← Quay lại trang sách

⚝ 6 ⚝ Ham muốn

Một đợt nhiễm trùng não do vi rút đã biến Leonard thành một xác chết di động. Mặc dù đã bốn mươi sáu tuổi, nhưng khuôn mặt hoàn toàn vô cảm của anh vẫn không mang nếp nhăn nào, anh trông vẫn giống y thời trẻ, lúc anh bị căn bệnh đánh gục ngay trước khi sắp kết thúc việc học hành. Tứ chi của anh gần như không còn khả năng cử động, đã trở nên cứng đơ. Anh bị mất giọng - một nỗi đau đớn hành hạ anh chẳng kém gì chúng liệt, vì anh yêu ngôn ngữ. Leonard chỉ còn lại một niềm vui duy nhất là đọc sách, và một điều dưỡng viên giúp anh lật trang. Vùi mình trong đống sách, Leonard chỉ có thể giao tiếp nhờ sự trợ giúp của một tấm bảng nhỏ, anh cố gắng hết sức để trỏ những con chữ. Anh cảm thấy thân thể mình giống như một nhà tù có cửa sổ nhưng không có cửa ra vào”, trong đó anh phải sống như con báo trong bài thơ của Rilke 22 , con vật mà anh luôn so sánh với mình:

Mắt nhìn miên man qua những chấn song,

Quá mệt mỏi nên chẳng bắt được gì.

Nó thấy như có cả nghìn song sắt,

Mà đằng sau: chẳng có thế giới chi.

Bác sĩ của anh là một người trẻ tuổi tên Oliver Sacks, người sau đó đã làm cho số phận của Leonard cũng như nhiều bệnh nhân tương tự trở nên nổi tiếng khắp thế giới. Tại thời điểm đó, Sacks đã thí nghiệm bằng L-Dopa, một loại dược phẩm mới có chức năng tương tự như chất truyền dẫn dopamine tự nhiên. Leonard là bệnh nhân đầu tiên Sacks thử nghiệm loại thuốc này. Tác dụng của thuốc mạnh đến nỗi, bác sĩ trẻ đã liên tưởng đến những bức tranh vẽ cảnh người chết sống dậy - đấy là lý do mà cuốn sách đầu tiên của ông (và một bộ phim dựa theo cuốn này) mang tiêu đề: Sống dậy.

Việc chữa trị bắt đầu vào tháng Ba năm 1969, và trong vòng hai tuần Leonard đã trở thành một người khác hẳn. Anh có thể chạy! Anh rảo bước ra khỏi khu bệnh viện đến bên vườn hoa, áp mặt vào những bông hoa mà hôn. Chứa chan hạnh phúc và tràn trề năng lượng, anh say sưa với thế giới xung quanh. “Tôi cảm thấy được cứu sống”, anh nói, “được cải tử hoàn sinh, được tái sinh. Tôi cảm thấy sức khỏe quá dồi dào... Tôi cảm thấy như đang yêu. Tôi đã vượt qua những rào cản chia cắt tôi khỏi tình yêu”. Thậm chí anh lại có thể lái xe, lại lao vào cuộc sống ban đêm của thành phố quê nhà, New York - giờ đây nơi ấy đối với anh như là một thánh địa Jerusalem mới đầy hấp dẫn vậy, Sacks viết.

Thay vì đọc Inferno (Địa ngục), anh đọc Paradise (Thiên đàng) của Dante trong nước mắt và niềm vui. “L-Dopa đúng là thần dược,” anh viết trong nhật ký, gạch

đậm chữ “thần” [blessed drug]. “Nó đã trả lại tôi triển vọng cuộc sống. Nó đã mở lời nói cho tôi trong khi trước đây tôi bị câm như hến... Nếu đã từng cảm thấy tuyệt diệu như tôi thì không ai còn muốn nghĩ đến gây sự hay chiến tranh, không ai còn muốn nghĩ đến chiếm đoạt và sở hữu. Họ chỉ đơn giản sống vui với chính mình và với nhau. Họ sẽ nhận ra rằng thiên đường ở ngay đây, trên trái đất này.”

Nhưng trạng thái ngây ngất của Leonard kéo dài không quá vài tuần. Vào tháng Năm, anh bắt đầu chịu đựng những ham muốn đến đau đớn, và sau đó là con thèm khát quyền lực và tình dục không thể thỏa mãn. Anh quấy rối những y tá tại trại, và còn yêu cầu Sacks rất nghiêm túc bố trí các y tá “phục vụ” mình về đêm. “Với L-Dopa chảy trong máu, không có gì trên thế giới mà tôi không thể làm được nếu muốn. L-Dopa chính là sức mạnh, là thế lực không thể chống lại được. L-Dopa là quyền năng ích kỷ và bừa bãi. L-Dopa đã cho tôi thứ quyền năng mà tôi hằng khao khát.”

Giờ đây anh nói chuyện với tốc độ chóng mặt, và chỉ trong ba tuần đầu tháng Sáu anh đã viết xong một cuốn tự truyện hàng trăm trang. Tình trạng của anh suy sụp dẫn đến điên loạn. Anh cảm thấy như bị vây giữa bầy quỷ dữ và những cái bẫy lưới được đặt ra để siết cổ mình. Cho đến khi Leonard cổ tự tử bằng cách lấy gối làm mình nghẹt thở thì Sacks dùng cho uống thuốc. Sau vài ngày, Leonard trở lại trạng thái tê liệt trước đây. Anh chết trong tình trạng này vào năm 1981, sau khi việc điều trị sâu hơn bằng L-Dopa và những loại thuốc tương tự làm nổi lên thêm các giai đoạn khác nữa của bệnh tâm thần.(1)

Chất hóa học điều khiển ta

Điều gì đã xảy ra vậy? Bệnh nhiễm trùng não của Leonard đã tấn công một nhóm tế bào thần kinh thuộc não giữa, nằm gần chính xác tại điểm giữa đầu, trông như những chấm đen có kích cỡ bằng một cái móng tay - đó là lý do chúng được gọi là substania nigra, nghĩa tiếng Latinh là “chất đen”. Đây là nơi sản xuất chất truyền dẫn dopamine.

Dopamine là một phân tử nhỏ xíu chỉ bao gồm hai mươi hai nguyên tử - hyđrô, carbon, ôxy, nitơ. Phóng to mười triệu lần thì nó trông giống một con nòng nọc: cái đầu hơi dài, chủ yếu chứa nguyên tử carbon, phần đuôi chứa những nguyên tử khác. Đây là chất mà bộ não của Leonard thiếu và Sacks đã bơm chất đó (có biến đổi hóa học một chút) vào anh ta dưới dạng L-Dopa.2)

Nhìn phân tử dopamine thì không mấy ấn tượng, nhưng một khi ở trong não bộ, nó dường như có quyền năng kỳ diệu. Nó giúp ta kiểm soát tính linh hoạt và sự chú ý. Nó kích thích sự tò mò, khả năng học hỏi, tưởng tượng, sáng tạo và ham muốn tình dục. Não bộ giải phóng ra chất truyền dẫn này mỗi khi ta ham muốn điều gì hay đam mê ai đó. Dopamine chính là chất tạo ra ham muốn.

Cái chất kỳ lạ này không những chịu trách nhiệm đánh thức ham muốn của ta, mà nó còn khởi động những hệ thống cần thiết hoạt động để cho phép ta đạt được mục đích. Do ảnh hưởng của nó, chúng ta cảm thấy hào hứng, và đầy tự tin. Dopamine đảm bảo rằng não bộ luôn theo sát ý muốn và hành động của ta - không có nó, cơ bắp sẽ không tuân lệnh ý chí. Tóm lại, dopamine chính là chất điều khiển chúng ta. Và bởi vì nó truyền cho chúng lạc quan ta một trạng thái mong đợi hồi hộp, bởi vì nó làm cho mục đích của ta trở nên hấp dẫn và dễ dàng đạt được, dopamine - có lẽ hơn bất kỳ chất truyền dẫn nào khác trong não bộ - có thể cho phép ta trải nghiệm cảm giác hạnh phúc.

Hiếm có tình huống nào mà chất này không đóng một vai trò gì đó. Ngay khi ta bị thu hút bởi thứ hoa quả tươi nào đó trong siêu thị thì chất dopamine đã được giải phóng ra. Chúng ta thấy hạnh phúc dâng trào, đầy vui vẻ và phấn khích, “Tôi muốn nó!” Do tác động của chất dopamine, não bộ ra lệnh cho cơ bắp để đưa tay ra với lấy quả táo. Trong khi não bộ đang chuẩn bị để kiểm tra xem những quả táo này có mùi vị ngon như ta hy vọng hay không, thì khả năng lưu trữ dữ liệu được kích hoạt, cho phép ta ghi nhớ trải nghiệm vừa rồi để mai sau ta biết đó là trải nghiệm dễ chịu hay là một nỗi thất vọng.

Chất dopamine luôn có mặt mỗi khi ta bắt tay vào một vấn đề mới trong công việc, hay khi ta gặp một người hấp dẫn trên phố, hoặc, trên mức độ mạnh hơn, khi ta mong đợi cuộc ái ân. Khi chúng ta với tay lấy cốc bia hay điếu thuốc lá, có nghĩa là ta đang tìm cách tăng thêm lượng chất truyền dẫn gây thích thú này, vì một trong những tác động chính của chất cồn và nicotine là để tạo thêm dopamine trong não.

Nguồn tạo ra dopamine thứ hai nằm ở vùng liền kề với substantia nigra, là chỏm não (ventral tegmental). Từ hai trung tâm này, các nhánh dây thần kinh trải lên phía trên theo mọi hướng, cung cấp dopamine đến những vùng não đang làm việc - những mạng lưới này cho phép ta phản ứng với phần thưởng, nhớ những cảm giác tích cực, và chuyển động.(3)

Chất này quan trọng đối với cuộc sống của ta bởi vì nó có ba tác động lên não bộ. Đầu tiên, nó làm cho ta có thể ý thức được những tình huống đặc biệt hấp dẫn. Dopamine làm ta thức tỉnh. Thứ đến, nó cho phép các tế bào xám có thể ghi nhớ những trải nghiệm dễ chịu - dopamine hỗ trợ việc học. Và cuối cùng, nó điểu khiển các cơ để bắt cơ thể tuân theo ý chí của ta. Dopamine khiến ta hành động.

Không có gì ngạc nhiên rằng, khi thiếu hụt chất dopamine, con người mất động lực để sống, thậm chí trở thành giống xác chết như Leonard. Nhưng quá nhiều chất này cũng là một thảm họa: ham muốn trở thành nỗi ám ảnh; sự quyết tâm trở thành cơn thèm khát quyền lực, lòng tự tin trở thành thói vũ cuồng, trí tưởng tượng phong phú trở thành sự điên rồ. Cảm giác tích cực cũng có mặt xấu của nó - nhưng không chất truyền dẫn thần kinh nào trong bộ não thể hiện rõ điều đó như dopamine.

Bi thảm thay cho Leonard, L-Dopa lúc đó là loại dược phẩm mới nên các bác sĩ chưa học được cách căn chỉnh liều lượng chính xác. Anh đã được kê thuốc nhiều hơn khả năng chịu được của cơ thể 4. L-Dopa đã khởi động những cơ chế mà thông thường giúp mọi người sống cuộc sống hằng ngày, nhưng với anh, những cơ chế này lại bị phóng đại một cách dị thường. Nhưng số phận của Leonard đã cho ta thấy những cách thức hoạt động cơ bản của chất dopamine trong tất cả chúng ta.

Cuộc chạy đua vượt rào trong đầu

Dopamine là một trong những chất truyền dẫn quan trọng nhất, thông qua nó các tế bào xám của não mới giao tiếp được với nhau. Các chất truyền dẫn thần kinh sẽ truyền tín hiệu đi khi chúng được một tế bào thần kinh giải phóng ra và chảy qua khoảng trống giữa hai tế bào xám để đến tế bào thần kinh tiếp theo, ở đó chúng được tiếp nhận. Mỗi chất truyền dẫn hoạt động khác nhau ở những tế bào tiếp nhận khác nhau. Về cơ bản có hại khả năng.

Một là, chất truyền dẫn thần kinh kích hoạt trực tiếp tế bào tiếp nhận để tế bào này đến lượt mình giải phóng ra một chất truyền dẫn - thông điệp sau đó được truyền đi như một lá thư trong bưu điện.

Phương thức khác là chất truyền dẫn không giải phóng ra một thông điệp mới ngay lập tức, mà thay vì như vậy,nó thay đổi cách phản ứng của tế bào tiếp nhận đối với các thông điệp đến sau. Ví dụ, một chất truyền dẫn thần kinh có thể chuyển một tế bào thần kinh sang trạng thái sẵn sàng riêng biệt để nhận và gửi thông điệp. Chất truyền dẫn thần kinh trong trường hợp này đã mở cánh cửa cho những chất truyền dẫn khác. Đây cũng là cách dopamine hoạt động: nó có thể thay đổi tần số của các kênh ion (ionic channel) 23 - cánh cổng tế bào - và khiến chúng có thể đóng mở. Do đó, nó làm cho các tế bào thần kinh dễ dàng hoạt động hơn. 5)

Nhưng các nhà khoa học vẫn chưa khám phá ra được chi tiết cuối cùng về cách thức dopamine hoạt động. Chức năng của các chất truyền dẫn vẫn đang được nghiên cứu ráo riết, và hầu như mỗi ngày đều có những khám mới. Dopamine dường như không phải chất truyền thần kinh duy nhất có ảnh hưởng đến sự kích động và ham muốn. Ít nhất có một nhóm các chất truyền dẫn khác đóng vai trò trong những quá trình này, ví dụ như noradrenalin và adrenaline, hai hoóc môn cũng rất quan trọng có liên quan tới trạng thái căng thẳng, nhận thức cảm giác và sự trao đổi chất. Acetylcholin, chất đối nghịch với dopamine, sẽ kiềm chế tác dụng gây phấn khích của dopamine. Glutamate có liên quan đến sự học. Tuy vậy, dopamine dường như rõ ràng là trung tâm của tất cả các quá trình này. Nó như một cầu dao hóa học tổng bật và tắt ham muốn.

Ngợi ca sự chờ đợi

Một tình yêu mới, một chuyến du hành đến nơi ta chưa từng đặt chân đến, hoặc thậm chí những hình ảnh đầu tiên khi xem một bộ phim, thảy đều khiến chúng ta hồi hộp, ngón tay ngứa ngáy, chân hơi căng cứng, và mạch đập nhanh hơn. Sự hứa hẹn dường như luôn treo lơ lửng trong không khí. Chúng ta luôn hy vọng vào những thứ chưa thể nhận biết được - một sự thay đổi bất ngờ trong cuộc sống, một trải nghiệm đầy mê hoặc. Đồng thời, chúng ta cũng e Sợ rằng điều mới mẻ đang chờ phía trước chúng ta có thể không được tuyệt vời như mong đợi. Cho nên chúng ta rà soát bất cứ thứ gì dù là nhỏ nhất có thể gợi cho ta mường tượng trước được tương lai. Vừa bước chân xuống máy bay, một du khách lập tức quét mắt khắp sân bay. Một người đang yêu giật nảy lên ngay khi nghe thấy tiếng chuông điện thoại. Những con cồn cào ruột gan này là gì? Chúng từ đâu đến? Và chúng có ý nghĩa gì?

Hoàn toàn ngẫu nhiên, nhà nghiên cứu não bộ Wolfram Schultz đã đi đến tận cùng của bí mật này - và tới tận tâm điểm của câu hỏi hóc búa đằng sau ý nghĩa tiến hóa vĩ đại của dopamine. Thực ra, Schultz, người sau này làm việc ở Fribourg, Thụy Sĩ, vốn chỉ quan tâm nghiên cứu đến ảnh hưởng của dopamine đối với sự vận động của loài khỉ, một vấn đề mà ông hy vọng sẽ đem lại hiểu biết về căn bệnh Parkinson (căn bệnh làm cho mức dopamine không còn kiểm soát được và khiến nạn nhân bị rối loạn kiểm soát đối với các cơ của mình). Khi những con khỉ bắt đầu các chuyển động cụ thể nào đó, Schultz mong chờ một lượng nhất định tế bào thần kinh dopamine trong vùng substania nigra sẽ hoạt động. Nhưng hầu như không có gì xảy ra. Rõ ràng là, các tế bào thần kinh mà ông đang nghiên cứu không có liên quan gì đến sự vận động cả.

Bất luận kết quả như thế nào, sự cố gắng của lũ khỉ vẫn phải được thưởng, và khi một trong các cộng sự của Schultz đặt một vài lát táo vào trong chuồng khỉ: “các tế bào thần kinh bắt đầu hoạt động như điên,” Schultz thốt lên. “Chúng tôi không thể tin được." (6)

Thứ mà các nhà nghiên cứu tìm thấy là một khớp thần kinh trong não bộ chịu trách nhiệm cho cảm giác ngạc nhiên. Và nó cũng chính là hệ thống đảm nhiệm sự mong chờ - không chỉ ở khỉ mà sau này còn phát hiện cả ở con người.

Schultz và các cộng sự bắt đầu nghiên cứu những tế bào thần kinh này kỹ càng hơn. Họ kết luận rằng những tế bào này được kích hoạt chỉ khi phần thưởng hiện trước mắt. Bất cứ lúc nào con khỉ nhìn thấy quả táo, những tế bào thần kinh này được kích hoạt. Mặt khác, nếu các nhà khoa học chỉ đưa một mẩu dây điện cho lũ khỉ mà không có hoa quả xiên qua đó thì các tế bào thần kinh này không nhúc nhích.”

Trong một loạt thí nghiệm tiếp theo, một cái đèn nhỏ được bật sáng trước khi con vật chộp được miếng táo. Đầu tiên, không có gì đặc biệt xảy ra. Nhưng sau một vài lần lặp lại, những tế bào thần kinh đột ngột hoạt động ngay khi đèn nhấp nháy. Rồi một vài phút sau, khi nhà khoa học tiến lại con khỉ gần cùng với trái cây trên tay thì các tế bào thần kinh của chúng lại đứng im. Như vậy, không phải bản thân thức ăn, mà sự kỳ vọng, sự mong chờ mới là nguyên nhân kích hoạt các tế bào thần kinh này. 8)

Trong ngôn ngữ khoa học, cơ chế não bộ này thường được định danh bằng một thuật ngữ khá mơ hồ là hệ thống tưởng thưởng. Thực tế thì không phải phần thưởng kích hoạt các tế bào thần kinh, mà chính sự mong chờ đã làm việc đó. Do vậy, tôi sẽ nói đó là hệ thống mong chờ.

Quan điểm phổ biến vốn thường tán dương sự mong chờ là hoàn toàn đúng: đấy chính là khởi nguồn của niềm vui lớn lao nhất. Bản thân phần thưởng thì chúng ta chấp nhận mà chẳng có niềm vui sướng đặc biệt nào. Một người làm công khi được ông chủ hứa thưởng công sẽ rất hạnh phúc, nhưng sẽ hạnh phúc một cách ít rõ rệt hơn nhiều khi khoản tiền thưởng xuất hiện trong phiếu lương. Chuyện với những con khỉ cũng vậy.

Niềm vui khiến chúng ta sáng suốt hơn

Trong tự nhiên, sẽ là hữu ích khi tiết kiệm sự chú ý của chúng ta - điều này xảy ra khi ta không còn chú ý đến cái

đã từng một lần được mong chờ. Quay trở lại ví dụ của những con khỉ, rõ ràng nếu cứ mỗi lần tín hiệu cụ thể xuất hiện lại luôn kèm theo quả táo thì sự tiếp tục chú ý là không cần thiết nữa. Sự chú ý là một nguồn quý hiếm, và những người không phải để mắt tới lương thực thì sẽ ở vị trí tốt hơn để đề phòng kẻ địch của mình.

Nhưng điều gì xảy ra khi phần thưởng vượt quá sự mong đợi? Sau khi đưa ra tín hiệu, nếu nhà khoa học không đưa táo tới cho lũ khỉ như thường lệ mà thay bằng nho khô, các tế bào thần kinh bùng nổ dữ dội. Sự ngạc nhiên rõ ràng tạo ra một cảm xúc phấn khích vui sướng. Sau một vài lần lặp đi lặp lại, phản ứng này cũng dừng lại. Con vật đã quen với thức ăn ngon hơn. Và tương tự, nếu người nào cũng đều tối tối uống rượu sâm banh thì hứng thú của họ sẽ nhanh chóng tàn lụi.

Khi các nhà nghiên cứu đặt lại chế độ ăn táo cho lũ khỉ, thì các tế bào thần kinh cho biết rằng chúng đã quen với thức ăn ngon hơn. Bây giờ mức độ kích thích thậm chí còn xuống thấp hơn cả mức nghỉ ngơi bình thường - một dấu hiệu của chán nản. Nhưng nỗi thất vọng không kéo dài quá lâu. Ít lâu sau, nho khô đã rơi vào quên lãng, và các tế bào thần kinh hành xử như thể chưa từng biết có cái khác ngoài táo và ngon như táo.

Mong muốn thứ tốt hơn là một trong những quy luật Cổ nhất của tự nhiên. Thậm chí não bộ của con ong bé xíu cũng có một tế bào thần kinh đơn lẻ có chức năng hoạt động như hệ thống mong chờ của các động vật tiến hóa hơn. Dù đơn giản là vậy, não bộ ong và cuộc sống của ông vẫn thể hiện mục đích tiến hóa là nguyên lý niềm vui một cách đặc biệt rõ ràng.

Trong những cuộc hành trình kiếm mật, lũ ong chỉ đậu vào những bông hoa chứa rất nhiều mật mà tránh tất cả những bông khác. Bằng cách nào đó chúng phải tìm ra đâu là chỗ đáng đậu vào nhất. Não bộ của con ong thực hiện nhiệm vụ này bằng một chương trình kiểu “táo và nho khô”. Nếu con ong đang khám phá một đồng cỏ lạ, nó chui vào những bông hoa khác nhau và kiểm tra xem mỗi bông có bao nhiêu mật. Và cơ chế tương tự như ở những con khỉ trong phòng thí nghiệm tìm kiếm nho khô được khởi động. Nếu một bông hoa chứa một lượng mật nhiều bất ngờ, nơ ron thần kinh giải phóng octopamine liền được kích hoạt. (Octopamine là tên gọi khác của dopamine dành cho Côn trùng. Để đơn giản hóa, từ đây tôi cũng gọi từ này là dopamine). Con ong đã ghi nhớ vào trí óc: “Một điểm hạ cánh tuyệt vời”. Mặt khác, nếu một bông hoa chứa lượng mật ít hơn các bông khác thì những nơ ron thần kinh này không nhúc nhích, và từ đó trở đi con ong không bay đến cánh đồng này nữa.9)

Như vậy, con ong có thể học, mặc dù không có sự ưa thích bẩm sinh hay các hình mẫu. Bản thân thực tại là thầy của nó, và tế bào thần kinh dopamine sẽ nói cho nó biết cái gì là tốt, cái gì tốt hơn và cái gì là xấu. Mỗi khi dopamine được giải phóng ra, nó sẽ đưa tín hiệu rằng đây là quyết định đúng và rằng một điều gì đó tốt đẹp vừa xảy ra với cơ thể.

Như chúng ta đã biết trong Chương 4, các mạch giữa các nơ ron thay đổi khi bộ não học tập. Trong khi tác động lên cách thức thông tin di truyền được xử lý trong các tế bào thần kinh, và theo đó kích hoạt các nơ ron thần kinh thay đổi hình dạng, dopamine kích thích tạo ra những kết nối mới trong não bộ.(10) Ham muốn và hiểu biết được liên kết chặt chẽ với nhau. Ham muốn khiến chúng ta sáng suốt hơn, không có nó, việc học rất khó khăn.(11)

Ham muốn có nhiều hơn

Vậy chúng ta thấy, cơ chế khám phá cái gì mới và cái gì tốt hơn cho ta hoạt động rất sâu trong não bộ;nếu không có nó chúng ta sẽ không có khả năng học hành.

Bởi vì cơ chế này CỔ xưa và mạnh mẽ hơn rất nhiều so với lý trí của loài người, nó cũng có thể cắc cớ khiến chúng ta hành xử một cách vô lý. Không giống như con vật, chúng ta không chỉ lo lắng đến mỗi nhu cầu cơ bản như thức ăn. Hệ thống mong chờ của ta khuyến khích mọi ao ước mà con người có thể đạt tới. Chúng ta được lập trình để luôn muốn cái tốt nhất có thể có. Khi đã có được nó, ta nhanh chóng quen với nó, dù rằng ta đã tốn bao công sức và sẵn sàng trả hầu như bất kỳ giá nào để có được nó.

Chúng ta cảm thấy những cảm xúc này phi lý đến mức nào khi ta bị cuốn theo những trò chơi, mặc dù chẳng gì có thể gây ra tình huống nguy hiểm cả.(12) Nhà nghiên cứu não bộ người London, Raymond Dolan, đã phát hiện ra một số khớp nối thần kinh thực hiện chức năng này. Ông cho đối tượng thí nghiệm chơi bài poker, trong khi đó ông dùng máy chụp PET để khảo sát não bộ của họ. Nếu chiến thắng của họ vượt quá mong đợi, vùng thùy trước trán nơi các nhánh dây thần kinh kết thúc và cung cấp dopamine - liên quan chặt chẽ với những vùng não tương ứng ở các con khỉ của Schultz - sẽ hoạt động mạnh. Việc chiến thắng, bất kể là kiếm được tiền thật hay tiền ảo, đều không tạo ra sự khác biệt nào dù nhỏ nhất trong não bộ những người chơi bài.

Hệ thống mong chờ cũng được kích hoạt bởi những trò chơi video, những trò mà mục đích chỉ đơn thuần là tích điểm.(13) Rõ ràng, cơ chế này không đòi hỏi phải kiếm được một cái gì đó hữu ích - mà đúng hơn, ở đâu có cái gì để mà sở hữu, bộ não ra lệnh: Đi kiếm nó về. Điều này có thể giải thích tại sao ngay cả những người giàu cũng lao theo hàng giảm giá và đổ xô vào danh mục những món hàng hời.

Mục đích không phải là để có những cảm xúc tích cực kéo dài; tất cả vấn đề nằm ở chỗ vượt qua bất cứ cái gì chúng ta đã quen thuộc. Tự thân một tấm huân chương danh dự, một sự tăng lương đến hàng triệu, một chiếc ghế ông chủ lớn hơn có lẽ không mang nhiều giá trị, nhưng ai mà lại không quay cuồng để kiếm chúng cho riêng mình kia chứ?

Tại sao chúng ta sa ngã?

Trong một vài khía cạnh cuộc sống, chúng ta rất dễ bị tổn thương do hệ thống mong chờ, như tình yêu chẳng hạn. Và không ở đâu lòng ham muốn được nhiều hơn, ham muốn thay đổi và ham muốn những trải nghiệm mới lại gây ra nhiều rắc rối, lộn xộn và đau khổ như trong tình yêu. “Cô ta hay anh ta có cái gì mà tôi không có?” là câu hỏi điển hình của kẻ bị phụ tình - câu hỏi mà các nhà khoa học đã tìm ra những câu trả lời đầy bất ngờ.

Có một câu chuyện về Calvin Coolidge - tổng thống Mỹ từ năm 1923 đến năm 1929 - và phu nhân Grace Coolidge, tóm tắt vấn đề này rất rõ ràng. Khi họ được dẫn tách nhau ra để đi thăm quanh một trang trại của chính phủ, bà Coolidge đã tạt vào khu nuôi gà đúng lúc một con gà trống cường tráng đang phủ một con gà mái. Đệ nhất phu nhân có vẻ rất ấn tượng, liền hỏi con gà trống này có nhảy mái được nhiều hơn một lần trong một ngày không. “Hàng chục lần, thưa bà,” người ta trả lời. “Hãy nói cho Tổng thống biết điều đó,” bà đáp lại.

Một lúc sau đó, ngài Coolidge cũng ghé qua khu nuôi gà. Khi được nghe kể về những chiến công oai hùng của con gà trống, ông hỏi, “Mỗi lần đều với cùng một con gà mái à?” “Ồ, không, thưa Tổng thống, mỗi lần với một con mái khác nhau chứ.” Tổng thống gật gù. “Vậy hãy nói điều này cho bà Coolidge nhé.”

Điều mà Tổng thống nhận ra rất chính xác là: nhu cầu về sự mới lạ trong quan hệ tình dục là chuyện bình thường. Hiệu ứng Coolidge, như các nhà khoa học hành vi gọi, là sự suy thoái của ham muốn tình dục trong quan hệ lứa đôi lâu dài. Hiệu ứng này cũng có thể bắt gặp ở nhiều sinh vật khác, và nó gợi ý rằng xu hướng sa ngã là một phần trong di sản tiến hóa của chúng ta.

Hiệu ứng Coolidge đã được nghiên cứu đặc biệt kỹ càng ở loài chuột. Khi cho hai con chuột khác giới tính vào cùng một lồng, chúng dần biểu lộ sự quan tâm mạnh mẽ đến nhau, và con đực giao phối với con cái. Sau một khoảng nghỉ ngơi ngắn, chúng lại tiếp tục giao phối với cường độ năng lượng và lòng hào hứng như lần đầu. Sau khoảng bốn năm lần giao phối nữa thì chuyện kết thúc, ham muốn của con đực bỗng dưng không còn nữa. Có phải con đực đã tiêu hao quá nhiều sức lực? Không. Nó chán. Nếu đem một đối tác mới vào lồng, nó tiến ngay về phía con cái đó, và trò chơi lại bắt đầu như trước.

Như nhà nghiên cứu não bộ Anthony Phillips người Canada công bố, ham muốn của con vật đối với bạn tình của nó thậm chí có thể đo được. Số liệu nghiên cứu của ông cho biết, chỉ hình ảnh một con cái mới đằng sau tấm kính cũng làm tăng lượng dopamine của con chuột đực lên khoảng 44%. Ngay trước lúc giao phối, lượng dopamine tiếp tục tăng gấp đôi mức bình thường, lên đến đỉnh điểm, rồi sau đó hạ xuống đáng kể. Lần giao phối tiếp theo cũng với đối tác cũ, mức tăng yếu dần, và sau một vài lần nữa thì mức dopamine không hơn gì mức bình thường: ham muốn của con đực đã giảm sút. Nhưng nếu lại có một con cái mới xuất hiện sau tấm kính thì mức dopamine ngay lập tức tăng lên 34% (14)

Không ai có thể khẳng định rằng nàng chuột mới này lại tốt hơn nàng cũ ở bất cứ khía cạnh nào, hoặc là có một sức quyến rũ đặc biệt nào đó. Lý do ở đây là sức cám dỗ của cái mới lạ. Đó là lý do tại sao chỉ hình ảnh con chuột cái cũng đủ để não bộ chuột đực giải phóng ra chất dopamine. Tiêm vào con chuột đực một loại thuốc để tăng lượng dopamine cũng tạo hiệu quả tốt - chứng lãnh cảm của con đực đã biến mất, nó lại giao phối với đối tác chung tình và tin cậy của nó với nhiệt hứng đã được hâm nóng lại. (15)

Nếu không có liên quan gì đến tình yêu, thì sức quyến rũ của sự mới lạ thường quan trọng hơn nhiều so với chất lượng tiếp xúc trong tình dục, ít nhất là đối với giống đực. Những con cồn cào trong lõm thượng vị, những thổn thức trong tim, và sự cám dỗ đầy kích động có lẽ còn thú vị hơn nhiều một con cực khoái.

Có những dấu hiệu cho thấy rằng ở người số lượng thụ thể dopamine bẩm sinh có ảnh hưởng đến thói sinh hoạt tình dục bừa bãi. Những dấu hiệu này ít nhất là phát hiện của Dean Hamer, một nhà nghiên cứu thuộc Viện Ung thư Quốc gia ở Washington, người đã khẳng định rằng có một mối quan hệ trực tiếp giữa một biến thể nhất định của gien thụ thể D4 - một loại thụ thể dopamine - với ham muốn phiêu lưu tình ái. 30% đàn ông được cho là có “gien lăng chạ” đó, và qua thời gian họ Có nhiều bạn tình hơn người bình thường 20%.(16) Mối tương quan thống kê được Hamer xác định còn quá mơ hồ để giải thích hành vi phóng đãng của tất cả các chàng Don Juan trên thế giới, nhưng những phát hiện của ông thực sự cho thấy mức độ “ham của lạ” này ít nhất có phần nào đó là bẩm sinh.

Giới khoa học đang nghiên cứu say sưa những mối liên hệ này ở đàn ông, nhưng lại hầu như không nghiên cứu chút nào ở đàn bà. Khoa học đàn ông. Nhưng logic thông thường cho thấy ham muốn của nữ giới không có vẻ gì là yếu hơn nam giới cả. Nói cho cùng thì đàn ông sa ngã với ai? Tại sao những con tinh tinh cái phải ra sức che giấu hành vi ngoại tình của mình với con đực thấp cấp hơn không cho con đầu đạn biết? Và chúng ta có thể giải thích thế nào cái sự thật (đã được chứng minh bằng thử nghiệm gien) rằng 15% các ông bố trên trái đất đang tự lừa phỉnh bản thân về tư cách làm cha của những đứa trẻ mang họ mình?(17)

Bí quyết của Casanova

Không ai thể hiện được ý tưởng về tình yêu không chung thủy giỏi như Giacomo Casanova 24 , một kẻ nổi tiếng lịch lãm và quyến rũ phụ nữ thế kỷ 18. Cuốn hút và dí dỏm, anh ta chinh phục hầu hết những phụ nữ có học và xinh đẹp thời đó, cũng như cả các bà nội trợ và các Cô hầu phòng. Anh ta ăn mừng chiến thắng của mình ở các salon của châu Âu, và anh ta trò chuyện dễ dàng như thể chúng ta thở vậy. Anh ta là một nghệ sĩ bậc thầy trong các màn kịch gợi tình và bậc thầy thể hiện sự tinh tế của niềm vui nhục dục. Ví dụ như trong một lần hẹn hò với Marina Maria Morosini xinh đẹp, anh ta thuê hẳn một cung điện có sân vườn xa hoa và đắt đỏ nhất Venice. Chỉ để dành cho tình yêu, khoái lạc và yến tiệc, cung điện được trang bị một mảng gương khổng lồ phản chiếu ánh sáng lung linh của hàng trăm ngọn nến, những chiếc ghế sofa sang trọng và một chiếc lò sưởi lát gạch kiểu Trung Hoa, trên đó những đôi trai gái khỏa thân nhảy múa.(18)

Những người hầu phục vụ từ thịt thú rừng, cá tầm, nấm cục, hàu, rượu vang Burgundy và sâm banh thường hạng cho đến trái cây và kem - một món cao lương mỹ vị vào năm 1753. “Được thiên phú khả năng suy nghĩ siêu phàm, con người có thể nhận ra niềm vui thú,” tay chơi này giải thích. “Con người tìm kiếm nó, kết hợp nó với những niềm vui khác, hoàn thiện nó và trau chuốt nó bằng suy nghĩ và ký ức.”

Đương nhiên là đối tượng hẹn hò rất thích buổi tối đó. Ít nhất Casanova đã thuật lại rằng anh ta biết được nhiều từ nàng, trải nghiệm “những tiếng thở dài, niềm sung sướng, nỗi ngây ngất và những cảm giác tưởng chừng như chỉ có thể sinh ra từ một tâm hồn nhạy cảm trong những thời điểm ngọt ngào nhất”. Sau cái đêm phóng túng ấy, đôi tình nhân biến mất trên một chiếc thuyền và tờ mờ sáng hôm sau cô gái được đưa về tu viện. (Nàng là một nữ tu).

Không phải cung cách của Casanova bị quy ước cấm đoán. Mà là người tình của anh ta bị cấm đoán, điều này làm cho tình huống trở nên thú vị hơn nhiều. Anh ta muốn thử mọi thứ, thấy mọi thứ, trải nghiệm mọi thứ. Anh ta luôn bị hút bởi những người phụ nữ mới và nhiều thứ khác, anh ta muốn lấy bất cứ cái gì có thể lấy từ cuộc sống. Đó là một trong những khuôn mẫu lặp đi lặp lại trong cuộc đời anh ta: nếu không có mạo hiểm và kích thích không ngừng thì anh ta sẽ rơi vào trạng thái thất vọng và bất hạnh.

Mặc dù triền miên trải qua những thú vui nhục dục, Casanova chưa bao giờ cảm thấy hạnh phúc. Như anh ta đã thừa nhận, anh ta nghiện cờ bạc: “Tôi không có đủ bản lĩnh để dừng lại khi đánh mất sự che chở của một gia tài, cũng như không thể nào thôi chạy theo tiền bạc được.” Anh ta tự để mình dính líu vào các mưu đồ vô nghĩa, mạo hiểm mạng sống trong những trận đấu kiếm tay đôi, và, vì những lý do tầm thường nhất, khiêu khích con giận của nhà cầm quyền, để rồi tiêu những năm tháng đẹp nhất của mình trong trốn chạy.

Thậm chí ngay cả trong những khoảng thời gian tương đối yên ả của đời mình, anh ta cũng bị thôi thúc bởi chứng nghiện những cảm giác mới. Khi còn trẻ, anh ta đã sống ba tháng ở đảo Corfu, đã xoay xở làm ông chủ nhà băng, mở một nhà hát, lập một đội quân nông dân, chạy trốn tàu cướp biển, và vạch mặt một hoàng tử giả mạo.19)

Nghiện sự mới lạ

Casanova là một trường hợp đặc biệt của người bị chứng tỏ mò chi phối. Nhưng tất cả chúng ta đều khát khao sự mới lạ. Ở đâu không có thay đổi, ở đó là sự buồn tẻ, một trong những trải nghiệm mà chúng ta chịu đựng kém nhất trong tất cả. “Chán chường là một nỗi đau nhè nhẹ”, nhà văn Đức Ernst Jinger viết, và chúng ta luôn vật vã Cố tránh nó. Chuyện phiếm, ti vi, thời trang: một lần nữa, vấn đề không phải mục đích cụ thể nào mà là chúng ta cần trải nghiệm điều gì mới lạ. Nắm bắt cái mới là một trong những hoạt động quan trọng nhất của não. Những tế bào xám cần được nuôi dưỡng.

Bản chất của loài vật là ham muốn sự thay đổi, Aristotle đã viết, và điều đó không khác gì đối với con người.(20) Tự nhiên cho các sinh vật khả năng đối phó với một thế giới biến động không ngừng, và sự tò mò đã làm rất tốt điều đó khiến chúng ta không những chỉ chấp nhận những điều mới lạ mà còn ham muốn chúng. Khi khám phá thế giới là chúng ta tiến lên phía trước nó một bước.(2)

Những thử nghiệm tâm lý đã cho thấy, sự tò mò là một trong những biểu hiện ổn định nhất của tính cách, có ảnh hưởng to lớn đến cuộc sống con người. Những ai mà sự tò mò dễ dàng bị đánh thức vì một vấn đề cụ thể hay một con người cụ thể thì cũng dễ dàng tò mò về hầu hết mọi thứ trên đời.(22)

Nhu cầu đối với cái mới lạ của mỗi người là khác nhau. Có người trung thành với một công ty cho đến tận khi về hưu được tặng kỷ niệm chương cống hiến, trong khi người khác sẽ thử vận may ở chỗ mới vài năm một lần. Một số người sống trong một ngôi nhà từ lúc họ sinh ra cho đến hết cuộc đời, trong khi số khác thì nay đây mai đó. Đôi khi chúng ta có thể phân biệt được những đặc tính này khi nhìn xem người ta đi du lịch theo những cách nào. Những ai hào hứng đi đến cùng một cái resort nơi người ta nói được tiếng Anh thì ít bị nỗi tò mò kích động hơn những người mà với họ không có nơi nào là quá xa cả. Mọi người có thể ngạc nhiên bởi những người quá khác mình, nhưng sẽ là vô ích nếu cố gắng đào tạo lại những người hiếu động, hoặc những người trì trệ, vì mức độ cần kích thích mới ở mỗi người có lẽ là do bẩm sinh quyết định.

Một giả thuyết hiện đang thu hút sự quan tâm đã công nhận sự tồn tại của một loại thụ thể dopamine khác Có ảnh hưởng đến mức độ kích thích mà một người cần. Giả thuyết này tuyên bố rằng, người nào có những tế bào thần kinh chứa một lượng tương đối nhỏ các thụ thể gọi là D2 thì đặc biệt tò mò. Điều này đúng cho khoảng 25% dân số - trong gien của họ có một biến thể gây nên sự suy giảm việc sản xuất thụ thể này. Những tế bào thần kinh của họ ít phản ứng với dopamine hơn, nên họ cần nhiều dopamine hơn người khác để lấy lại trạng thái cân bằng. Những con người phiêu lưu này phải hoạt động tích cực hơn số còn lại chúng ta để tạo ra dopamine. Họ tìm kiếm những kích thích mới, họ muốn dây thần kinh được khuấy động, và họ sẵn sàng lao mình vào những tình huống mạo hiểm. Dược phẩm đưa ra một giải pháp thay thế để giải phóng dopamine, như chúng ta sẽ giải thích chi tiết hơn trong Chương 8. Quả thật, những người có mật độ thụ thể D2 thấp hơn thường dễ phụ thuộc vào chất gây nghiện và nicotine hơn người bình thường. 23)

Khoa học vẫn chưa có kết luận cuối cùng về giả thuyết D2. Nhưng không có thắc mắc nào về vai trò chính yếu của dopamine đối với sự tò mò cũng như sự phụ thuộc, và dường như có một mối quan hệ rõ ràng giữa khả năng xử lý dopamine của não bộ với xu hướng tò mò và nghiện ngập. Cái mà chúng ta vẫn chưa biết là mức độ ảnh hưởng của thụ thể D2 khi so sánh với những yếu tố khác.

Nếu như lý thuyết trên được chứng minh, sẽ không khó khăn gì để nhận diện một vài ứng viên nổi bật cho hội chứng phiêu lưu do gien quyết định. Casanova là một trường hợp kinh điển. Khi về già, ông không những viết trọn mười hai tập hồi ký,24 mà còn viết cả tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, trong đó có tiên đoán về ô tô, ti vi và máy bay. Xét cho cùng, sự tò mò không chỉ dẫn đến tìm kiếm cái mới lạ mà còn dẫn đến sáng tạo cái mới lạ nữa.

Món quà nhỏ duy trì trí thông minh

Các khách mời của nhà tâm lý học Alice Isen trường Đại học Cornell chẳng được tặng gì nhiều: một túi kẹo,vài đồng xu, và một lời nói đẹp (“Trông bạn rất tuyệt!”). Nhưng có ai mong chờ những hành động thân thiện như vậy lúc bắt đầu một buổi thí nghiệm tâm lý? Sự quan tâm nho nhỏ cũng tạo ảnh hưởng quyết định. Những người tham gia đều thuật lại rằng tâm trạng của họ cải thiện ngay tức khắc.

Ở trong và tự bản thân nó, điều này vốn dĩ đã đủ kỳ lạ rồi. Chẳng lẽ chỉ cần dăm cái kẹo nhỏ nhoi mà bất cứ ai cũng có thể tự mua lấy là đủ để xua đi những mối lo của chúng ta dù chỉ trong thời gian ngắn hay sao? Nói gì thì nói, những người Isen đã tuyển mộ cho thí nghiệm của mình đều là những bác sĩ dạn dày kinh nghiệm, kiểu người hiếm khi dễ bị mềm lòng vì đa cảm.

Nhưng mọi chuyện còn trở nên lạ lùng hơn. Trong lần thí nghiệm tiếp theo, nhà tâm lý đặt ra một nhiệm vụ khá quen thuộc với các bác sĩ - đối tượng thí nghiệm của bà: một trợ lý miêu tả vài bệnh lý đã được xác định rõ đang làm anh ta khổ sở, và các bác sĩ phải tiến hành chẩn đoán bệnh. Mỗi khi người trợ lý miêu tả một triệu chứng mới, Isen lại đề nghị các bác sĩ chẩn đoán dựa trên những thông tin họ nghe được cho đến thời điểm đó. Nếu như họ được tặng một món quà nhỏ trước buổi thí nghiệm, họ suy nghĩ rất sáng suốt và có được kết quả chẩn đoán mà chỉ mất nửa số công đoạn so với khi không được tặng quà. Mặc dù ở trong trạng thái hưng phấn, họ luôn nghiêm túc và theo cuộc thí nghiệm đến cùng một cách rất tận tình, dù rằng không đi đến kết quả gì mới.(25)

Có phải điều này nghĩa là chúng ta nên mang đến một món quà nhỏ khi có hẹn với bác sĩ? Không có lý do gì để không làm thế, nhưng phương pháp này sẽ không hiệu quả nếu lạm dụng quá mức. Giá trị của món quà kiểu này nằm ở chỗ bất ngờ. Nếu người nhận biết chuyện đó sẽ xảy ra thì hệ thống mong chờ của họ sẽ không nhúc nhích nữa.

Nhưng tại sao chỉ một vài cái kẹo đã biến những bác sĩ tình nguyện thành những nhà chẩn bệnh tốt hơn và giàu nhiệt huyết hơn? Món quà bất ngờ đã tăng nhẹ mức dopamine của họ. 262 Và dopamine đã kích thích những tế bào xám xử lý thông tin - cơ chế này cũng là nền tảng của tính tò mò. Như thí nghiệm lũ khí của Shultz cho thấy, dopamine đã gây ra mức độ hoạt động bất thường trong trí nhớ đang vận hành,nằm ở vùng thùy trước trán. Đây chính xác là thứ mà hệ thống đòi hỏi để sắp xếp dữ liệu khác nhau trong đầu chúng ta. Cũng thời điểm đó, dopamine tác động đến các trung tâm thần kinh nằm sâu hơn, kiểm soát chú ý và giúp tập trung tốt hơn. 27 Theo cách này, một bất ngờ thú vị sẽ khiến cho tư duy trở nên linh hoạt hơn.

Với hạnh phúc và sự hiểu biết

Dưới ảnh hưởng của chất dopamine, não bộ học cách để tạo ra các kết nối, vì chất truyền dẫn này giúp cho những tế bào thần kinh sẵn sàng tiếp nhận cái mới lạ. Dù là chuyện mối liên kết giữa một tín hiệu ánh sáng với sự mong đợi nho khô hay chuyện tạo ra bài thơ từ những mẩu câu rời rạc trong đầu nhà thơ, thì dopamine đều giúp loài vật có thể nhận ra những quy luật trong môi trường, như trong ví dụ đầu tiên, và giúp con người có thể tìm kiếm ý nghĩa trong thế giới, như ở ví dụ thứ hai.

Hệ thống não bộ dành cho ham muốn làm tăng thêm sự hiểu biết và khiến chúng ta sáng tạo hơn. Việc chúng thực hiện cả hai chức năng này chứng tỏ sự phát triển có tính tiến hóa của hạnh phúc, dẫn đến một sự hợp lực hiệu quả nhất. Tinh tinh trong vườn thú biết xếp các thùng chuối lại thành đống cao để có thể với tới những quả treo trên cao. Và loài người chúng ta cũng có những ý tưởng

để có thể sống tốt hơn và thỏa mãn những ham muốn của mình. Sự đồng tâm hợp lực giữa tính tò mò và ham muốn do dopamine tạo ra trong bộ não chính là cội nguồn của sự sáng tạo.

Nếu không có lượng bất thường chất truyền dẫn thần kinh này, bất kể là do tự nhiên, trị liệu hay dùng thuốc, thì nhiều tác phẩm nghệ thuật sẽ không bao giờ được tạo ra. Casanova, xét cho cùng, bị thôi thúc không chỉ hướng đến những chuyện phiêu lưu mà còn đến sự nghiệp văn chương lỗi lạc. Bệnh nhân của Oliver Sacks là Leonard đánh máy cuốn tự truyện của mình với tốc độ ánh sáng khi dược phẩm L-Dopa đột nhiên giải phóng quá nhiều chất dopamine trong não bộ anh. Và Jean-Paul Sartre viết những cuốn sách cuối cùng của mình trong cơm sáng tạo dâng trào do nhân tạo. Đối mặt với bệnh mù đang diễn tiến, triết gia có tuổi người Pháp đã uống amphetamine, loại thuốc làm tăng mức dopamine, nhằm nỗ lực giành chiến thắng trong cuộc chạy đua với thời gian.

Lượng dopamine quá lớn có thể dẫn con người vào thế giới đen tối của bệnh tưởng. Người bệnh tưởng nghi ngờ những ý nghĩa ẩn khuất trong khi không có gì ẩn khuất, họ nghe thấy âm thanh của cây cỏ đang mọc và thêu dệt những ý nghĩ vô lý.28) Nhưng ở trạng thái dịu nhẹ hơn những cảm giác này lại kích thích sự sáng tạo. Chúng khiến ta có thể nhìn thấy những liên kết ẩn giấu và kết hợp lại những thứ chưa từng được kết hợp với nhau. Những khả năng này chính là cội nguồn của mọi thành quả sáng tạo, bất kể là chúng liên quan đến việc sáng tạo ra một món ăn mới, đến thiết kế đồ nội thất hay lời giải cho một vấn đề toán học.

Tâm trạng, do vậy, ảnh hưởng đến khả năng tinh thần. Từ nhận thức mà những món quà nhỏ kia đem lại cho nhà tâm lý học Isen, ta có một bài học kép đầy lạc quan để học: một là, việc nâng cao tinh thần con người thật dễ dàng hai là, hạnh phúc và lý trí không loại trừ lẫn nhau. Ngược lại, những khả năng mà nhận thức này gợi ý ra lại nhiều vô kể. Sinh viên mà có thể cười và vui vẻ trong lớp học thì học dễ dàng hơn. Nhân viên thích thú với công việc của mình thì làm việc hiệu quả hơn.

Như câu châm ngôn nói: Não bộ vận hành bằng niềm vui.