⚝ 13 ⚝ Sức mạnh của nhãn quan
Não bộ chính là tổng đài trung tâm của những cảm giác tích cực. Không may, nó lại có xu hướng quanh co vòng vèo theo những cách mà đôi khi ngăn cản khả năng hạnh phúc của ta. Chúng ta chấp nhận những trò lừa bịp này của trí não không phải vì chúng hữu ích, mà bởi vì ta không ý thức được chúng.
Ví dụ, mặc dù chúng ta hầu như không có khả năng tưởng tượng ảnh hưởng của một tình huống lạ đối với tâm trạng của mình, nhưng bộ não sẽ phóng đại những hệ quả của cả kỳ vọng tiêu cực lẫn tích cực lên nhiều lần. Chẳng hạn, bạn hãy tự hỏi mình xem bạn có sống tốt hơn không nếu a) bạn trúng xổ số, hoặc b) (mong sao chuyện này không bao giờ xảy ra) bạn gặp tai nạn và bị cầm tù trên chiếc xe lăn.
Giả sử, như hầu hết những người khác, bạn muốn trở thành triệu phú. Một số người thậm chí tuyên bố họ thà chết còn hơn bị liệt hai chân. Nhưng như các nhà khoa học Mỹ đã cho thấy, kiểu giả định này không mấy liên quan đến những cảm giác thực mà người ta có những năm sau khi bị tai nạn. Trong một nghiên cứu được coi là nghiên cứu xã hội kinh điển, các nhà điều tra đã thăm dò ý kiến của những người có cuộc sống yên ổn, đồng thời cũng hỏi cả những người đã trúng xổ số thực sự và những nạn nhân bị tai nạn, về cảm giác hài lòng cuộc sống. Họ khám phá ra rằng mọi người đã thích nghi rất tốt với cả hoàn cảnh may lẫn rủi. Trúng một triệu đô la không hề đảm bảo cho hạnh phúc kéo dài mãi, và sự hài lòng cuộc sống của những người liệt hai chân lớn hơn nhiều so với mọi người nghĩ. Đương nhiên là trong một vài tuần, người trúng số như trên chín tầng mây, trong khi người bị liệt than khóc vì không còn đi lại tự do được nữa. Nhưng không lâu sau đó mọi thứ dường như lại như xưa. Người mới giàu không còn cảm thấy ngất ngây nữa, bởi vì lúc ấy việc lái một chiếc Mercedes thay vì chiếc Chevy cũ kỹ đã trở thành bình thường. Sự khác biệt là bây giờ họ đang mơ về một chiếc Ferrari. Trong khi đó, người trên xe lăn đã quen với sự giúp đỡ của người khác. Sau một khoảng thời gian suy sụp, hầu hết họ đã lấy lại sức sống cảm xúc gần như hoàn toàn, và mức độ thỏa mãn của họ tính trung bình không thấp hơn bao nhiêu so với người khỏe mạnh. Dù là tai nạn hay trúng số, nếu bạn đã sẵn sàng chấp nhận trước cuộc đời mình thì bây giờ bạn cũng sẽ như vậy. Còn một kẻ ưa phàn nàn thì mãi vẫn là một kẻ ưa phàn nàn mà thôi.
Điều này thậm chí có thể áp dụng nhiều hơn đối với những thay đổi ít quan trọng hơn trong cuộc sống. Chúng ta làm những cuộc đầu tư với kỳ vọng sẽ giàu có hơn và do đó sẽ hạnh phúc hơn. Chúng ta thay đổi công việc vì nghĩ rằng sẽ có được nhiều sự thỏa mãn hơn từ công việc mới. Chúng ta chuyển nhà với hy vọng sẽ cảm thấy dễ chịu hơn trong một môi trường mới. Nhưng rốt cuộc thì cuộc sống vẫn trôi đi như xưa nay vẫn vậy thôi.
Không phải thay đổi như vậy là không quan trọng. Song chúng ta thường đánh giá quá mức tác động của nó đối với sự hài lòng cuộc sống của ta. Bởi vì chúng ta sẽ rất nhanh chóng quen với cả những thay đổi tích cực lẫn tiêu cực, hoàn cảnh bên ngoài tác động đến cảm giác hạnh phúc của ta ít hơn nhiều so với chúng ta tưởng. (Có những ngoại lệ, như những cơn đau đớn kinh niên do bệnh viêm khớp, và tiếng ồn - thứ mà rất nhiều người không bao giờ quên được.2) Những người nhạy cảm với tiếng ồn sẽ không bao giờ tin người môi giới bất động sản khi họ thuyết phục rằng chẳng mấy chốc bạn sẽ hầu như không còn nghe thấy tiếng huyên náo từ đường phố bên dưới cửa sổ nữa).
Khi phán xét cuộc đời mình, chúng ta thường nhầm lẫn giữa sự thỏa mãn với hạnh phúc. Vậy khác biệt là gì? Hạnh phúc là điều mà chúng ta cảm thấy tại cùng một thời điểm chúng ta trải nghiệm. Nó tồn tại chỉ ở hiện tại. Thỏa mãn là cái vẫn còn lại trong đầu. Nó được tạo ra khi hồi tưởng lại quá khứ, như một bài báo đánh giá một bộ phim qua vài dòng viết.
Ai đó hỏi rằng chúng ta có hạnh phúc trong căn hộ mới hay không có lẽ sẽ nhận được câu trả lời thể hiện sự hài lòng của ta, bởi vì chắc hẳn chúng ta sẽ không trước hết thuật lại từng phút một kể từ khi ta chuyển đến căn hộ mới. Nói chung, những người luôn trải nghiệm những khoảnh khắc hạnh phúc thì cũng hoàn toàn thấy thỏa mãn. Tuy nhiên, có thể thỏa mãn mà không thấy hạnh phúc. Tương tự, cũng có những người cảm thấy hạnh phúc nhưng lại đang nuôi dưỡng một cảm giác bất mãn. Điều này nghe không có gì nghiêm trọng cả, nhưng việc nhầm lẫn hai khái niệm có thể dẫn đến những quyết định sai lầm và sẽ phải trả một cái giá rất đắt cho hạnh phúc của ta.
Bẫy #1: Tự lừa dối bản thân
Chúng ta dành thời gian cho công việc nhiều hơn là cho gia đình và bạn bè. Không có gì ngạc nhiên khi mọi người tập trung thật nhiều sức lực để có được nghề nghiệp phù hợp và được làm việc trong môi trường tương thích.
Chẳng hạn, nếu là giáo viên, bạn chắc chắn sẽ coi việc dạy học ở một trường tốt sẽ thú vị và thỏa mãn hơn nhiều so với dạy ở một trường tồi, đặc biệt là ở Mỹ, nơi một trường tồi có nghĩa là luôn phải có máy dò kim loại để phát hiện vũ khí trong cặp sách, sách vở thì ít ỏi, phòng học bị phá hoại, những kẻ buôn bán ma túy trên đường phố kế bên, và bọn côn đồ tấn công giáo viên.
Ngược lại, trong lớp học ở các trường tốt, bọn trẻ, con của các luật sư, bác sĩ và doanh nhân, được nuôi dưỡng để thành công, cũng như ở nhà chúng vậy. Phụ huynh sẵn sàng trả học phí cao, và lớp học được trang bị máy tính cá nhân đời mới nhất, có kết nối Internet. Những đứa trẻ gặp vấn đề gì lập tức có các giám hộ hoặc nhà tâm lý lo liệu. So sánh với những vùng nghèo khó, công việc trong những ngôi trường này thật dễ dàng, và không ít thì nhiều đều đảm bảo thành công.
Nhưng các giáo viên lại nhìn vấn đề hoàn toàn khác. Để hiểu được tác động của môi trường làm việc đối với sự thỏa mãn, nhà xã hội học Norbert Schwarz đã gửi một số giáo viên ở Houston, Texas - 200 người ở các trường tốt và
200 người ở các trường tồi - bảng câu hỏi về ngày làm việc của họ để họ điền vào mỗi tối. Họ được hỏi công việc có thỏa mãn họ không, họ có cảm thấy hạnh phúc không, và nói chung cuộc sống của họ mãn nguyện thế nào. Kết quả thật ngạc nhiên: cả giáo viên nội thành lẫn ngoại thành đều trả lời tương tự nhau. Phải chăng họ thực sự miễn dịch với những nỗi sợ hãi và sự thất bại hằng ngày(13)
Schwarz muốn có những câu trả lời chính xác hơn. Ông trang bị cho mỗi giáo viên một chiếc máy tính cầm tay Palm, nó phát tín hiệu mỗi giờ đồng hồ. Khi các giáo viên nghe thấy tiếng bíp, họ sẽ ghi lại mức hạnh phúc của mình vào chiếc PDA đó. 44 (Những giáo viên nào không muốn bị gián đoạn có thể nhập thông tin sau giờ giảng bài). Số liệu thống kê này cho thấy một bức tranh khá khác biệt: những giáo viên ở trường tốt thì tinh thần hào hứng vào buổi sáng. Khi về nhà ăn trưa, tâm trạng của họ rơi trở lại mức bình thường. Còn các giáo viên dạy ở trường tồi cho kết quả ngược hẳn lại: trong những giờ phải lên lớp, mức hạnh phúc của họ xuống thấp, nhưng khi tan trường, mức hạnh phúc lại cải thiện.
Đó là cách người thua thiệt đánh giá cuộc sống của họ. Giáo viên ở những khu vực nghèo nàn không ý thức được mức độ bị ảnh hưởng bởi môi trường nguy hiểm nơi họ đang làm việc. Còn đồng nghiệp của họ trong những trường tốt thì đánh giá thấp niềm vui thú với công việc của mình. Cả hai nhóm đều bị hại bởi nhãn quan lệch lạc của mình: các giáo viên ở trường tôi không nghĩ ra rằng đáng lẽ họ cần tìm công việc tốt hơn hay chiến đấu để có được điều kiện làm việc tốt hơn, trong khi đó nhóm kia không nhận ra họ đang có công việc tốt như thế nào, và cảm thấy ít hài lòng hơn họ lẽ ra phải cảm thấy.
Vậy thì cái gì đã sai? Trí nhớ của các giáo viên đã đánh lừa họ. Thay vì nhớ những cảm xúc của mình như chúng thực sự là thế, họ lại đánh giá chúng dựa trên những quy chuẩn mà họ đã quen thuộc. Khi được hỏi vào buổi tối họ cảm thấy hạnh phúc như thế nào, các giáo viên trường tồi xác nhận rằng ngày hôm đó của họ cũng như bất kỳ ngày nào khác - theo tiêu chuẩn đó thì là được. Họ đã không nhận ra mình thực sự cảm thấy thế nào trong công việc. Quá trình tương tự (nhưng ngược lại) cũng xảy ra trong đầu óc các đồng nghiệp có may mắn hơn của họ.
Cả hai nhóm giáo viên đều nhầm lẫn giữa hạnh phúc và thỏa mãn. Một nhóm hạnh phúc, một nhóm không hạnh phúc, mặc dù cả hai đều mãn nguyện một cách hợp lý. Cả hai đều hoàn toàn tự lừa dối bản thân về cái mang lại cho họ cảm giác hạnh phúc. Đôi khi chúng ta không hiểu cuộc sống của chính mình.
Bạn sẽ hỏi, điều gây tổn hại là gì? Rất nhiều. Những cảm xúc như sợ hãi và suy sụp có thể gây ra căng thẳng, ngay cả khi chúng ta không nhận thức chúng một cách có ý thức. Và như nhiều nghiên cứu đã chứng minh, căng thẳng khiến con người ốm đau, làm suy yếu hệ thống miễn dịch, tăng nguy cơ bệnh tim mạch, chưa kể nhiều bệnh tật khác.
Bẫy #2: Chọn thời điểm tồi
Bạn vừa có một buổi tối tuyệt vời, nhưng ngay khi bạn chuẩn bị rời khỏi bữa tiệc và đang mặc áo khoác, một người bạn cũ chen qua mà thậm chí không chào. Thế là buổi tối tuyệt vời đã tiêu tan. Điều này cho thấy trí nhớ nắm bắt thực tại một cách lỏng lẻo đến thế nào - đôi khi chỉ vài giây cũng đáng kể hơn mấy tiếng đồng hồ.
Tâm trí che phủ thực tại bằng màu sắc riêng của nó, và đôi khi nó thậm chí còn biến sự thật trở thành điều ngược lại. Không có gì phải ngạc nhiên. Bởi vì, như tôi đã miêu tả ở Chương 4, mỗi một kích thích bên ngoài có thể khiến cho vài triệu tín hiệu trong não bộ được kích hoạt. Não bộ có thừa đủ cơ hội để nhào nặn thực tại, và nó thoải mái lợi dụng các cơ hội đó.
Bằng việc bóp méo những ký ức về cảm giác của mình, chúng ta tham gia vào một hành động tinh thần giống như một tội ác hoàn hảo và không ai khám phá được: chúng ta đã che giấu các dấu vết của mình. Không có cách nào để có thể kiểm tra một cách khách quan cái chúng ta thực sự cảm thấy tại bất cứ thời điểm cụ thể nào. Trong khi có thể đọc được cảm xúc từ những phản ứng của cơ thể, thì cảm giác lại là vấn đề hoàn toàn riêng tư chỉ tồn tại trong bộ não, và nếu não bộ đã xóa sạch dấu vết của nó thì chỉ những manh mối gián tiếp còn lại mà thôi - nếu như còn.
Nhà tâm lý học xã hội đoạt giải Nobel Daniel Kahneman thuộc Đại học Princeton đã tìm ra một cách để nắm bắt những trò lừa dối này và làm phơi bày những quy luật phía sau. Ông yêu cầu các bệnh nhân đã trải qua một cuộc khám bệnh khó chịu ghi lại sự đau đớn của họ theo thang điểm từ một đến mười, từng phút từng phút một. Tổng điểm mang lại một chỉ số có thể định lượng được sự không thoải mái của họ.
Song việc khám đối với mỗi nhóm một khác. Một nhóm được khám theo phương pháp tiêu chuẩn, trong đó sự đau đớn tăng dần trong suốt quá trình điều trị và kết thúc đột ngột. Với nhóm thứ hai, các bác sĩ kéo dài thời gian khám hơn một chút để cho sự đau đớn giảm dần đi trước khi việc khám bệnh kết thúc. Các bệnh nhân ở nhóm thứ hai phải chịu sự khó chịu dài hơn và do vậy điểm của họ cũng “cao hơn một cách tương ứng.
Nhưng sau đó khi được hỏi, chính nhóm thứ hai cho biết rằng họ ít đau đớn hơn. Việc họ phải chịu đựng nhiều hơn cả về mặt khách quan (thời gian điều trị dài hơn) lẫn chủ quan (điểm số cao hơn) dường như không còn quan trọng nữa. Các bệnh nhân này hài lòng hơn với quá trình chữa bệnh gây ra sự khó chịu kéo dài và thậm chí họ còn sẵn sàng tham gia lần khám thứ hai (do đó chứng tỏ cuộc kiểm tra dài hơn là đúng, mặc dù nó không cần thiết cho việc chẩn đoán).
Trong trường hợp này, người ta cũng bị trí nhớ của mình chơi khăm, nó lờ đi độ kéo dài của một cảm giác - một phát hiện mà Kahneman có thể chứng thực bằng những thí nghiệm khác. Não bộ chỉ lưu giữ ký ức về cảm giác ở cường độ mạnh nhất và ở những khoảnh khắc cuối cùng của nó. Thời khắc khó chịu nhất là giống nhau ở cả hai quy trình chẩn bệnh, song những giây phút cuối cùng của cuộc khám bệnh kéo dài hơn đã bớt khó chịu đi, đó là lý do tại sao bệnh nhân thích nó hơn. Chỉ ấn tượng cuối cùng ở lại. Bộ não của chúng ta muốn một kết cục có hậu. 4)
Chúng ta có thể áp dụng cơ chế tự động bóp méo này trong đời sống hằng ngày. Rời khỏi bữa tiệc vào đỉnh điểm cuộc vui là sáng suốt, bởi vì đó sẽ là trải nghiệm cuối cùng được tính đến. Và Cố gắng học theo người biết cách hưởng thụ những giây phút ngắn ngủi của niềm hạnh phúc tuyệt vời là một việc rất đáng làm, vì trí nhớ luôn lưu lại những đỉnh cao này mà thôi.
Bẫy #3: Những kỳ vọng hão
Sự kỳ vọng thậm chí còn bóp méo cảm giác và cảm xúc của ta hơn cả trí nhớ. Những vận động viên không có thứ hạng gì có thể kể một hai câu chuyện về sự thật này. Đạt được huy chương bạc tại Thế vận hội Olympic mang lại vinh quang, nhưng một huy chương đồng lại khiến người ta hạnh phúc hơn. Trong khi những á quân điền kinh mơ tưởng họ đạt đỉnh cao nhất nhưng rồi thất vọng vì đã để vuột mục tiêu chỉ trong một phần mười giây, thì những người đạt huy chương đồng lại cảm thấy tuyệt vời - nhà tâm lý học xã hội Victoria Medcec đã phát hiện ra điều đó tại Thế vận hội Barcelona năm 1992. Những người về vị trí thứ ba rất hạnh phúc vì họ đã có được một chiếc huy chương và được ghi vào sách kỷ lục, trong khi những người đạt huy chương bạc lại chủ yếu chỉ biết cái họ vừa trượt mất (5) “Vì chẳng có gì là tốt hay xấu, chính suy nghĩ khiến nó thành như vậy,” Hamlet nói.
Vậy phải chăng những người bị quan cảm thấy hài lòng hơn vì thực tại chỉ có toàn những điều bất ngờ thú vị dành cho họ? Người ta thường tuyên bố như vậy. Nhà tâm lý học xã hội Allen Parducci thậm chí đã phát triển cả một lý thuyết về hạnh phúc dựa trên ý tưởng rằng hạnh phúc chính là kết quả của những hy vọng khiêm tốn. Ông cũng tin rằng những khoảnh khắc hạnh phúc tháng hoặc chỉ khiến cho con người bất hạnh mà thôi, bởi vì họ luôn nâng mức kỳ vọng lên. Ông viết, “Nếu điều tốt đẹp nhất hiếm khi xảy đến, tốt hơn cả là không nên tính đến nó trong các trải nghiệm một chút nào.”(6) Bí quyết của hạnh phúc là phải có nhiều những trải nghiệm tồi tệ: trông đợi điều xấu nhất, sau đó chúng ta sẽ ngạc nhiên một cách dễ chịu rằng rốt cuộC cuộc sống đã không làm hại ta, Parducci tuyên bố vậy.
Parducci đã sai. Thí nghiệm của ông dựa trên những trò chơi may rủi được điều khiển không thể áp dụng vào cuộc sống hằng ngày phức tạp. Chủ nghĩa bi quan nuôi dưỡng sự lo lắng và khắc khoải thái quá, cái làm suy giảm khả năng hạnh phúc. Thêm nữa, nó cũng thường ngăn chặn những trải nghiệm tích cực, bởi vì chúng ta hy vọng điều tốt đẹp nhất hay sợ điều tồi tệ nhất, chính đó mới là cái quyết định thái độ của ta khi đối diện với một tình huống. Chán nản không phải là một động lực tốt.
Một sinh viên nghĩ mình không có cơ hội qua được bài kiểm tra thì ngay từ đầu đã không tìm thấy nguồn vui trong học tập. Lạc quan là một động lực không thể thiếu. Như nhiều nghiên cứu đã cho thấy, những người lạc quan không những hạnh phúc hơn mà còn là những sinh viên, vận động viên, doanh nhân thành công hơn. Trong những vấn đề mà ít nhất chúng ta kiểm soát được một phần nào đấy thì sự chan chứa hy vọng có tính thực tế là rất có ích. Chỉ có ai luôn mang nhãn quan màu hồng phóng đại về tương lai thì dễ bị thất vọng mà thôi. Một sinh viên thông minh kỳ vọng được điểm tốt, chứ không phải điểm 10+.
Bẫy #4: Những cái liếc xéo
Có ai trong chúng ta chưa từng ghen tị với hàng xóm hay đồng nghiệp, những người dường như luôn làm mọi thứ tốt hơn ta? Nhưng ghen tị lại có quan hệ qua lại. Hóa ra những người chúng ta ghen tị lại chính là những kẻ nhìn chúng ta với niềm ngưỡng mộ đầy tức tối, ném cái liếc xéo vào hạnh phúc của ta - đây là một hiệu ứng mà nhà tâm lý học xã hội Ed Diener đã cho thấy bằng thống kê (8) Một trong hai nhóm nhất định sai. Hoặc có lẽ cả hai?
Không có một chuẩn mực khách quan nào cho sự thỏa mãn cả. Những niềm hy vọng và nỗi sợ hãi cung cấp phương tiện để chúng ta đánh giá thực tại. Thường thì chúng ta phải so sánh mình với người khác để xác định xem chúng ta là vua, là hoàng hậu hay kẻ thua cuộc. “Nếu mọi người chỉ muốn hạnh phúc thì không khó khăn gì, nhưng họ lại muốn hạnh phúc hơn những người khác - và điều này luôn rất khó bởi vì chúng ta cứ tưởng tượng những người kia hạnh phúc hơn là họ thực sự cảm thấy.” triết gia Montaigne viết.(9)
Người so sánh luôn là người thua cuộc. Ném những cái liếc xéo vào người khác không chỉ khiến ta phụ thuộc vào họ mà còn dẫn đến những quyết định tồi tệ. Norbert Schwarz đã chỉ ra chúng ta tự lừa phỉnh bản thân bằng thứ nhận thức ít ỏi và mơ hồ ra sao. Ông xem xét sự hài lòng cuộc sống của những cặp đôi - chúng ta thường nghĩ nó liên quan rất ít đến đời sống tình cảm của những người bên cạnh.
Nhưng không phải như vậy. Schwarz đã hỏi những nam sinh viên từng sống với phụ nữ về đời sống tình dục của họ. Giữa đủ loại câu hỏi đa dạng, ông muốn biết những người nam trẻ tuổi có thường xuyên thủ dâm không. Họ sẽ trả lời vào bảng câu hỏi với hai phiên bản mà không cần cho biết tên. Một nhóm được phát cho phiên bản có thang mức độ từ “dưới một lần một tuần cho đến “vài lần một ngày”. Hầu hết họ đều đánh dấu vào một hoặc hai lần một tuần (tức là khoảng giữa thang mức độ), mà theo như hầu hết các nghiên cứu thì đó là câu trả lời được người ta mong đợi. Các khả năng được đưa ra cho nhóm kia dịch chuyển từ “không bao giờ cho đến vài lần một tuần”, khiến cho câu trả lời ở mức trung bình trở thành mức cao nhất trong thang mức độ và do vậy gọi ra điều gì đó bất thường. Những sinh viên này chỉ có thể rút ra kết luận là họ đang thủ dâm quá nhiều - một suy nghĩ lo lắng, đặc biệt là khi câu hỏi về tần suất quan hệ tình dục với bạn tình cũng được đánh giá theo những thang mức độ được kiểm soát. Họ có lẽ sẽ tự hỏi một cách rất nghiêm trọng: liệu có gì không ổn xảy ra với mối quan hệ của mình không?
Sau khi có kết quả điều tra, Schwarz đã xác định rằng các sinh viên ở nhóm thứ hai thực sự bị những nỗi nghi ngờ đó làm cho lo lắng và biểu hiện nhiều bất mãn về mối quan hệ hiện tại của họ hơn mức bình thường. Và những sinh viên nam này cũng cho thấy rồi sau họ sẽ dễ ngoại tình hơn. Vậy là,những phán xét tùy tiện và thường là vô ý thức thực sự ảnh hưởng đến cuộc sống của ta.(10)
Mọi người trải nghiệm những tình huống như vậy hầu như hằng ngày, mặc dù đấy thường không phải là những thí nghiệm ngụy tạo khiến ta bất mãn cũng như dẫn ta đến những kết luận sai lầm. Có cả một đội quân người mẫu làm chúng ta tin rằng một thân hình lý tưởng và một làn da hoàn mỹ là hoàn toàn bình thường. Những câu chuyện mà mẹ của các trẻ khác hay kể cho ta nghe khiến ta nghĩ con cái mình là lũ hỗn xược và hư hỏng. Và ai trong chúng ta đã đọc các trang báo kinh doanh viết về những vị giám đốc thành công siêu việt thì có lẽ đều coi cuộc sống của mình là vứt đi. Không như những người tham gia thí nghiệm của Schwarz cuối cùng đã được kể cho nghe về trò lừa dối, trong đời thường chúng ta luôn phải tự nhắc nhở mình rằng thói quen so sánh có thể khiến ta lầm lạc trầm trọng như thế nào.
Bẫy #5: Ghen tị
“Điều gì khiến một người gù lưng hạnh phúc? - Đó là khi anh ta nhìn thấy một cái lưng gù còn to hơn”, câu thành ngữ tiếng Yiddish 45 khẳng định. Sung sướng trong nỗi bất hạnh của người khác - sự sung sướng trên đau khổ của kẻ khác - Có thể làm ta thỏa mãn bởi vì những khoảnh khắc như vậy đã đưa niềm hạnh phúc của ta vào trạng thái khuây khỏa tích cực. Và những thí nghiệm tâm lý học đã xác nhận cái sự thật đáng buồn là chỉ cần nhìn thấy ai đó ngồi trên xe lăn cũng đủ khiến cho hầu hết mọi người phấn chấn tinh
1. Ngôn ngữ bắt nguồn từ tiếng Đức chuẩn, nhưng viết bằng chữ Do Thái, ban đầu người Do Thái sinh sống ở Đức sử dụng, sau đó lan rộng ra khắp thế giới thần và dẫn đến cảm giác thỏa mãn cao, theo đánh giá trên bảng điều tra (11)
Nhưng đó chỉ là dễ chịu tạm thời. Rất dễ dàng tìm ra những người kém may mắn hơn, nhưng đồng thời chúng ta cũng luôn tìm thấy những người có thể ghen tị. Thậm chí thành công lớn nhất của ta cũng dễ bị tổn thương. “Nếu bạn muốn vinh quang, bạn có lẽ sẽ ghen tị với Napoléon. Nhưng Napoléon Lại ghen tị với Caesar,Caesar ghen tị với Alexander, và Alexander, tôi dám cá thế, lại ghen tị với Hercules, người chưa từng tồn tại,” Bertrand Russell 46 đã viết (12)
Các nhà tâm lý học tiến hóa đã cố giải thích tính ngoan cố của lòng ghen tị theo thuyết sự tồn tại của kẻ mạnh nhất 47 của Darwin: khi mọi người cạnh tranh với những người khác theo bản tính tự nhiên, có đủ không thôi là chưa đủ - chỉ ai mạnh hơn và có nhiều hơn người khác mới tồn tại. Đó là lý do tại sao chúng ta được lập trình để ghen tị.
Rất khó chứng minh cũng như phủ nhận có thực sự đúng thế hay không. Ghen tị có lẽ có một mục đích tiến hóa, nhưng điều đó không có nghĩa nó là bẩm sinh. Tuy nhiên, đúng là con người luôn ghen tị, ngay cả khi điều nó gây tổn hại cho cả chính họ - miễn sao sự tổn hại đối với người khác là lớn hơn. Chẳng hạn, trong suốt một cuộc xung đột về lượng ở một nhà máy sản xuất tuabin máy bay của Anh, công nhân sẵn sàng hy sinh phần nào thu nhập của họ miễn là nhóm công nhân cạnh tranh kiếm được ít hơn. Sự ngớ ngẩn đó đã khiến ngay cả các nhà tâm lý học xã hội nghiên cứu trường hợp này cũng ngạc nhiên.13) Tất nhiên các công nhân này biết rằng lập trường của họ là trực tiếp chống lại các thành viên khác trong nghiệp đoàn, nhưng trong đầu họ đó là vấn đề công bằng.
Ghen tị thường là vô nghĩa, ngay cả khi nó có thể hiểu được theo cách nông cạn nhất. Thường chúng ta hay ghen tị với những người nói chung không sung sướng như chúng ta nghĩ: chúng ta nhìn thấy các ưu thế, nhưng không nhìn thấy các hạn chế. Chúng ta khó chịu bởi thành công của người khác nhưng lại không nhận ra cái giá mà họ đã phải trả. Đối với kiểu suy nghĩ này, triết gia Khắc kỷ Epictitus 48 đã tìm ra một ví dụ chí lý và những lời thâm thúy từ hai nghìn năm trước: “Ai đó đã không tỏ thiện ý với bạn? Bạn không được mời ăn tối? Nhưng bạn đã không phải trả giá cho những đòi hỏi của chủ nhà; anh ta sẽ mời bạn để đổi lấy những lời tán tụng và sự ủng hộ. Nếu bạn nghĩ rằng đáng như vậy thì hãy trả cái giá đó. Nếu bạn muốn một bữa ăn mà không mất gì, thì bạn đúng là vừa vô liêm sỉ vừa đần độn.”(14)
Chúng ta không cần phải phán xét nghiệt ngã như Epictitus. Có lẽ chúng ta thực sự được sinh ra với khuynh hướng ghen tị, trong trường hợp ấy nó sẽ là một cảm xúc khó mà bỏ được. Nhưng chỉ cần suy nghĩ sáng suốt một chút, chúng ta có thể dẫn tính ghen tị vào những con đường đúng đắn hơn và giúp ta nhận biết được những mong ước của mình tốt hơn.
Bẫy #6: Cuộc tranh đua nghiệt ngã
Với một quảng cáo tuyên bố rằng nếu tiền không khiến bạn hạnh phúc thì tức là bạn đang tiêu tiền kém khôn ngoan, Lexus đã bán được những chiếc limo sang trọng cho nhiều người, trong đó có Bill Gates. Tiền bạc có thể thực sự tuyệt vời. Nếu có đủ tiền, bạn có thể đi taxi về nhà, trong khi những người khác chờ xe buýt dưới mưa. Có tiền chúng ta trở nên hấp dẫn và gợi cảm hơn, vì quần áo đẹp, tóc tai đẹp rất đắt. Tiền bạc cho chúng ta tự do - nó trả công người giữ trẻ khi ông bố bà mẹ muốn đi chơi buổi tối. Những người không những kiếm tiền giỏi mà còn thực sự giàu có thì độc lập và có thể sống với ước mơ của mình. Thay vì bị sếp đốc thúc Công việc và phải xoay xở với kỳ nghỉ hai tuần, bạn tự do đi du lịch, lập ra công ty riêng và khởi sự một dự án từ thiện.
“Tôi đã nghèo, tôi đã giàu, và tôi có thể nói với bạn rằng: giàu có thì tốt hơn,” ca sĩ Sophie Tucker nói. Ai không đồng ý được chứ? Vào năm 2004, theo chương trình Nghiên cứu Sinh viên Mỹ năm thứ nhất, một cuộc điều tra tầm quốc gia do Đại học California tại Los Angeles thực hiện, có đến 78% sinh viên coi tiền bạc là “rất quan trọng” hoặc “tối cần thiết” để có thể sống “sung túc về mặt tài chính.” Nhà tư sản mác xít Bertolt Brecht 49 cũng đưa ra một quan điểm tương tự: “Bạn sống thoải mái chỉ khi bạn sống sung túc.”
Tuy nhiên, đáng ngạc nhiên là người ta nhìn thấy rất ít tác động của tiền bạc khi phỏng vấn mọi người về sự hài lòng của họ. Tiền bạc có làm tăng hạnh phúc hay không vẫn là một câu hỏi trung tâm trong tất cả các xã hội tư bản, và các nhà khoa học xã hội đã rất nỗ lực nhằm trả lời câu hỏi này. Chính xác có 154 cuộc điều tra quy mô lớn nhắm tới vấn đề này được thực hiện từ sau Thế chiến II ở châu Âu, Mỹ và nhiều nước khác.
Tất cả đều đi đến cùng một kết luận: tiền bạc Có mang lại sự thỏa mãn, nhưng tác động không nhiều. Có thêm vài trăm hoặc thậm chí vài nghìn đô la vào bảng lương của bạn thì cũng như uống sâm banh thượng hạng thay vì sâm banh thường: bạn khó mà nhận ra sự khác biệt. Ngay cả với giới siêu giàu thì tác động của tiền bạc cũng khó có thể đo lường. Nhà tâm lý học Ed Diener qua những cuộc phỏng vấn đã nhận định rằng mức độ hài lòng cuộc sống của năm mươi người Mỹ giàu nhất (có tài sản trên một trăm triệu đô la mỗi người) cũng không hơn mức bình thường bao nhiêu.15) Và hầu hết các triệu phú đều đồng ý với quan điểm rằng tiền bạc có thể làm con người hạnh phúc hoặc bất hạnh - một tình huống mà nhà tâm lý trị liệu Jense Corssen đã tiếp cận bằng cách tổ chức những buổi hội thảo chuyên đề cho con em của các doanh nhân, ở đó chúng được dạy cách sống với gia tài thừa kế. Giàu có không nhất thiết nghĩa là có hại, ông hứa hẹn. “Tôi dạy bọn trẻ biết sống hạnh phúc bất kể sự giàu có của chúng.”(16)
Có những yếu tố còn quan trọng hơn nhiều so với tài khoản ngân hàng trong việc quyết định sự hài lòng của chúng ta. Chỉ khi nào ta đang ở tận đáy của thang thu nhập thì việc có nhiều tiền bạc hơn mới đem lại sự cải thiện rõ rệt.(17) Nếu một bà mẹ đơn thân làm việc ca tối phải đứng trong món khoai tây chiên kiểu Pháp ngậy mỡ cả đêm, kiếm chỉ đủ cho bản thân và lũ trẻ duy trì cuộc sống, thì mỗi một đồng đô la đều cải thiện cuộc sống của Cô đáng kể. Cô ta có thể có công việc với lịch làm việc tốt hơn, có thể dành nhiều quan tâm cho lũ trẻ hơn, và không phải dằn vặt bản thân vì không có tiền đưa cho bọn trẻ đi chơi cùng lớp chúng. Một thu nhập thỏa mãn tối thiểu được xác định không chỉ bởi những nhu cầu cơ bản nhất như ăn và ở. Sự nghèo khổ cũng được xác định bằng tiêu chuẩn thu nhập của những người xung quanh ta. Lũ trẻ cùng lớp của con mình càng ăn mặc điện thì người mẹ khốn khổ càng phải tiêu nhiều tiền vào quần áo của con cái để chúng không bị trêu chọc.
Nhưng ngay khi thu nhập vượt qua được ngưỡng nghèo khổ này thì mối quan hệ giữa giàu có và hạnh phúc biến mất. Khi chúng ta được tăng lương, hạnh phúc của chúng ta chỉ kéo dài bằng khoảng thời gian chúng ta còn cảm thấy mức sống cao hơn kia là thứ gì mới mẻ. Nếu bạn kiếm được ba mươi nghìn đô la, thì người kiếm gấp ba lần dường như sống rất sung túc. Nhưng cô ta lại nhìn nhận vấn đề hoàn toàn khác. “Ông sẽ làm gì nếu bỗng nhiên có một triệu mác?” nhà ngân hàng Đức Josef Abs từng được hỏi. Ông ta trả lời: “Tôi thực sự phải trả bớt lại.”
Niềm hưng phấn vì có thể ăn ở những nhà hàng sang hơn, CÓ ô tô đẹp hơn và căn hộ to hơn nhanh chóng tan biến. Những cơ chế thích nghi tương tự như lũ khi chẳng mấy chốc không còn thích thú những quả nho khô bắt đầu vận hành. Nhà tâm lý học xã hội Donald Campell đã gọi cuộc tranh đấu vô ích này là “guồng quay buồn tẻ của chủ nghĩa khoái lạc.”(18)
Và tồi tệ hơn: theo đuổi danh vọng và tiền bạc còn làm suy giảm sự hài lòng cuộc sống. Một vài nghiên cứu gần đây đã làm cho tham vọng trông giống như một dụng cụ tra tấn thực sự. Như các nhà tâm lý học xã hội người Mỹ là Richard Ryan và Tim Kasser, cùng với đồng nghiệp người Đức của họ là Peter Schmuck đã khám phá ra trong những cuộc điều tra quốc tế quy mô lớn rằng, những người đặc biệt coi trọng tiền bạc, thành công, danh vọng và vẻ hào nhoáng bề ngoài thì lại thỏa mãn với cuộc sống ít hơn những người luôn cố gắng quan hệ tốt hơn với người khác, phát huy tài năng của họ, và năng động trong các công việc xã hội. Cuộc tranh đua nghiệt ngã - chạy theo sự thừa nhận về tiền tài và vị thế - không mang lại lợi lộc gì. Ngay cả việc thực hiện được những mơ ước cũng không thể bù đắp cho tham vọng: giàu có và thế lực không hề đem lại cho họ hạnh phúc, bởi vì ngay khi đạt được ham muốn, họ lại bắt đầu hướng đến một ham muốn mới (19)
Theo những nghiên cứu này, tham vọng lớn có nguy cơ kéo theo lo lắng và trầm cảm hơn mức bình thường. Không rõ việc chạy theo thành công là nguyên nhân hay hậu quả của sự bất ổn cảm xúc. Có lẽ cả hai đi cùng với nhau. Nếu muốn thăng tiến, bạn thường phải trì hoãn sự sung sướng lại. Thay vì đi nghỉ ở Hawaii, bạn lại nghe lời dụ dỗ của những giờ làm thêm tại bàn làm việc. Và ngay cả điều này cũng không đảm bảo cho thành công: chúng ta có đạt được tham vọng sự nghiệp hay không phụ thuộc vào sự ngẫu nhiên và thiện chí của người khác ít nhất cũng ngang bằng với phụ thuộc vào thành tựu của riêng bản thân mình. Điều này có thể làm tăng lên cảm giác vô dụng và phụ thuộc - mở đường cho sợ hãi và trầm cảm.
Lối thoát: Hiểu biết bản thân
Tất cả chúng ta đều có ảo tưởng về chuyện cái gì là tốt cho mình. Nhưng ta cũng không khó khăn gì để tránh được những sai lầm này và ý thức hơn về chuyện cái gì làm ta hạnh phúc hoặc bất hạnh. Điều quan trọng là phải có một quan điểm rõ ràng và lựa chọn thời điểm đúng.
Nhìn cuộc sống của chúng ta từ quan điểm của người khác thường chẳng giúp ích gì lắm. Con người chúng ta ai cũng đều trải nghiệm nỗi sợ và niềm vui, nỗi buồn và cơn tức giận giống nhau, nhưng cảm xúc của mỗi chúng ta được gây ra theo cách khác nhau. Tuy cảm xúc là bẩm sinh, song hầu hết những yêu ghét của ta đều là thủ đắc được [từ ngoài]. Văn hóa của môi trường chúng ta, sự giáo dưỡng chúng ta, và lịch sử đời sống cá nhân giúp quyết định ai thích opera, ai thích rock. Thêm nữa, một sự khác biệt nhỏ về gien cũng có thể tác động đến sở thích của ta: người nào bẩm sinh thị lực yếu hay cảm giác về không gian kém thì không thể thích chơi bóng bàn hoặc bóng chuyền được.
Vì thế một người cố rập khuôn theo người khác thì khó mà tìm được hạnh phúc cũng như sự mãn nguyện. Cái đòi hỏi rằng chúng ta cần phải sống cuộc sống của chính mình thoạt nghe có vẻ chẳng có gì là to tát [vì hiển nhiên là thế, chúng ta cần phải sống cuộc sống của chính mình], song trên thực tế mọi thứ diễn ra trong cuộc sống của chúng ta lại hoàn toàn ngược lại với đòi hỏi ấy. Cha mẹ gắng hết sức truyền các giá trị của họ sang con cái ngay từ ngày đầu tiên. Ở trường, tất cả bọn trẻ đều được học phương pháp giống nhau, mặc dù chúng ta đã biết từ lâu rằng mỗi người có một thế mạnh và tài năng khác nhau.
Chúng ta có thể tránh được rất nhiều đau khổ nếu như biết cách ứng xử đối với một tình huống cụ thể. Chúng ta học cách lắng nghe não bộ như thế nào? Nghĩ đến những trải nghiệm của ta thì chẳng ích gì mấy, bởi vì bộ nhớ thao túng ký ức của ta. Thay vì vậy, chúng ta cần phải tập trung vào lúc này [một cách mạnh mẽ] hơn so với bình thường.
Khi chúng ta nhận diện những cảm xúc ngay lúc chúng xuất hiện, thì chúng chưa hề bị những sự so sánh, những suy nghĩ và ký ức làm cho méo mó. Trong khoảnh khắc này, những cảm giác có thể là tín hiệu cho thấy những yêu ghét bẩm sinh của ta. Một thoáng chốc là đủ để ta ý thức về một cảm xúc. Lâu hơn như vậy là không cần thiết, và việc đay đi đay lại những cảm xúc tiêu cực có thể còn gây nguy hại. Khi một người lái xe vô ý làm ta tức điên lên, việc ý thức rằng chúng ta đang cảm thấy bị đối xử thiếu tôn trọng là rất hữu ích. Chúng ta vừa thoát được một con thịnh nộ, và ta dễ dàng giữ bình tĩnh cái đầu để chuyển sang vấn đề khác.
Ngược lại, chúng ta lại nên nhấm nháp những cảm xúc tích cực. Dẫu rằng chúng ta luôn sẵn sàng khuất phục trước cơn giận dữ và nỗi buồn phiền - một cách sai lầm - trong khi lại coi những cảm giác dễ chịu - loại cảm giác xuất hiện khi ta ở bên cạnh người ta yêu quý và tin tưởng - là thứ đương nhiên phải có. Nếu mọi thứ diễn ra tốt đẹp, trí óc ta nhanh chóng trở nên lơ đễnh, và những suy nghĩ của ta chuyển sang cái gì đó đang làm ta phiền lòng. Khi điều này xảy ra, chúng ta sẽ mất rất nhiều. Chỉ là mờ ý thức được hạnh phúc của mình, chúng ta không những đánh mất hạnh phúc mà còn đánh mất hiểu biết về chuyện cái gì chúng ta thích và cái gì giúp ích cho ta.
Nhật ký hạnh phúc
Hạnh phúc không thôi chưa đủ. Chúng ta phải ý thức được hạnh phúc của mình. Đây cũng là cương lĩnh của nhà tâm thần học người Ý Giovanni Fava. Ông đã phát triển một phương pháp điều trị gọi là “Trị liệu hạnh phúc” [WellBeing Therapy] để giúp cho những người muốn nuôi dưỡng những cảm giác tích cực và hưởng thụ chúng nhiều hơn nữa.
Ý tưởng này nảy ra khi ông đang làm việc với những bệnh nhân trầm cảm đang dần hồi phục. Fava nhận ra rằng sự miễn cưỡng rất thường gặp của họ khi thừa nhận hạnh phúc đã cản trở việc khỏi bệnh. Những người này cảm thấy rất bất mãn, nhưng thường thì thực ra họ ít bất mãn hơn nhiều so với họ tưởng. Để chống lại điều này, Fava đã sáng tạo ra một quy trình đơn giản: các bệnh nhân này phải giữ cuốn nhật ký hạnh phúc. Nếu bạn chăm chú dõi theo và ghi lại những khoảnh khắc tốt đẹp, thì sự chú tâm của bạn sẽ bị thu hút như một chiếc đèn pha về phía tất cả những gì mà bạn phản ứng lại một cách tích cực. Và bởi vì những khoảnh khắc hạnh phúc được viết ra trên giấy trắng mực đen, sau này bộ não không thể tự nó ngăn cản những khoảnh khắc ấy.
Fava thuật lại rằng các bệnh nhân của ông, rất nhiều trong số họ vẫn ở trạng thái suy sụp, thường lẩn tránh đề nghị của ông. Họ ngại xuất hiện trước mặt bác sĩ với những cuốn sổ trống trơn. Tuy nhiên, ông khuyến khích họ dù sao cũng hãy thử làm, và hầu hết họ sau đó quay trở lại với những trang giấy đầy chữ: họ có những khoảnh khắc dễ chịu ngay cả trong những thời kỳ trầm cảm và bất mãn nặng nề nhất.
Khi các bệnh nhân của Fava trải nghiệm một khoảnh khắc vui vẻ có ý thức, họ phải miêu tả nó cũng như những cảm giác của chính họ một cách chi tiết, và chấm điểm hạnh phúc của họ trên thang điểm từ 1 đến 100. Do đó họ đã phát hiện ra rằng cuộc sống của họ tốt hơn nhiều so với họ nghĩ. Thêm nữa, họ đã biết được điều gì là tốt cho mình.
Ở lần thí nghiệm hai, Fava yêu cầu các bệnh nhân miêu tả xem làm sao họ lại có thể quá thờ ơ với hạnh phúc mà mình đã thực sự trải nghiệm đến như vậy. Ví dụ, một bệnh nhân kể lại khoảnh khắc hạnh phúc khi ông đến thăm những đứa cháu trai và được chào đón nồng nhiệt. Nhưng ngay sau đó ý nghĩ này xuất hiện: “Chúng vui vẻ chỉ vì mình mang quà đến cho chúng mà thôi.” Việc ý thức được những cách mà não bộ phục kích ta luôn giữ cho ta đứng vững trên thực tại hơn. Sau mười tuần, các bệnh nhân áp dụng phương pháp của Fava đã hồi phục khỏi những con trầm cảm sâu. Họ ít sợ hãi hơn, và cảm thấy hài lòng với cuộc sống của họ hơn trước đây. (20)
Trên hết, họ đã nhận ra rằng không phải một cuộc thay đổi lớn lao nào đã xoay chuyển cuộc sống. Sự hài lòng giống như một bức tranh khảm được tạo ra từ rất nhiều khoảnh khắc hạnh phúc. Ý thức được những khoảnh khắc hạnh phúc này chính là một phương cách đáng tin cậy để bỏ đau khổ lại phía sau.
Thứ khiến con người hạnh phúc là thứ mỗi chúng ta phải tìm ra cho riêng mình. Cuộc sống không phải là một cuộc chạy đua một trăm mét mà tất cả chúng ta đều bắt đầu từ cùng một vạch xuất phát và kết thúc ở cùng một đích.