PHẦN 4 XÃ HỘI HẠNH PHÚC ⚝ 15 ⚝ Tam giác thần kỳ
Có lẽ chúng ta đang tìm kiếm hạnh phúc, nhưng không tìm thấy. Mặc dù thu nhập đã tăng lên đáng kể trong năm mươi năm qua, song số lượng người tự cho là mình hạnh phúc ngày nay không hơn gì nửa thế kỷ trước.(1 So sánh với thời đó thì cuộc sống ngày nay ban tặng cho chúng ta đầy đủ hơn nhiều. Những thứ từng là đồ xa xỉ thì bây giờ hầu hết mọi người đều kiếm được. Cá hồi và sâm banh bày bán trong Wal-Mart, và với giá cả hợp lý bạn có thể bay đến Tahiti. Đối với hầu hết chúng ta, thời gian nhàn rỗi không còn là một nguồn quý hiếm nữa, còn cách để tiêu xài nó cũng vô tận. Nếu bạn muốn học nặn bình gốm, học tiếng Trung, hoặc học mát xa tình dục, bạn có thể đăng ký học một lớp chuyên về lĩnh vực đó dành cho người lớn. Bạn đã từng mơ ước được lái máy bay từ lâu? Bạn có thể biến nó thành hiện thực. Ở Mỹ (cũng như ở tất cả các nước phát triển) cuộc sống xa xỉ bây giờ đã trở thành cuộc sống bình dân. Nhưng điều này dường như không có tác dụng mấy đối với hạnh phúc. Bertolt Brecht đã mô tả vấn đề nan giải này trong vở Threepenny Opera (Ca kịch ba xu) của ông:
Được, cứ rượt tìm hạnh phúc
Nhưng anh đừng vượt quá mau.
Khi tất cả đuổi theo hạnh phúc
Hạnh phúc đến từ phía sau. (2)
Chính trị trong ngõ cụt
Xét theo thang bậc hài lòng cuộc sống thì người Mỹ, mà bản Tuyên ngôn Độc lập của họ đã trao cho họ quyền mưu cầu hạnh phúc, đứng về phía trên trong nhóm giữa của các nước Công nghiệp hóa. Người Thụy Sĩ, Hà Lan và các nước Scandinavia khác đạt vị trí những người hạnh phúc nhất, trong khi đó Tây Ban Nha chốt phía cuối nhóm.
Chẳng khác gì nếu chúng ta xem xét những nghiên cứu so sánh các nước khác nhau hoặc những nghiên cứu cho biết các xu hướng qua thời gian - tất cả đều chỉ về cùng một hướng: mức hài lòng ở những nước Công nghiệp hóa đã không bắt nhịp với điều kiện sống. Có cả một thế giới khác biệt giữa sống hạnh phúc và sống sung túc. Nếu, như các triết gia thời kỳ Khai sáng yêu cầu, chính phủ phải có trách nhiệm làm gia tăng hạnh phúc cho các công dân, thì tất cả chính trị gia phương Tây những thập kỷ qua đều đã thất bại. Theo cuốn Examination of Good và Evil (Nghiên cứu về cái Tết và cái xấu, 1726) của Francis Hutcheson 58 thì mục tiêu của chính phủ phải là “hạnh phúc tối đa cho tối đa người dân”. Quan điểm này là gốc rễ của bản Tuyên ngôn Độc lập, cũng là tiền đề của các nhà dân chủ châu Âu.
Nhưng trong đời thực, thay vì như vậy các chính phủ lại đặt mục tiêu tăng năng suất kinh tế lên trên hết - và theo đó là điều kiện sống cho Công dân của họ. Chỉ khi nào mà sự thịnh vượng tăng lên dẫn tới hạnh phúc tăng lên thì nó mới có thể đem đến hạnh phúc cho đại đa số người dân. Như số liệu thống kê cho thấy, ở những nước công nghiệp hóa, điều này rõ ràng không đúng như vậy. Nếu mục đích của con người và lao động cơ khí hóa là tạo ra hạnh phúc thì hệ thống kinh tế của chúng ta, với việc tạo ra sự giàu có vô tận, đúng là vô dụng một cách kỳ cục.
HẠNH PHÚC CỦA CÁC QUỐC GIA
Đo sự hài lòng của con người bằng “chỉ số hạnh phúc”, chúng ta thấy ba nhóm phân biệt. Công dân của những nước gần đây phải trải qua một cuộc thay đổi lớn hoặc khủng hoảng lớn thì ít hài lòng nhất, bởi vì họ luôn phải sống trong bất ổn và mất an toàn. Hạnh phúc cao hơn hẳn ở những nước ổn định và đang phát triển. Trong nhóm này, chỉ số hạnh phúc tăng tương ứng với thu nhập - từ nước nghèo như Bangladesh cho đến Puerto Rico (giàu gấp gần mười lần) đang trên ngưỡng cửa vào những nước công nghiệp hóa. Cuối cùng, ở các nước phát triển nhất thì nhu cầu vật chất của hầu hết người dân nói chung đều được đáp ứng. Ở đây, thịnh vượng hơn không kèm theo hạnh phúc hơn nữa. Mặc dù người Tây Đức giàu có hơn hẳn người Ireland, họ lại không hạnh phúc bằng. Số liệu này là từ cuối những năm 1990, và những sự kiện gần đây ở Cộng hòa Dân chủ Đức được phản ánh trong con số đối với Đông Đức. (Ingelhart và Klingemann, 2000)
Nhưng ở những nước đang phát triển, nơi mà mỗi đồng đô la thêm vào đều có thể tạo ra một khác biệt thật sự, thì lại là trường hợp khác. Đường chỉ số hài lòng đi lên dần từ những nước nghèo như Cộng hòa Moldova cho đến nhóm thu nhập đỉnh cao gồm những nước đạt ngưỡng như Hàn Quốc (4)
Lý do là hiển nhiên: ở đâu thiếu các điều kiện thiết yếu, ở đó hạnh phúc hiếm hoi. Một nông dân ở Nepal mà ruộng đất không sản xuất ra đủ gạo cho cả gia đình thì bị áp lực triền miên. Liệu mùa vụ tới có đủ ăn không? Liệu cái mái lều có thọ được thêm một mùa mưa nữa không? Đứa con đang ho liệu có bị ốm nặng không? Thậm chí một sự tăng thu nhập khiêm tốn nhất cũng có thể cải thiện đáng kể cuộc sống của gia đình này, chẳng hạn có thể mời bác sĩ đến khám và có lẽ cáng đáng được được chi phí học hành của bọn trẻ.(5)
Miền đất hứa, đau khổ vẫn sinh sôi
Ngay cả ở những vùng nghèo nhất trên thế giới, năng lực kinh tế là yếu tố duy nhất trong một số yếu tố quyết định hạnh phúc. Tương quan với cái nghèo xác xơ, một số nước
đã phấn đấu đạt được một mức hạnh phúc cao cho công dân của mình.
Trong số đó có Kerala, một bang phía Nam của Ấn Độ nóng như thiêu như đốt, nơi có ba mươi ba triệu người sống trong một không gian chật hẹp ken dày những cây dừa, chuối và cây gia vị. Dù luôn gặt hái những vụ mùa bội thu, người dân Kerala - hầu hết là nông dân và ngư dân tự cấp tự túc - đều kiểm trung bình dưới bốn mươi euro một tháng.
Thế nhưng, dưới nhiều góc độ khác thì Kerala lại phát triển cao. Trong khi một nửa số đàn ông và thậm chí hơn nửa số phụ nữ ở các bang khác của Ấn Độ mù chữ, thì ở Kerala hầu hết mọi người đều biết đọc biết viết. Thậm chí, phần lớn họ đã tốt nghiệp trung học cơ sở. Kerala có nghìn năm truyền thống võ thuật, CÓ y thuật kéo dài tuổi thọ và nghệ thuật vũ kịch. Có những bộ phim xuất sắc nói tiếng Maylayalam. Hầu hết mỗi gia đình nông dân ở Kerala đều sở hữu đất đai riêng để sinh sống, trong khi người dân nhiều vùng khác thuộc thế giới thứ ba phải quần quật vì đồng lương chết đói trên những cánh đồng thuộc sở hữu của những chủ đất giàu có.
Những người sinh ở Kerala ngày nay có cơ hội tốt để đạt tới tuổi thọ cao. Tuổi thọ trung bình của họ là bảy mươi tư - con số giật mình đối với một vùng nghèo như vậy. Chẳng hạn, người dân Braxin, giàu hơn họ gấp khoảng sáu lần, chỉ sống trung bình tới tuổi sáu mươi sáu. Thậm chí người dân Nam Phi, nói một cách tương đối thì giàu có gấp bội, lại có tuổi thọ thấp hơn người Kerala.6)
Cơ thể, những cảm biến hạnh phúc
Tuổi thọ nói lên điều gì về hạnh phúc? Sức khỏe mang đến những cảm giác tích cực, và ngược lại, không bị cáu giận và căng thẳng hành hạ sẽ rất tốt cho sức khỏe.
Người dân Kerala sống thọ là nhờ luôn sống trong môi trường vệ sinh và sự chăm sóc y tế tuyệt vời. Không giống như nhiều nước đang phát triển khác, Kerala đầu tư nhiều vào bệnh viện và trường học hơn vào nhà máy thép và sân bay. Nhưng người dân của Kerala cũng có phúc lợi vật chất để sống một cuộc sống dễ dàng hơn là những người Ấn Độ khác. Việc sở hữu đất đai riêng, thu nhập ổn định, và sống trong một cộng đồng có trách nhiệm, họ có vẻ tự tin với tương lai hơn và ít phải chịu đựng sự căng thẳng hoa cư dân của những khu ổ chuột chật chội.
Khi mà dân cư được giáo dục tốt hơn và được nhiều bác sĩ chăm sóc hơn thì sự tác động qua lại giữa cơ thể và tâm trí thậm chí còn quan trọng hơn nữa. Sự lây nhiễm có thể trở thành chết người ở những vùng kém phát triển hơn, nhưng một khi chăm sóc y tế và hệ thống vệ sinh cải thiện thì số lượng tử vong do lao phổi, kiết lỵ và dịch tả giảm đáng kể, và nhiều người có thể sống thọ đến già. Nhưng tuổi thọ càng cao thì càng có nhiều người chết vì bệnh liên quan đến căng thẳng hơn - chẳng hạn bệnh tim mạch và đột quỵ, là nguyên nhân gây tử vong chính ở các nước Công nghiệp hóa.
Nhiều nghiên cứu đã cho thấy có một mối tương quan trực tiếp giữa cảm giác hạnh phúc mang tính cảm xúc - do đó trạng thái căng thẳng biến mất - và tuổi thọ con người. Chính cách sống, quan trọng hơn cả gien, môi trường sống, chăm sóc y tế, mới là thứ quyết định con người sống thọ bao lâu. Thực tế, ảnh hưởng của cách sống mạnh hơn tất cả các yếu tố khác Cộng lại!(8) Cơ thể chính là cảm biến hạnh phúc.
Nghịch lý của tiền bạc và hạnh phúc
Sự hài lòng cuộc sống và tuổi thọ song hành cùng với Công bằng xã hội. Ở cả hai mặt, Kerala tuy nghèo nhưng lại dẫn đầu trong những khu vực đang phát triển. Những nơi khoảng cách giàu nghèo lớn hơn, như Braxin, thì tuổi thọ người dân ngắn hơn - mặc dù một người Braxin nghèo còn kiếm nhiều hơn đáng kể so với một người Kerala trung lưu.
Tuổi thọ không liên quan đến sự thịnh vượng hoàn hảo nhưng lại có liên quan đến sự công bằng trong phân phối của cải xã hội. Điều này có thể thấy được ở những nước Công nghiệp hóa. Những nơi mà mọi người đều được hưởng mức thu nhập chênh nhau ít nhất, như ở Thụy Sĩ và Nhật Bản, họ đều sống thọ nhất, mặc dù hai nước này có hệ thống y tế và xã hội hoàn toàn khác nhau. Ngược lại, về mặt thống kê mà nói, bất bình đẳng xã hội càng lớn thì tương ứng với tuổi thọ càng thấp đi.
Chắc chắn không phải ngẫu nhiên mà trong các so sánh ở quy mô quốc tế, những công dân hài lòng nhất là những công dân được hưởng sự phân phối thu nhập Công bằng nhất. Ở các nước Scandinavia, ở Hà Lan, và thậm chí Thụy Sĩ, khoảng cách giàu nghèo thấp hơn rất nhiều so với Đức hoặc Ý.9)
So sánh giữa các bang khác nhau của Mỹ thì lại càng nổi bật. Mặc dù nói chung Mỹ có một hệ thống bệnh viện tuyệt vời, nhưng tuổi thọ trung bình ở các bang có thể chênh lệch nhau đến bốn năm. Người dân ở bang North Dakota có thể sống đến tuổi bảy mươi bảy, nhưng ở Louisiana chỉ có bảy mươi ba. Thu nhập, nguồn gốc chủng tộc hay mức độ tiêu thụ thuốc lá đều không thể giải thích được những sự khác biệt này. Hơn nữa, hầu như không có khác biệt nào về số lượng người tử vong do ung thư và những bệnh khác liên quan đến gien.(10) Đúng hơn, câu trả lời nằm ở sự khác biệt trong thu nhập giữa người giàu và người nghèo, khoảng cách này ở Louisiana lớn hơn gần 50% so với ở North Dakota.11 Công dân ở những bang có khoảng cách thu nhập lớn thường chết sớm hơn, chủ yếu là do áp lực mà sự tương phản xã hội sâu sắc gây ra.(12)
Do vậy, chúng ta thấy mối quan hệ giữa tiền bạc và hạnh phúc thật phức tạp. Khi đã đạt một mức thu nhập tạm ổn, sự giàu có không còn mấy tác dụng trong việc tăng thêm sự hài lòng nữa, mà sự phân phối của cải trong xã hội mới có tầm quan trọng tột bậc.
Ở nhiều nơi trên thế giới, chênh lệch thu nhập đã tăng lên suốt ba thập kỷ qua,13) đáng kể nhất là Đông Âu. Số liệu thống kê ở Nga và Lithuania là những con số tệ nhất trong tất cả. Ở hai nước này, tỉ lệ tử vong (số lượng tử vong tính trên mỗi 1000 người) đã tăng lên một phần ba từ năm 1989, và tuổi thọ của đàn ông hiện là dưới sáu mươi. Ở Hungary, nước đã quá độ lên chủ nghĩa tư bản từ rất sớm, tỉ lệ tử vong vẫn tăng 20% từ năm 1970 đến 1990, mặc dù thu nhập đã tăng gấp ba lần trong suốt thời gian này! Nhưng sự giàu có chỉ ưu đãi cho một số ít, còn hầu hết người Hungary ngày nay sở hữu không hơn gì mấy so với năm 1970.14)
Theo số liệu của Cục Điều tra dân số Mỹ, khoảng cách thu nhập của Mỹ đã tăng vọt trong hai thập kỷ qua. Năm 1979, nhóm 5% những hộ gia đình Mỹ có thu nhập cao nhất tính trung bình giàu có hơn 11 lần so với 20% những hộ nghèo nhất. Vào năm 2000 khoảng cách này đã tăng lên con số 19 - gần như gấp đôi.
Theo những người bảo thủ, người giàu càng giàu hơn cũng chẳng nguy hại tới ai, miễn là người nghèo không nghèo đi. Nếu tất cả vấn đề nằm ở chỗ tài khoản ngân hàng của mọi người lớn hay nhỏ thì điều này là đúng. Nhưng nếu bạn nhìn vào những hậu quả đối với hạnh phúc và sức khỏe, thì điều này sai. Khi khác biệt xã hội tăng lên, mọi người đều bị mất mát, giàu cũng như nghèo.
Một Apulia ở Mỹ
Trong nửa đầu thế kỷ hai mươi, những công dân của Roseto, một thị trấn nhỏ ở Đông Pennsylvania, đã đoán biết được xu hướng tăng khoảng cách thu nhập của họ. Nửa đầu thế kỷ hai mươi đó, họ dường như may mắn có hệ thống miễn dịch chống lại được các bệnh về tim mạch Vốn là nguyên nhân gây tử vong phổ biến nhất ở hầu hết các nước phát triển. Không ai chết vì những bệnh như vậy khi chưa già, đàn ông trên sáu lăm tuổi có tỉ lệ tử vong chỉ bằng nửa so với mức trung bình ở Mỹ. Mặc dù cư dân ở Roseto tất cả đều có gốc Ý, nhưng khó có thể quy sức khỏe của người Roseto là do chế độ ăn uống hoang tàng kiểu Địa Trung Hải của họ được. Thực tế thì cái “lối sống” Roseto rất không lành mạnh. Các công dân này hút thuốc và làm việc như điên, và bởi vì thời đó ở Mỹ không có sẵn dầu Ô liu, nên ở Roseto các món ăn béo ngậy kiểu truyền thống miền Nam Ý đều nấu ngập trong mỡ. Cũng không có bất kỳ một đặc tính gien nào để giải thích cho thể chất khỏe mạnh của người dân Roseto.
Cái đã khiến cho các Công dân này khác biệt so với người Mỹ trung bình là sự cố kết xã hội của họ. Thị trấn này gồm con cháu của một nhóm thị tộc nhỏ đã di cư từ Apulia vào cùng một thời gian và vẫn giữ nguyên không chia tách ở Tân Thế giới này, tại đây họ bảo tồn tất cả lễ nghi của một thị trấn Ý nhỏ bé. Mọi người thường gặp gỡ trong những cuộc tản bộ buổi tối, tụ tập chơi trò chơi trong các câu lạc bộ, cùng tham gia những đám rước và những ngày hội của nhà thờ. Bởi vì ghen tị gây ra chia rẽ, nên việc khoe khoang giàu có sẽ bị tẩy chay. Mặc dù có rất nhiều gia đình đạt được mức giàu có nào đó, nhưng không thể phân biệt ai giàu ai nghèo, dù qua quần áo, ô tô hay nhà cửa. Người già sống cùng với con cái, tam đại đồng đường. Tôi phạm không có đất sống.
Nhưng khi Roseto trở thành giống như các vùng khác của Mỹ, mọi thứ đã thay đổi. Mọi người làm ăn phát đạt hơn, và cộng đồng bị chia rẽ. Sau năm 1970, nhiều người trẻ rời thị trấn đi học, nay quay trở lại với quan niệm khác hẳn các bậc cha mẹ. Một số lái xe Cadillac. Một số xây nhà cao cửa rộng, đào hồ bơi, và xây hàng rào xung quanh vườn. Mọi người lại rút lui vào bốn bức tường, tự đắc với sự giàu Có của mình. Roseto càng trở nên giống một thị trấn Mỹ bình thường bao nhiêu thì tỉ lệ bệnh tật và tử vong lại càng tiệm cận với tỉ lệ trung bình của quốc gia bấy nhiêu. Khi những kết nối cộng đồng mật thiết mờ nhạt đi, sức mạnh bảo vệ họ cũng giảm theo.15)
Chiếc khiên bảo vệ của tình đoàn kết
Trong suốt quãng thời gian cộng đồng còn nguyên vẹn, người dân Roseto dường như đã sống một cuộc sống ít căng thẳng hơn những người Mỹ khác. Có hai nguyên nhân. Đầu tiên, họ cảm thấy không có thúc ép nào muốn vượt trội hơn so với láng giềng. Thứ hai, những người nghèo hơn hoặc thành công ít hơn không phải lo sợ cho vị trí xã hội của họ. Rốt cuộc, cái khiến mọi người bất hạnh không phải là có ít mà là có ít hơn người khác. Chính cái cảm giác có ít hơm ấy có thể khiến cho người ta cảm thấy mình vô giá trị. Người dân Roseto ngày ấy được miễn nhiễm với căn bệnh cứ bất lực trông theo khi người khác vượt trước và bỏ lại họ mãi mãi hít khói phía sau.
Hơn nữa, mọi người đều có thể nhờ cậy một cách vô điều kiện vào gia đình và hàng xóm. Sự hỗ trợ của cộng đồng mạnh đến nỗi người già và người kém may mắn mất đi cảm giác sợ hãi. Công dân Roseto biết rằng họ không bao giờ bị bỏ rơi trong những thăng trầm không tránh khỏi của cuộc sống.
Cảm giác cân bằng bên trong này được phản ánh qua tỉ lệ các bệnh liên quan đến căng thẳng như tim mạch thấp một cách ngạc nhiên. Bệnh ung thư, ngược lại, không hề có bất cứ nguyên nhân tâm lý nào, thì xảy ra với tỉ lệ tương đương nhau trên khắp nước Mỹ.16)
Từ lâu người ta đã biết rằng, đoàn kết xã hội khiến cho những tình cảnh khó khăn trở thành dễ chịu hơn. Phong trào Công đoàn của thế kỷ 19 được dựa trên nguyên tắc này. Điều mới mẻ là thừa nhận rằng một kết cấu cộng đồng vận hành tốt thậm chí còn đem lại lợi ích cho sức khỏe thể chất.
Chúng ta đã bàn điều này ở Chương 10 khi đề cập đến giá trị của tình bạn. Con người sống hạnh phúc hơn và thọ hơn khi họ bắt rễ trên nền tảng xã hội. Mối quan hệ giữa hạnh phúc, tuổi thọ và cố kết xã hội đã được chứng minh một cách thuyết phục bởi nhiều nghiên cứu kể từ Công trình tiên phong của các nhà khoa học xã hội ở Roseto.17
Thành viên của một xã hội có thể bước vào những mối quan hệ có khả năng phát triển chỉ khi phong cách sống và những mối quan tâm của họ tương tự như nhau. Nếu như phân biệt xã hội trở nên quá lớn, mạng lưới cộng đồng sẽ bị phá vỡ trong một cuộc “kéo co”. Người giàu và người nghèo sống ở hai thế giới khác nhau, và không ai đi lạc vào địa phận của nhau.
Một ví dụ tích cực thể hiện ở quy mô lớn hơn là Hà Lan, đất nước mà công dân đã phải chiến đấu hàng thế kỷ với mối đe dọa lũ lụt triền miên của Biển Bắc. Họ phát triển một xã hội quân bình, ở đó thậm chí nữ hoàng cũng đạp xe và được chụp hình khi đang đi ủng cao su trên để trong một cơn bão làm nước biển dâng tràn (18) Đến nay, khoảng cách thu nhập ở Hà Lan là tương đối nhỏ và mức hài lòng cuộc sống cũng cao tương ứng.
Từ bỏ tính tự lợi
Phong trào nghiên cứu những hiệu quả có ích của tình đoàn kết không phù hợp với ý thức hệ thời thượng về cái tôi doanh nhân hiện nay. Chúng ta được coi là đang sống cuộc sống của mình như thể chúng ta là những doanh nghiệp trên thị trường. Những cuốn sách tư vấn thôi thúc người đọc bắt chước kỹ năng và thuật hùng biện của các nhà tư vấn kinh doanh. Một trong những cuốn sách này gợi ý rằng tất cả chúng ta đều là thương hiệu hàng hóa, đều là “nhà tái tổ chức”, và đánh giá bản thân chúng ta dựa theo những người giỏi nhất và sáng láng nhất. Nói như doanh nhân tỉ phú New York Ron Perelman, “Hạnh phúc là một dòng tiền tích cực.”(19) Không gì có thể khác xa tinh thần của Roseto hơn thế. Tuy nhiên, bất chấp toàn bộ sự “quản trị bằng tầm nhìn” này, tương lai của những chiến lược như vậy không hề hứa hẹn, bởi vì chúng hầu như chỉ chất thêm một gánh nặng hầu như phi nhân lên vai những người cố sống theo cách này.
Với hầu hết mọi người, có mình vào cuộc sống riêng Có nghĩa là tự mình từ bỏ hạnh phúc - không phải chỉ vì họ được hưởng một môi trường ít hỗ trợ hơn cũng như ít thích hợp cả trong nhà lẫn đối với hàng xóm. Mất mát lớn nhất chính là sự thỏa mãn khi được tham gia các hoạt động cộng đồng, như nhà tâm lý xã hội người Anh Michael Argyle chỉ ra trong một nghiên cứu của ông về thời gian rảnh rỗi. Hầu hết những người ông khảo sát đều khẳng định rằng không gì có thể đem lại niềm vui sướng hơn là công việc tình nguyện. Khi họ đánh giá các hoạt động vui chơi giải trí của mình theo thang điểm mức độ vui sướng thì chỉ có khiêu vũ là điểm cao hơn Công việc tình nguyện mà thôi. Điều làm mọi người đặc biệt thích thú là được biết những người đồng điệu với mình, thấy được kết quả công việc của mình, và có được trải nghiệm cuộc sống.20) Dù là trong nhóm diễn viên nghiệp dư hay một nhóm hoạt động môi trường, người ta được khuyến khích tham gia không phải chỉ vì những lý do đạo đức mà còn là để thoát khỏi tính tư lợi nhỏ mọn.
Ý thức Công dân nằm ở niềm tin
Một hoạt động không được cuốn hút cho lắm, như hát trong đội hợp xướng chẳng hạn, cũng có thể có tác dụng nhiều hơn chứ không chỉ giúp cải thiện tâm trạng của người hát. Khi nhà khoa học chính trị Robert Putman của trường Harvard khảo sát sự khác nhau trong năng lực của chính quyền, ông đã đặt vấn đề tại sao một vài chính quyền tỉnh Ý lại điều hành tuyệt vời như vùng Emilia Romagna phía Bắc), trong khi những chính quyền tỉnh khác bị tình trạng tham nhũng, quản lý yếu kém và lộn xộn hoành hành. Ông đã tìm ra câu trả lời trong những cấu trúc xã hội tương phản của làng xã và thành thị. Nơi mọi người thích làm việc cùng nhau hướng đến những mục đích chung, họ thường được ban tặng một chính quyền tốt, cho dù các đoàn hội - như câu lạc bộ bóng đá, hội phụ huynh, đội hợp xướng và những hội đại loại như vậy - không hề mang màu sắc chính trị nào.
Putnam lý luận rằng khi mọi người tham gia cùng nhau một cách tự nguyện, thì sự quan tâm của họ đều quy tụ về một hướng. Trong một cộng đồng có đời sống chung năng động, làm một điều gì đó bí mật là rất khó, và các chính trị gia, biết rằng lạm dụng quyền lực sẽ không được dung thứ, luôn trung thực hơn ngay từ lúc khởi đầu.
Ngược lại, những gắn kết xã hội yếu hơn sẽ dễ dàng cho tham nhũng lan tràn. Mỗi cá nhân đều cảm thấy bất lực trước thị tộc và hệ thống những trưởng lão. Để không bị tụt lại phía sau, mỗi người đều ra sức lừa dối - và những kẻ nắm quyền đút túi càng ngày càng nhiều.(21)
Về lâu dài thì việc quản lý yếu kém, cai trị tồi chỉ có thể phát tác ở những nơi không có chống đối. Ý thức Công dân bao hàm lòng tin, nhưng điều ngược lại cũng đúng: mọi người càng sẵn lòng hành động nhân danh người khác bao nhiêu thì việc ngăn chặn lạm dụng lòng tin càng dễ dàng hơn bấy nhiêu. Ảnh hưởng của những nhà lãnh đạo trung thực, tính hiệu quả của các thiết chế và luật pháp tuy Có tầm quan trọng, nhưng nếu không có một đời sống cộng đồng phát triển cao thì hiệu quả đó cũng bị hạn chế. Ý thức công dân là nền tảng để chế độ dân chủ phát triển.
Ở đâu có ý thức công dân mạnh thì ở đó chênh lệch thu nhập tương đối thấp, và ở đâu sự kết dính xã hội yếu hơn, thì ở đó khoảng cách giàu nghèo tăng lên tương ứng. Putnam phát hiện ra rằng, ở Mỹ, những bang phân phối nguồn tài nguyên công bằng hơn thì cũng có mạng lưới các đoàn thể, các tổ chức hoạt động xã hội-Công dân và các hội vững mạnh hơn. Không những mọi người đi bầu cử nhiều hơn, mà họ còn tin tưởng nhau hơn - và có cơ hội sống thọ hơn nữa.2) Công bằng, ý thức Công dân và tuổi thọ đều kết nối với nhau: nơi đâu cấu trúc xã hội không bị phá vỡ, mọi người sống hạnh phúc hơn.
Sống chậm
Tỉ lệ thất nghiệp cao cũng phá hủy tính cố kết xã hội. Điều tra sự hài lòng cuộc sống ở những vùng khác nhau, học giả Thụy Sĩ Bruno Frey đi đến một kết luận rằng tình trạng thất nghiệp tác động tiêu cực đến hạnh phúc của mọi thành viên trong xã hội, gồm cả những người có công ăn việc làm (23) Nguyên nhân ở đây là do nỗi sợ hãi thất nghiệp tràn lan và sự thiếu đoàn kết. Thậm chí cả những người có vị trí xã hội tốt hơn cũng e ngại tác động của làn sóng thải loại trong xã hội.
Nỗi đau khổ do tình trạng buộc phải không hoạt động gây ra cho những người thất nghiệp được minh họa bằng một ví dụ nổi tiếng ở Áo. Marienthal đã từng là một thị trấn nhỏ giàu có ở phía Nam thủ đô Vienna, cho đến khi doanh nghiệp lớn nhất của nó, một nhà máy may mặc, bắt đầu suy sụp vào năm 1929. Sau một cuộc vật lộn kéo dài vài tháng, nhà máy đóng cửa. Đó là thời kỳ kinh tế khủng hoảng, khi mà một người bị mất việc thì không còn hy vọng nào tìm được việc khác.
Nhờ chính sách bảo hiểm thất nghiệp, không ai phải sống thiếu thốn bần hàn cả. Tuy nhiên, tình trạng chây ì của những người công nhân từng tự hào trước đây đã có một hậu quả tai hại, như các nhà khoa học xã hội Áo là Marie Jahoda và Paul Lazarsfeld ghi lại chi tiết.
Marienthal đã trải qua một cuộc suy thoái đau đớn. Người dân thị trấn không có hy vọng thay đổi tình huống bằng nỗ lực của mình, họ buông xuôi cho số phận và thể hiện triệu chứng của căn bệnh tuyệt vọng tập nhiễm. Sau một năm, cuộc sống xã hội giàu có của thị trấn đã gần như biến mất hoàn toàn. Công viên do các công nhân xây dựng bây giờ tiêu điều, mặc dù mọi người có thừa thời gian chăm sóc nó. Song những người thất nghiệp chỉ có thể dồn sức đủ để làm những việc gia đình lặt vặt. “Tôi không còn hứng thú đi ra ngoài chút nào nữa,” một trong số họ than vãn. Chán nản, họ thậm chí còn chẳng buồn dùng thời gian rỗi để đọc sách nữa. Số lượng sách mượn ở thư viện công cộng giảm đi một nửa. Lượng đặt mua báo thậm chí còn giảm hơn thế. Một viên chức Đảng Xã hội đầy năng động trước đây thốt lên,“Tôi từng đọc báo dành cho Công nhân đến khi thuộc lòng mới thôi. Nhưng bây giờ, mặc dù có nhiều thời gian hơn, tôi chỉ liếc qua nó một chút rồi quẳng vào sọt rác.”
Những người thất nghiệp ở Marienthal đã mất ý thức về thời gian. Trong nhật ký mà họ ghi theo yêu cầu của các nhà nghiên cứu, họ liệt kê những mục như sau: “4-5 giờ chiều: đi lấy sữa. 5-6 giờ chiều: từ bãi gửi xe về nhà.” Một quãng đường vài trăm mét trước đây mất khoảng năm phút, vậy mà bây giờ mất những một giờ đồng hồ! Để hiểu rõ hơn chuyện gì đang xảy ra, Jahoda và Lazarsfeld đã túc trực tại một cửa sổ nhìn xuống đường phố chính để đo tốc độ đi bộ của những người này. Kết quả là dưới ba ki lô mét trên giờ. Những người thất nghiệp này bò trên đường với tốc độ chậm hơn một nửa so với một người đi bộ có mục đích. Họ thất nghiệp càng lâu bao nhiêu thì càng trở nên thụ động và yếu ớt bấy nhiêu.
Bệnh tật và sự trì trệ
Năm 1930 không phải là năm 2006, và Marienthal không phải là châu Âu. Ngày nay những người thất nghiệp được nhận trợ cấp tài chính nhiều hơn trước kia, và nền kinh tế không hề gần với loại khủng hoảng mà mọi người trải qua suốt thập niên 1930. Nhưng những hậu quả tai hại của căn bệnh trì trệ thì không khác gì nhau.
Những người chịu đựng tình trạng thất nghiệp kéo dài sẽ không còn hy vọng thực tế nào tìm lại được việc làm nữa, bất kể họ cố gắng tới mức nào - đặc biệt nếu họ
(24) (25) đã trên 50 tuổi. Và như một số nghiên cứu cho thấy, họ ít hài lòng với cuộc sống của mình hơn so với người có công ăn việc làm. Một số phân tích thậm chí còn đi đến kết luận rằng, thất nghiệp có tác động đến hạnh phúc con người còn nghiêm trọng hơn cả cái chết của vợ hoặc chồng”.24 Những người không công ăn việc làm thường phải chịu đựng những vấn đề về tâm lý và những bệnh tật liên quan đến căng thẳng như bệnh tim. Họ cũng bị tổn thọ hơn.”
Câu châm ngôn như “Không có quyền nào cho sự lười biếng” có lẽ là lời tuyên bố thuyết phục mạnh mẽ, nhưng cái tự do được ngủ dậy muộn của người thất nghiệp là vô giá trị, bởi vì anh ta không tự lựa chọn tình trạng này. Cảm giác mình vô dụng là một cảm giác nhục nhã. Như những công dân thị trấn Marienthal, người thất nghiệp có xu hướng dễ dàng đầu hàng tình trạng chán nản và buông xuôi theo cuộc sống bê tha bệ rạc. Thất nghiệp là một trong những minh họa sắc nét nhất cho sự phá hoại mà căn bệnh tuyệt vọng tập nhiễm đem lại.
Các nhân viên phúc lợi xã hội có xu hướng quản lý cuộc sống hơn là giúp mọi người tự động bằng đôi chân của mình, mặc dù Anh và Hà Lan đã chứng minh rằng mọi người có thể tìm lại được việc làm và khắc phục cảm giác tuyệt vọng như thế nào, nếu như họ được mọi người tích cực hỗ trợ tìm kiếm việc làm.(26)
Hạnh phúc của quyền tự quyết
Chìa khóa mở cánh của hạnh phúc trong xã hội là được kiểm soát cuộc sống của riêng mình. “Đánh mất quyền độc lập có thể là một trải nghiệm tai hại”, nhà nghiên cứu bệnh căng thẳng Bruce McEwen ở New York tuyên bố. 27 Dù ta mất kiểm soát đối với cuộc sống của mình là do phải tuân theo ý chí của người khác hay là do hoàn cảnh (như tình trạng thất nghiệp ở Marienthal) thì cũng chẳng khác nhau là mấy - cảm giác mất kiểm soát bản thân luôn gây ra căng thẳng, làm nguy hại tới cả tâm lý lẫn thể chất con người.
Chúng ta trải qua cảm giác tuyệt vọng do căng thẳng gây ra thậm chí cả trong những tình huống tương đối với vấn - tại sân bay chẳng hạn, khi mà bộ phận điều phối bay mặt đất thông báo đi thông báo lại rằng vì lý do kỹ thuật, việc cất cánh rất tiếc sẽ bị hoãn lại. Chúng ta đều biết rằng, về mặt nguyên tắc, dù có đến đích sớm hơn hoặc muộn hơn một chút thì về lâu dài cũng chẳng có vấn đề gì nghiêm trọng, và buồn bực như vậy thật vô nghĩa - xét cho cùng, chúng ta có quyền gì trong việc quyết định giờ cất cánh? Nhưng chính tình trạng bất lực này mới là vấn đề.
Phản ứng căng thẳng đối với việc mất kiểm soát này chính là một di sản cổ xưa mà tiến hóa để lại. Nhà nghiên cứu bệnh căng thẳng Robert Sapolsky, khi quan sát những con khỉ đầu chó ở Serengeti, đã ghi lại việc những con đực yếu thế hơn đã chịu đựng như thế nào khi chúng phải tuân theo ý muốn của con đầu đàn. Dù có rất nhiều lượng thực ở Seregeti cho tất cả chúng, nhưng những con yếu thế không còn cách nào khác ngoài chịu thiếu thốn trong khi lũ đầu đàn khỏe mạnh hơn hẳn. Những con khỉ đầu chó càng ở cấp thấp hơn trong hệ thống thứ bậc của đàn thì càng có nhiều hoóc môn căng thẳng lưu thông trong máu chúng hơm, chúng thường ốm đau hơn, và dễ chết yểu hơn.(28)
Đối với con người, có những hình thức bị phụ thuộc rất tinh vi - và hoàn toàn bình thường - có thể gây ảnh hưởng đến hạnh phúc và sức khỏe lâu dài. Điều này đã được minh họa bởi vô số ví dụ như dưới đây:
Công dân Đông Đức ít được lựa chọn trong cuộc sống hơn nhiều so với Tây Đức. Đâu đâu người ta cũng sợ quyền lực nhà nước. Những cảm giác tuyệt vọng thậm chí còn được biểu hiện ra cả ngôn ngữ cơ thể, như nhà tâm lý học Gabriele Oettingen chỉ ra khi bà so sánh điệu bộ, cử chỉ của khách hàng trong các quán bar cho Công nhân ở Đông và Tây Berlin vào năm 1986. Khoảng ba phần tư khuôn mặt của những người ở phía Tây ít nhất thỉnh thoảng nở một nụ cười, trong khi ở phía Đông thì chưa tới một phần tư số người cười được như vậy. Đáng chú ý hơn nữa là sự khác nhau trong điệu bộ, mà theo Oettingen là biểu hiện hoặc sự tự tin hoặc chán nản. Ở những quán bar của Tây Berlin, cứ hai người khách thì có một ngồi với tư thế thẳng đứng, trong khi đó ở phía Đông, thậm chí trong hai mươi người cũng không có lấy một người ngồi như vậy!(29)
Như một nguyên tắc, nhân viên càng có vị trí thấp trong hệ thống thứ bậc thì càng ít được quyền tự chủ trong việc định hình công việc của mình, kèm theo là những hậu quả tiêu cực ảnh hưởng đến sức khỏe, như một nghiên cứu đối với hơn mười nghìn nhân viên chính phủ Anh đã cho thấy. Kết quả cũng tương tự như nghiên cứu của Sapolsky. Sự khác biệt rõ rệt thậm chí còn có thể thấy được giữa trưởng các phòng ban với lãnh đạo các bộ phận của họ. Những người ở vị trí thấp trong tổ chức thường gọi điện báo ốm hơn sếp của họ gấp ba lần. Thật khó tin, nguy cơ tử vong của họ cũng cao gấp ba lần. Song khác biệt thự nhập giữa những người phục vụ của Nữ hoàng thì tương
đối nhỏ, và tất cả họ đều nhận được sự chăm sóc y tế như nhau, từ các phương diện như dinh dưỡng, hoạt động thể chất và thói hút thuốc - điều này giải thích cho những khác biệt lớn nói trên. Nguyên nhân là một cấu trúc thứ bậc đã tạo ra các cấp độ quyền lực khác nhau trong công việc của họ. Ở cấp bậc càng thấp thì các viên chức càng hay thể hiện cảm giác bất lực qua những câu nói như “Người ta quyết định công việc của tôi,” hoặc “Tôi thậm chí còn không thể tự quyết khi nào nghỉ giải lao.”(30)
Quyền tự quyết chỉ tăng lên ngay cả một chút nhỏ thôi cũng đủ khiến mọi người hạnh phúc hơn nhiều - và còn kéo dài tuổi thọ của họ. Điều này là hiển nhiên khi các bác sĩ ở những nhà dưỡng lão của Mỹ đều khuyến khích các cụ tự quyết định chi tiết cuộc sống thường ngày của mình.31) Các bữa ăn không còn được bày sẵn ra một cách đơn giản nữa, mà họ có thể chọn món từ thực đơn. Thay vì được xe buýt đưa đón đến nơi uống cà phê và ăn bánh, họ có thể chọn vài cách đi chơi khác. Và trong khi trước đây những người phục vụ chăm sóc cây cối, thì bây giờ các cụ tiếp quản nhiệm vụ này. Những thay đổi nhỏ có vẻ hơi buồn cười này đúng là phép màu: các cụ già đã tỏ ra có trách nhiệm hơn đối với nhiều mặt khác trong cuộc sống của mình, thường quây quần bên nhau hơn, ít ốm đau hơn, khi được phỏng vấn thì họ thể hiện hạnh phúc nhiều hơn. Và điều nổi bật nhất trong tất cả là tỉ lệ tử vong hằng năm giảm đi một nửa.
Những người già càng chủ động trong cuộc sống của mình theo lời khuyên của bác sĩ bao nhiêu thì cuộc sống của họ càng tốt hơn bấy nhiêu. Và điều ngược lại cũng đúng, tình trạng của họ tồi tệ đi khi bị tước đi trách nhiệm.
Ngay cả những điều nhỏ nhặt cũng rất đáng kể. Khi được các sinh viên đến thăm, tình trạng sức khỏe của tất cả họ đều cải thiện. Và những người có thể quyết định được thời gian các cuộc thăm viếng thì cải thiện tốt nhất.(32)
Nền dân chủ sinh ra hạnh phúc
Những người châu Âu hạnh phúc nhất sống ở Thụy Sĩ. Lý do chắc chắn không phải nằm ở cảnh quan tuyệt đẹp, cũng không nằm ở sắc tộc của họ, vì dù có nói tiếng Đức, Pháp hay Ý thì họ vẫn hài lòng hơn những người hàng xóm của họ ở Đức, Pháp và Ý. Sự thịnh vượng của đất nước này và khuynh hướng sạch sẽ của nó cũng là những nhân tố không đáng kể gì.
Theo phát hiện của hai nhà kinh tế Thụy Sĩ thì điều quan trọng hơn đối với hạnh phúc của mọi người chính là cách quản lý cuộc sống cộng đồng độc đáo của họ.(33) Ở Thụy Sĩ, có vài hệ thống chính trị cùng tồn tại, bởi vì những quyết định quan trọng không phải được quyết ở thủ đô Berne mà ở hai mươi sáu bang. Các bang này áp dụng những công cụ của chế độ dân chủ trực tiếp: các cuộc trưng cầu ý dân cho phép người dân có thể sửa đổi hiến pháp, đề xướng luật mới, bãi bỏ luật cũ, và kiểm soát ngân sách.
Nhưng mức độ mà mỗi bang cho phép công dân tham gia lại khác nhau rất nhiều. Ở một số bang, như BaselLand, chính quyền phải tham khảo toàn bộ cử tri về những chi tiêu vượt mức, và nếu cử tri muốn đưa một vấn đề vào chương trình nghị sự chính trị thì chỉ cần một vài chữ ký. Bởi vì cơ hội thành công là khả thi,nên công dân ở các bang này có một động cơ mạnh mẽ để tham gia chính trị. Nhưng những bang khác, chẳng hạn như Geneva, thì có nhiều rào cản hơn. Tại đây, hệ thống chính trị giống một chế độ dân chủ đại nghị hơn, giống như ở Đức.
Stutzer và Frey đã phỏng vấn 6.100 người dân Thụy Sĩ về sự hài lòng cuộc sống và so sánh các con số này với những cơ hội mà họ có thể gây ảnh hưởng. Kết quả: những người càng có thể tham gia vào việc quyết định các vấn đề Công Cộng nhiều hơn thì càng hài lòng với cuộc sống hơn. Tác động này mạnh đến nỗi mà việc chuyển chỗ ở từ Geneva đến Basel-Land, theo như thống kê, làm người ta hạnh phúc nhiều hơn so với tăng thu nhập từ mức thấp nhất (khoảng 1.000 USD) lên mức cao nhất (3.600 USD). Ảnh hưởng chính trị có tác động lớn đến sự hài lòng hơn là quy mô tài khoản ngân hàng. Chế độ dân chủ khiến người ta hạnh phúc.
Vậy phải chăng những người sống ở các bang của Thụy Sĩ, nơi mà những công dân bình thường đóng vai trò quan trọng trong những quyết định cộng đồng, là hạnh phúc hơn vì trường học, bệnh viện và bể bơi ở đó hoạt động tốt hơn? Hoặc phải chăng có một sự hài lòng trực tiếp do họ có khả năng kiểm soát vận mệnh cộng đồng và khu vực nơi mình sống? Đối với câu hỏi này, Stutzer và Frey cũng đã có câu trả lời: lý do thứ hai có vẻ đúng hơn. Đối với những người nước ngoài sống ở Thụy Sĩ, được hưởng lợi từ thành quả của việc quản lý tốt nhưng lại không có quyền bầu cử, thì sự hài lòng cuộc sống trong một nền dân chủ trực tiếp tăng ít hơn hẳn so với những Công dân bản địa. Một quốc gia hạnh phúc là nơi mà chính trị có ý nghĩa hơn một môn thể thao đông khán giả.(34)
Tam giác thần kỳ của hạnh phúc
Ý thức công dân, bình đẳng xã hội và quyền tự chủ cuộc sống, ba cái đó cấu thành tam giác hạnh phúc thần kỳ trong xã hội. Ba tiêu chí này càng được đáp ứng bao nhiêu thì mọi người càng hài lòng với cuộc sống bấy nhiêu. Nhưng ta không thể xem ba yếu tố này tách rời nhau được. Chúng cần nhau và củng cố cho nhau.
Chúng ta đã biết điều này trong những ví dụ trước. Ở Marienthal, ý thức Công dân không còn khi mọi người mất đi quyền tự chủ cuộc sống của riêng mình. Công viên các công nhân xây dựng cũng đi vào hoang tàn khi mọi người bị loại ra khỏi đời sống kinh tế của xã hội và bị đẩy đến cảm giác tuyệt vọng.
Ở Roseto, ngược lại, tình đoàn kết là một đặc tính của kết cấu xã hội vững mạnh đến mức giúp mọi người luôn sống trong cảm giác an toàn cao. Nền tảng của tình đoàn kết này chính là cân bằng xã hội. Nếu ở đâu có tồn tại sự mất công bằng trong thu nhập thì những dấu hiệu bên ngoài của nó cũng bị xóa mờ. Khi trạng thái này thay đổi, ý thức cộng đồng cũng mất.
Cuối cùng ta thấy, ở Thụy Sĩ, công dân có quyền lực đối với vận mệnh của bang, điều này tạo cho mọi người điều kiện tham gia và làm việc cùng nhau nhân danh bang của họ. Và đây chính là lý do tại sao công dân Thụy Sĩ lại hài lòng hơn những công dân châu Âu khác.
Ý thức Công dân, bình đẳng xã hội và quyền tự chủ cuộc sống riêng làm tăng niềm hạnh phúc, bởi vì ba điều này loại bỏ đi mối căng thẳng vốn rất dễ xảy ra khi mọi người chung sống cùng nhau. Đồng thời chúng cũng đem lại nhiều tự do cho chúng ta hơn để định hình cuộc sống của mình tùy theo tài năng và cơ hội.
Một xã hội hạnh phúc trao cho công dân khả năng tự mình quyết định nhiều vấn đề lớn nhỏ trong cuộc sống của mình. Nó giúp cho các cá nhân có thể thực hiện những kế hoạch và hy vọng của mình. Theo như nhà kinh tế học Ấn Độ đoạt giải Nobel Amartya Sen, người đã nghiên cứu bang Kerala, thì mục đích phát triển của mỗi xã hội là phải tạo ra thêm nhiều lựa chọn cho mỗi cá nhân. Những mục đích khác như tăng trưởng thịnh vượng đều là thứ yếu. 35)
Nhưng hưởng thụ tự do đồng nghĩa với việc nhận trách nhiệm. Mặc cho có định kiến phổ biến xưa nay, bồn phận này là một sự dễ chịu chứ không phải một gánh nặng, như so sánh về các bang của Thụy Sĩ cho thấy. Mỗi cá nhân đều hưởng lợi từ những lợi ích của một xã hội hạnh phúc khi họ cùng tham gia xây dựng nó. Suy cho cùng, chính quyền không thể gánh vác được nhiệm vụ thỏa mãn mọi mưu cầu hạnh phúc của các công dân.
Những điểm khác nhau của tam giác thần kỳ này đòi hỏi những mức độ nỗ lực khác nhau. Mỗi cá nhân có rất ít ảnh hưởng trực tiếp đến công bằng kinh tế. Một xã hội có thể đạt được mục đích này từ từ, thường bằng cách nâng cao chất lượng giáo dục cho đa số Công dân và dần dần thay đổi văn hóa của họ.36) Nhưng khi các Công dân thực hiện tự chủ cuộc sống riêng, thì họ bắt đầu tạo ra những thay đổi. Đôi khi điều này đòi hỏi các cơ quan hoặc chính phủ phải mất hàng năm trời, hoặc thậm chí hàng thập kỷ để thực hiện cải tổ. Nhưng thường có thể đạt được mức độ tự do nhất định trong những bước nhỏ - ví dụ, khi các trung tâm chăm sóc trẻ em sắp xếp giờ mở cửa linh hoạt và trường học
áp dụng thời khóa biểu linh hoạt, các bậc phụ huynh nhờ thể ít phải bị căng thẳng trong giờ giấc làm việc hơn.
Ý thức trách nhiệm công dân nghĩa là mọi người đều có thể khởi đầu những thay đổi theo cách này. Trách nhiệm công dân nghĩa là một sự cam kết. Ngay cả hành động trên danh nghĩa của riêng ta cũng có thể cho ta một cảm giác tự quyết, dù là cùng tham gia vào hội phụ huynh để xây dựng lại chương trình học, đảm nhận một vai trò lãnh đạo ở cơ quan, hoặc bỏ phiếu thay chủ tịch câu lạc bộ bóng đá sau một mùa giải thất bại. Việc thực hiện trách nhiệm công dân làm tăng hạnh phúc của ta lên gấp đôi: qua kết quả hoạt động của ta, và qua niềm vui thú mà tự thân hoạt động đó đem lại.
Trì trệ và cảm giác tuyệt vọng là kẻ thù lớn nhất của hạnh phúc - một tư tưởng mà bạn đã bắt gặp suốt cuốn sách này. Mặt khác, hoạt động chính là chìa khóa để mở cánh cửa đến những cảm giác tích cực. Điều này áp dụng cho hạnh phúc riêng của cá nhân, và hơn thế, cho hạnh phúc của cả xã hội theo nghĩa một tổng thể. Một cuộc sống hạnh phúc không phải là món quà của số phận. Để có được nó, chúng ta phải hành động.