giai điệu cảm giác. Trong khi những sinh vật đơn giản chỉ bị chi phối bởi ý muốn thì chúng ta biết khao khát cháy bỏng và ráo riết lao tới quyền lực, chúng ta biết ham muốn mãnh liệt và và tôn kính âm thầm.
Dàn nhạc hoóc môn
Hoàn toàn không chỉ có cấu trúc não bộ định hình ta là ai. Những chất lỏng chảy trong não cũng không kém phần quan trọng. Não bộ, xét cho cùng, không phải không có sinh khí và khô như một cái máy tính, mà là đang sống, ẩm ướt và linh động. Ngoài máu và nước, có hơn sáu mươi loại chất truyền dẫn thần kinh khác nhau tuần hoàn trong nó - những phân tử có ảnh hưởng to lớn đến hành động và cảm giác của ta. Jean-Didier Vincent, một trong những nhà nghiên cứu sinh vật học thần kinh độc đáo nhất, đã gọi cuộc hòa nhạc của những chất này là “não bộ lỏng”.
Một trong các chất truyền dẫn đó sẽ đóng vai trò quan trọng trong các chương tiếp theo, và chúng cũng đã có một lịch sử lâu dài: như dopamine, một chất truyền dẫn thần kinh chịu trách nhiệm kiểm soát ý muốn, sự hứng thú và học tập, nó cũng kiểm soát cả ham muốn - ngay cả ở loài ong. Những chất thuốc phiện nảy sinh một cách tự nhiên như beta-endorphin mà chúng ta giải phóng ra khi trải nghiệm vui sướng (cũng như đau đớn) cũng hiện diện cả trong não bộ của côn trùng. Chất serotonin kiểm soát dòng chảy thông tin trong não bộ và là một trong những chất truyền dẫn lâu đời nhất trong tất cả, được tìm thấy ngay cả trong hệ thần kinh đơn giản nhất của động vật thân mềm và động vật chân đầu như mực ống. 3)
Những chất truyền dẫn thần kinh này luôn hiện diện trong não bộ. Thật cảm động khi nhìn thấy một con mèo cái liếm láp lũ con, âu yếm chúng và cẩn thận tha chúng bằng miệng đến nơi an toàn hơn. Hành vi này, bản chất của tình mẫu tử, cũng được kiểm soát bởi chất truyền dẫn thần kinh. Nếu tiêm chất oxytocin vào não của một con chuột chưa từng sinh con, con chuột “trong trắng” này chỉ mất vài phút để chuyển hóa thành một mẹ chuột dịu dàng chăm sóc lũ chuột con của mẹ chuột khác như thể con mình.4 Cơ chế tương tự cũng hoạt động ở con người.
Ý tưởng rằng chỉ một số ít chất hóa học ảnh hưởng lớn như thế đến đời sống bên trong ta, rằng chúng có thể thay đổi tâm trạng, thậm chí quyết định hành vi của ta, nó có thể khiến ai đó sợ hãi hoặc thậm chí giận dữ. Mặc dù ta từng nhiều lần chứng kiến chỉ một vài ly rượu cũng có thể biến một ông khách nhút nhát thành một tay pha trò rôm rả, hoặc hơn nữa thành một kẻ nói như bắn súng liên thanh cứ bám riết lấy bạn, tác dụng của rượu giống như một sự gãy đổ cơ chế tạm thời, hay một tấm màn tạm thời che mờ lý trí, hơn là giống một não bộ lỏng đang hoạt động.
Quyền năng của những phân tử này khiến chúng ta phải xem xét hình ảnh bản thân. Chúng ta thích coi mình là một loài thông minh, có sức sống nhờ vào hy vọng, suy nghĩ, ước mơ chứ không phải nhờ hóa học. Khi chúng ta yêu, hoặc tự hào nhìn ngắm con cái, liệu chúng ta có thể thực sự tin rằng những trải nghiệm niềm vui sâu sắc nhất này của cuộc sống không là gì hơn dòng chảy của một số hóa chất trong bộ não?
Rất khó. Nhưng thậm chí ở cấp độ sinh lý học, mọi thứ cũng không đơn giản như thế. Cái công thức “chất dopamine tương ứng với niềm vui, chất oxytocin tương ứng với tình mẫu tử” chỉ đúng tùy theo điều kiện, cho dù chỉ bởi những chất truyền dẫn này không hoạt động riêng biệt. Những chất truyền dẫn thần kinh cụ thể đóng vai trò chính trong việc tạo ra những cảm xúc nhất định nào đó, nhưng chúng chỉ là một giọng ca trong dàn hợp xướng mà thôi. Do đó, chất oxytocin tiêm vào con chuột cái trinh nguyên biến nó thành con chuột mẹ bằng cách khởi động một thứ hiệu ứng domino, ngay lập tức nó giải phóng ra một loạt chất khác trong bộ não, và các chất này đến lượt mình làm thay đổi hành vi của con chuột.
Cũng giống như sự tương tác của các phân tử trong não là vô cùng phức tạp, sự tương tác của chúng với cơ thể cũng vậy. Các công thức hóa học không đủ để lý giải cái chúng ta cảm thấy. Chỉ một chất truyền dẫn thần kinh đơn lẻ hay cả sự phối hợp tổng hòa của các chất như vậy thì cũng đều không thể tự tạo ra được một cảm xúc. Đúng hơn, chúng phải hoạt động dựa vào mạng dây thần kinh phức tạp,mạng này sau đó giải phóng ra những phản ứng trong cơ thể. Hơn nữa, khi chúng ta trải nghiệm một cảm xúc vô thức dưới dạng cảm giác, thì vỏ não của ta, cấu trúc phức tạp nhất trong thế giới tự nhiên, sẽ bước vào hoạt động.
Mặc dù chúng ta không phải là những con rối đơn giản hoạt động dựa vào sự tùy hứng của các phân tử, nhưng ta cũng rất dễ dàng lờ đi sự thật rằng, đời sống phong phú trong ta không thể được tạo ra từ hư không. Những suy nghĩ, cảm giác và thậm chí những giấc mơ không thể là những lâu đài trong không khí mà được xây dựng trên một nền tảng rất vững chắc, và nền tảng đó chính là hóa học. Đời sống bên trong ta và các chất truyền dẫn trong não có thể được so sánh như một tác phẩm nghệ thuật với các chất liệu làm nên nó: các bức tranh tường của Nhà thờ Sistine 20 cho ta cảm giác choáng ngợp hơn bội bội lần so với bột màu của Michelangelo, nhưng nếu không có những thứ bột màu này, ông không bao giờ vẽ nên được nhãn kiến của mình về vũ trụ. Và đúng theo cách này, chúng ta là cái gì đó lớn hơn nhiều chứ không chỉ là kiến trúc của não bộ, lớn hơn nhiều chứ không chỉ là những chất lưu thông trong đầu ta. Tuy nhiên, nếu không có chúng, chúng ta sẽ có chẳng có đời sống bên trong nào hết.
Sống với đam mê
Nhà khoa học tiến hóa người Mỹ Sarah Blaffer Hrdy viết trong một cuốn sách của mình về lịch sử tình mẫu tử: “Mọi sinh vật sống, mọi cơ quan của mọi sinh vật, chưa kể đến các mô và các phân tử, dù có còn hoạt động hay không, đều mang dấu vết tích lũy từ vô vàn đời sống trong quá khứ. Không bao giờ cho phép cái sự xa xỉ là tạo ra được giải pháp hoàn hảo ngay từ lúc khởi đầu, chọn lọc tự nhiên sẽ tái chế những giải pháp khả thi cho một sự phù hợp vừa đủ, [vừa đủ ở đây] đơn giản nghĩa là: [nó] tốt hơn so với tình trạng cạnh tranh.”(5)
Một số người có thể thở phào nhẹ nhõm nghĩ rằng sinh học tiến hóa sẽ bảo chứng cho những khiếm khuyết của mình và giải thoát họ ra khỏi mọi rắc rối. Xét cho cùng, chúng ta quá khắt khe với chính mình, thường không cho phép mình mắc lỗi, và tự nhiếc móc bản thân khi bị thất bại lần nữa.
Cái mà chúng ta cảm thấy và cái mà chúng ta muốn, ở một mức độ lớn, được quyết định bởi những chương trình Còn cũ xưa hơn loài người. Song điều này hoàn toàn không có nghĩa là những chương trình này biến chúng ta thành những sinh vật bất lực, vô vọng trong cuộc chống chọi với tự nhiên, vì chúng ta có thể kiểm soát được những cảm xúc này. Chỉ có điều chúng ta không thể thoát khỏi chúng - ngay cả nếu một số tôn giáo muốn chúng ta tin khác đi.
Có nhiều nhà tu khổ hạnh đã lấy việc chinh phục những đam mê làm mục đích phấn đấu, nhưng cuối cùng thất bại. Thậm chí một số người có khả năng tự kiểm soát phi thường như Mahatma Gandhi, mà lòng vị tha sâu sắc
đã khiến ông có khả năng nhịn ăn và chịu đựng được sự hành hạ thể xác, cũng không thành công. Câu chuyện Gandhi cho ta thấy con người có thể chống lại tự nhiên đến mức độ nào - và giới hạn nằm ở đâu. Khi còn trẻ, ông đam mê tình dục thái quá đến nỗi sau này điều đó gây ra cho ông cảm giác tội lỗi khủng khiếp. Tán đồng với một số nhánh của Ấn Độ giáo, ông coi hoạt động tình dục là một sự phí phạm năng lượng mà lẽ ra nên dành để phục vụ cho tinh thần. Cho nên ông chọn cách sống thanh tịnh. Nhưng thậm chí khi đã về già ông vẫn phải tiếp tục chiến đấu với bản năng tình dục của mình. Để kiểm nghiệm bản thân và loại bỏ hoàn toàn dục vọng, người đàn ông có tuổi này đã lên giường với những cô gái trần truồng, nhưng tự cấm mình đụng chạm vào họ. Gandhi đã thành công, nhưng sau đó ham muốn của ông vẫn cứ mạnh hơn trước. Ông có thể đã đạt thành quả từ các cuộc thử nghiệm của mình khi huấn luyện thêm sức mạnh ý chí, cái ý chí mà thực ra đã là siêu phàm rồi - nhưng ông không thành công trong việc làm bản năng tự nhiên của mình còn nhụt đi.
Triết gia Immanuel Kant khuyên nhủ chúng ta nên coi đam mê của con người như là những căn bệnh tâm hồn xuất phát từ một tư duy cũng bệnh hoạn như vậy. Nhưng nếu chúng ta theo lời khuyên của Kant, thì có nghĩa là chúng ta đang tự tuyên chiến với chính bản thân mình.
Có nhiều cách thực tế hơn để chung sống với cảm xúc của ta. Hơn hết, chúng ta nên chấp nhận di sản mà tiến hóa để lại cho ta. Chúng ta không thể thay đổi được thiên bẩm của mình, cũng như không có lý do gì để làm như vậy cả. Trái với tất cả các loài khác từng tồn tại, chúng ta không hề bất lực khi đối mặt với những động lực của mình. Chúng ta có thể quyết định theo cái nào, tránh cái nào, và có thể định hình cuộc sống sao cho hài hòa với khuynh hướng tự nhiên của mình. Do vậy, cả đức Phật lẫn nhà hiền triết Aristotle đều đưa ra phương pháp tu thân gọi là trung đạo hay trung bình càng golden mean 21 - một quan niệm về cảm xúc mà không ai diễn tả rõ ràng như René Descartes trong cuốn Những đam mê của tâm hồn của ông: “... chúng ta thấy rằng, trong tự nhiên tất cả chúng [đam mê] đều tốt đẹp, chỉ có điều ta phải tránh dùng sai hay dùng thái quá mà thôi.” (6)
Thật vô nghĩa khi cứ cố gắng đi tìm thuốc trị niềm đam mê, tuy rằng một cuốn sổ tay hướng dẫn sẽ thực sự hữu dụng cho ta. Chỉ bằng cách trở nên thân quen với cái gì đó thì ta mới có thể phát triển mối quan hệ lành mạnh với nó. Nếu muốn sống với đam mê của mình, trước tiên ta phải hiểu biết về chúng.