Chú thích 1
LỜI GIỚI THIỆU
1. Ramachandran mô tả nghiên cứu của ông trong cuốn sách tuyệt vời Phantoms in the Brain: Probing the Mysteries of the Human Mind (Những bóng ma trong não: Thăm dò những bí ẩn của tâm trí con người). New York, 1998.
2. Tiếng Sanskrit có một từ định danh cho hạnh phúc với nghĩa đem lại cảm giác dễ chịu (sukha), một từ khác cho cảm giác hài lòng khi hoàn thành việc gì đó (krtarthata), những từ khác cho niềm vui (ananda), và cho cảm giác dễ chịu về thể chất sau khi tập yoga (sampad). Thậm chí còn có một từ dành cho niềm hạnh phúc tột cùng mà một người trải nghiệm sau nỗi kính sợ khi nhìn thấy Thượng đế.
3. Thí nghiệm được nhà tâm lý học văn hóa của Mỹ Paul Rozin thực hiện. Ông sử dụng một khảo luận kinh điển về nghệ thuật viết kịch của Ấn Độ, Natyashashtra. Cuốn sách được viết từ 2000 năm trước đây, bao gồm những bàn luận cổ xưa nhất được truyền lại về vai diễn và những cảm giác trong nghệ thuật kịch. Những cảm giác tiêu cực được miêu tả trong Natyashashtra khá tương ứng với những cảm giác của chúng ta, những văn bản tiếng Ấn Độ đó lại mô tả nhiều kiểu hạnh phúc hơn những kiểu có trong văn hóa châu Âu. Xem thêm Heymadi, Davidson và Rozin 2000.
4. Có một số đánh giá bảo thủ. Xem Kessler và cộng sự 2005 cùng các tham khảo được trích dẫn trong đó.
5. Số lượng tự tử ở Nam Mỹ, châu Phi và một số nước châu Á được báo cáo là ít nhất. Chẳng hạn như Argentina, tỉ lệ tự tử chỉ bằng một nửa so với Đức xét tương quan về số dân. Ở một số nước như Ai Cập, hầu như không thấy vụ tự tử nào. Xem Demographic Yearbook of the United Nations (Thống kê nhân khẩu thường niên của Hoa Kỳ), các ấn bản từ năm 1981 đến 1997.
6. Nguy cơ mà một người dân Paris chẳng hạn sinh giữa khoảng năm 1945 và 1954 thì bị bệnh trầm cảm nghiêm trọng trước tuổi 15 chỉ là 4%. Nhưng đối với những người sinh trong khoảng mười năm sau đó, nguy cơ tăng lên 12%. Số liệu các thành phố của Mỹ cũng tương tự. Xem CrossNational Collaborative Group, "The Changing Rate of Major Depression” (Tỉ lệ bệnh trầm cảm nghiêm trọng đang biến đổi) JAMA 268 (v.21), trang 3.098-3.105, 1992.
7. Không ai biết nguyên nhân gây ra chứng bệnh tâm lý này. Những lý do khả dĩ: đô thị hóa, căng thẳng liên quan tới Công việc, tỉ lệ ly hôn, hoặc sự giảm lao động chân tay. Tuy nhiên có một điều chắc chắn là: mức tăng trầm cảm đáng báo động này không thể giải thích bằng cách đơn thuần quả quyết rằng ngày càng có nhiều người sớm tìm đến và nhận được sự hỗ trợ tâm lý hơn trước đây.
8. Hiện nay, hậu quả của bệnh trầm cảm nghiêm trọng (trầm cảm đạm cực chiếm đa số) đứng thứ tư trong danh sách các nguyên nhân chính gây ra bệnh bất lực trên khắp thế giới của WHO. Xem Murray và Lopez 1997.
9. Isen 1987; Isen và Daubmann 1984; Murray và Cộng sự 1990; Frederickson 1998.
10. Isen 2001; Basso 1996; Baron 1987; Myers 1987.
CHƯƠNG 1: BÍ MẬT CỦA NỤ CƯỜI
1. Có một số tóm tắt hữu ích những nghiên cứu của Ekman trong Ekman 1999, Ekman 1993.
2. Ito và Cacioppo 2000.
3. Ekman và cộng sự 1990.
4. Duchenne 1991.
5. Birnbaumer và Schmidt 1999.
6. Damasio 1995.
7. Bechera và cộng sự 1997.
8. Pascal 1980.
9. Một bàn luận chuyên sâu về sự khác nhau giữa cảm giác và cảm xúc có trong Damasio 2000.
10. Damasio và cộng sự 2000.
11. Damasio 2000.
12. Critchley, Mathias và Dolan 2001; Damasio 2000. 13. Tatarkiewicz 1976.
14. Ekman và Davidson 1993.
CHƯƠNG 2: CẢM GIÁC TÍCH CỰC LÀ KIM CHỈ NAM 1. Damasio 1995. 2. Bechera và cộng sự 1994. 3. Ito và cộng sự 1998; Crites và Cộng sự 1995. 4. Aristotle 1998.
CHƯƠNG 3: HỆ HẠNH PHÚC
1. Birnbaumer và Schmidt 1999,
2. Ramachandran 2001.
3. Những tế bào thần kinh bên bán cầu não phải phản ứng với kích thích khó chịu: Kawasaki H. và cộng sự 2001. Về những nơron tương ứng bên bán cầu não trái, xem Damasio 2001.
4. Davidson và cộng sự 2000.
5. Fox và Davidson 1984.
6. Điều này áp dụng cho những người thuận tay phải. Bởi vì số người thuận tay trái ít hơn, họ hầu như không bao giờ được tính đến trong những nghiên cứu dạng này. Vì vậy chúng ta không biết tác động nào của sự chiếm ưu thế bên não phải (sự thuận tay trái) tham gia xử lý các cảm giác. Nhưng có những chỉ số cho thấy rắc rối cảm xúc xảy ra ở những người thuận tay trái ở một mức độ có phần cao hơn so với toàn dân số.
7. Damasio 1995. 8. Ekman 1990.
9. Về sinh học thần kinh cơ bản, xem Zieglgänsberger và Spanagel 1999.
10. Chẳng hạn xem Horn 1998, Russell 1946.
11. Chụp PET và máy MRI chuyên dụng cho thấy hoạt động ở thùy trước trán bên trái quan hệ nghịch với hoạt động trong hạch hạnh. Khi hoạt động ở thùy trước trận bên trái tăng thì hoạt động ở hạch hạnh sẽ giảm, và ngược lại. Xem Abercrombie và cộng sự 1996.
12. Jakson và cộng sự 2000.
13. Mallick và McCandless 1966, Travis 1989. 14. Wheeler, Davidson và Tomarken 1993; Davidson và Tomarken 1993.
15. R. Davidson, trao đổi cá nhân với tác giả; Davidson và cộng sự 1999.
16. Davidson và Fox 1989.
17. Lykken và Tellegen 1996.
18. Lykken 1999. 19. Francis và cộng sự 2000. 20. R. Davidson: trao đổi cá nhân.
CHƯƠNG 4: BỘ NÃO CÓ THỂ RÈN LUYỆN
1. Naj 1992.
2. Những phần tóm tắt xem Rozin 1990; Bayens và Cộng sự 1996; Stevenson và Yeomans 1995.
3. Rozin 1990.
4. Kleist 1985.
5. Klein 2000.
6. Trích trong Horn 1998.
7. Horn 1998.
8. Craven và Kanwisher 2000
9. Ovid: Biến hình (Metamorphoses), XV, 147-151. 10. Bonhoeffer đã sử dụng một kính hiển vi quang học hai photon, cho phép quan sát được sự thay đổi của nơ ron trong không gian ba chiều và trong thời gian thực. 11. Engert và Bonhoeffer 1999.
12. Miêu tả này về cơ bản là đúng, nhưng hơi đơn giản. Mối liên kết trực tiếp giữa kích thích và phản ứng cảm xúc chủ yếu là do kết nối giữa những vùng dưới vỏ não, nơi giải phóng cảm xúc, với phần vỏ não trước trán, nơi kìm nén sự hình thành những cảm xúc mạnh.
13. Có những lý do hợp lý cho việc vì sao tính mềm dẻo của các vùng trên đại não chịu trách nhiệm nhận thức và những vận động cơ thể được nghiên cứu nhiều hơn các phần khác của não bộ. Vùng được gọi là vỏ não cảm biến cơ thể (somatosensory cortex, “soma” từ Hy Lạp cổ có nghĩa là cơ thể) nằm ngay dưới đỉnh sọ não, cho nên có thể được quan sát tương đối dễ dàng bằng các máy dò và máy chụp. Nhưng rất Có thể các cơ chế mềm dẻo thần kinh tương tự như các nhà nghiên cứu sự tái lập trình tế bào thần kinh gọi chúng) xảy ra nhiều vùng não bộ khác nhau. Bởi vì những thay đổi như vậy trong não bộ chỉ mới được nghiên cứu tương đối gần đây, nên vẫn cần nhiều nghiên cứu hơn nữa.
14. Pascual-Leone và Torres 1993; Pascaual-Leone và Cộng sự 1995.
15. Quan sát tương tự được thực hiện ở những nghệ sĩ cello, vùng não bộ xử lý những ngón tay trái chơi trên phím của họ rõ ràng là lớn hơn những vùng xử lý tay phải vốn chỉ đơn giản cầm cây vĩ. Khi các nhà thần kinh học khảo sát não bộ của thợ cơ khí và thư ký văn phòng thông thường vốn cần đến kỹ năng vận động tinh, họ phát hiện ra một một số lượng lớn bất thường các nhánh tế bào thần kinh xử lý xúc giác và điều khiển ngón tay. Ebert và cộng sự 1995; Scheibel và cộng sự 1990.
16. Maguire và Cộng sự 2000.
17. Quá trình xử lý phân tử của tiềm lực dài hạn và ngắn hạn được miêu tả sâu trong Kandel và cộng sự 1996. 18. Cohen-Cory và Fraser 1995; McAllister và Cộng sự 1996.
19. Duman, Heninger và Nestler 1997.
20. Bailey và Chen 1983.
21. Một thay đổi kiểu này khó có thể được tìm thấy trong một nhóm đối chứng không được điều trị. Baxter và cộng sự 1992; Schwartz và Cộng sự 1996.
22. Brody và cộng sự 2001. 23. Bench và cộng sự 1995. 24. Kandel, Schwartz và Jessell 1995.
25. Wurtz và Goldberg 1989.
26. Radhakrishnan 2000.
27. Flor 2002.
28. Thích Nhất Hạnh 1995.
29. Dalai Lama và Cutler 1998.
CHƯƠNG 5: NGUỒN GỐC TỪ THẾ GIỚI ĐỘNG VẬT
1. LeDoux 1996.
2. de Waal 1996.
3. Nesse và Berridge 1997.
4. Pedersen và cộng sự 1982.
5. Blaffer Hrdy 1999.
6. Descartes 1984.
CHƯƠNG 6: HAM MUỐN
1. Tất cả trích dẫn được lấy từ Sacks 1973, cuốn sách bao gồm cả bản báo cáo chi tiết căn bệnh của Leonard.
2. Chính xác hơn, L-Dopa chính là tiền chất mà não bộ tự nó chuyển hóa sang dopamine một cách tự nhiên. Hầu như không có tác dụng mấy nếu bơm trực tiếp dopamine vào bệnh nhân: bởi vì, không thể qua được rào chắn máu não, nó sẽ bị lọc ra khỏi máu trên đường đến não bộ.
3. Nơi tiếp nhận dòng chảy dopamine là những trung tâm vỏ não chịu trách nhiệm cho sự theo đuổi mục đích cũng như kiểm soát các cơ chủ động. Các nhánh dopamine khác đi đến những nhân cạp (nucleus accumben) trong vỏ não trước trán, vốn đóng một vai trò quan trọng trong bộ nhớ những trải nghiệm dễ chịu, và đi đến hạch hạnh, phần sinh ra những cảm xúc và lưu trữ chúng trong bộ nhớ. Khi một dòng chảy đi qua những vùng kể trên, ta có thể nhận thấy có đến bao nhiêu vùng của não bộ nhận được những tín hiệu dopamine. Đó là lý do tại sao chất truyền dẫn thần kinh này lại có tác động lớn như vậy đến chức năng của não bộ, ảnh hưởng đến suy nghĩ và cảm giác của chúng ta, đến cách chúng ta nhìn thế giới cũng như hành động của chúng ta trong thế giới đó.
4. Những người chịu đựng căn bệnh Parkinson, vốn cũng đồng thời bị thiếu hụt dopamine, giờ đây đã được chữa bằng L-Dopa thường xuyên. Cũng có những tác dụng phụ, nhưng rất nhỏ. Tuy nhiên, L-Dopa (còn được gọi là Lovodopa) và những dược phẩm tương tự không phải là phương thuốc cho tất cả bệnh nhân mắc Parkinson. Tác dụng của chúng bị giảm đi theo thời gian, bởi vì ngày càng có nhiều tế bào trong vùng chất đen (substania negra) suy giảm dần.
5. Dopamine cũng có thể gây ảnh hưởng ức chế đối với một số nơ ron. Xem Zieglgänsberger và Spanagel 1999. 6. Wickelgren 1997.
7. Schultz, Apicella và Ljungberg 1992, 1993; Schultz, Dayan và Montague 1997; Wickelgren 1997. 8. Schultz 2000.
9. Montague, Dayan, Person và Sejnowski 1995.
10. Quá trình này được chỉ ra là xảy ra trong não bộ của chuột sống. Sau mười phút, sức mạnh ghép nối sức mạnh của những nơ ron trong não giữa, nơi kiểm soát hành vi, đã thay đổi.
11. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa rằng những con ong này trải nghiệm thứ gì đó tương tự như niềm vui sướng của loài người khi chúng phát hiện ra một bông hoa vô cùng nhiều mật. Một con ong thì không cần đến cảm giác, thứ giúp dẫn dắt những sinh vật phức tạp suốt cuộc sống rối rắm của chúng. Một con ong chỉ sống trong thực tại. Không giống loài người, nó không thể chơi trò tung hứng trong óc về những khả năng mà tương lai bày ra cho nó, và không thể tự hỏi có nên bay ra ngoài hút mật hay tốt hơn hãy ở nhà xem ti vi chẳng hạn.
12. Elliott, Friston và Dolan 2000. 13. Koepp và cộng sự 1998. 14. Fiorino, Coury và Phillips 1997. 15. Rodriguez-Manzo và Fernandez-Guasti 1994; 1995. 16. Rolls 1999; Hamer 1998.
17. Baker và Bellis 1995.
18. Marina Maria Morsini, con gái của một trong gia đình quý tộc thượng đẳng ở Venice, được nhận biết trong hồi ký của Casanova chỉ là M.M. Nhưng không có một nghi vấn nào về thân thế cô gái này. Xem Casanova 1964.
19. Vincent 1990.
20. Aristotle 1998.
21. Rất khó làm mất đi tính tò mò, việc này đòi hỏi phải có những biện pháp mạnh. Những người mắc căn bệnh tâm thần phân liệt có thể tạm thời bị mất tính tò mò khi bác sĩ cho uống thuốc an thần halperidol, giúp hạn chế tác dụng tự nhiên của dopamine. Đôi khi không có lựa chọn nào khác ngoài cho một liều mạnh thuốc an thần này đối với bệnh nhân bị những cơm điên dữ dội nhằm tránh cho họ khỏi hoang tưởng. Thuốc an thần hóa giải được cơn điên, nhưng nó đồng thời lại ngăn cản khả năng vận động, nó cũng làm suy giảm dục vọng và tính tò mò. Thật buồn khi nhìn những người điên lê chân vô hồn trong hành lang bệnh viện như thể họ là những cái máy tự động, không quan tâm bất cứ điều gì.
22. Rất khó nói rằng tính cách của một người là sợ hãi hay dễ cáu giận, bởi những hoàn cảnh cụ thể là quan trọng hơn nhiều trong việc người ta quyết định phản ứng như thế nào. Thường là không hợp lý khi dán nhãn ai đó là “nhát” hoặc “dễ cáu giận” - nhưng chắc chắn có một số người bẩm sinh rất tò mò hoặc ít tò mò. Xem Spielberger 1975, Panskepp 1990.
23. Blum 1996. 25. Isen, trao đổi cá nhân; Isen và Cộng sự 1991.
24. Trong ấn bản Berlin năm 1991.
26. Ashby và cộng sự 2001; Ashby và cộng sự 1999. 27. Tác động cụ thể của dopamine đối với hội đại (gyrus cinguli) rất đáng kể. Những người bệnh Parkinson bị thiếu dopamine thường gặp khó khăn trong việc duy trì những ấn tượng mới và kiểm soát sự chú ý của mình.
28. Về dopamine và bệnh tâm thần phân liệt, xem Feldman và cộng sự 1997.
CHƯƠNG 7: KHOÁI CẢM
1. McInerney, 2000.
2. Breiter đã tiến hành thí nghiệm trên những đối tượng nghiện cocaine - một ví dụ hết sức nổi bật.
3. Murphy và cộng sự 1990.
4. Baudelaire, 1869.
5. Pfeiffer 1996.
6. Cromwell và Berridge 1993.
7. Cooper và Kirkham 1993.
8. Điều này được minh họa bằng ví dụ chuột mẹ sẵn sàng quan tâm đến những con chuột con hoàn toàn xa lạ khi chúng được bơm chất thuốc phiện vào não. Xem Thompson và Kristal 1996.
9. Odyssey, 1996.
10 Tawin 10LA
11. Loomis và cộng sự 1898, được trích trong Panksepp 1998.
12. Trong một lá thư gửi Theodor Storm, được trích trong Randow 2001.
13. Montmayeur và Cộng sự 2001; Max và cộng sự 2001. 14. Vincent 1996.
15. Kurihara và Kashiwayanagi 1998; Rolls 1999. 16. Kerverne và cộng sự 1989. 17. Panksepp và Cộng sự 1980. 18. Panksepp 1998. 19. Herz và Spanagel 1995. 20. Nuñez và cộng sự 1998. 21. Sapolsky 1998.
22. Đó là ở vùng dưới đồi và thể vận (Striatum), hai trung tâm dưới vỏ não chịu trách nhiệm cho phấn khích, vận động và dục vọng. Xem Persky 1987;Panksepp 1998. 23. Kohelet 2; 11, 17.
CHƯƠNG 8: MẶT TRÁI CỦA HAM MUỐN
1. Olds và Milner 1954; Olds 1977.
2. Reynolds và cộng sự 2001. 3. Reynolds và cộng sự 2001. 4. Smith 1971.
5. Breiter và cộng sự 2001. 6. Zeiglgänsberger và Spanagel 1999. 7. Sell và cộng sự 1999.
8. Điều này đặc biệt có hiệu lực đối với thói nghiện rượu và nicotine, sự phụ thuộc phổ biến nhất. Ngược lại, nhiều người (và dường như cả những con vật thí nghiệm) cảm nhận cocaine và heroin một cách khoan khoái khi lần đồ,, sân sau
9. Linsky và cộng sự 1985.
10. Grinspoon và Bakalar 1986. 11. Marlott và cộng sự 1975. 12. Charles O'Brien, Đại học Pennsylvania, trao đổi cá nhân với tác giả.
13. Piazza và cộng sự 1989.
14. Thanos và cộng sự 2001. 15. Wecker 1998.
16. "Die Kokain-Gesellschaft." Trong: Der Spiegel 44/2000.
CHƯƠNG 9: TÌNH YÊU
1. Moss 1978; Vincent 1996. 2. Ferguson và Cộng sự 2000; 2001. 3. Young và Cộng sự 1999. 4. Insel và Young 2000. 5. Insel và Young 2001. 6. Imperato-McGinley 1974. 7. Kandel và Cộng sự 1996. 8. Carter 1998.
9. Oomura và cộng sự 1988.
10. Tuy nhiên, những cơ chế nhục dục này tận dụng hệ thống đa năng để đạt được dục vọng, như được miêu tả ở Chương 6 và Chương 8. Ở những thí nghiệm động vật, nếu như chặn tác dụng của chất dopamine lại, thì nhục dục cũng biến mất hoàn toàn.
11. LeVay 1993. 12. LeVay 1991.
13. Kandel 1996.
1007
14
15. Landgraf và cộng sự 1992.
16. Điều này được minh họa bởi một giống chuột có lỗi gien gây ra sự thiếu hụt vasopressin. Panskepp 1998.
17. Sodersten và cộng sự 1983. 18. Carmichael và cộng sự 1994. 19. Goldfoot và cộng sự 1980. 20. Bartels và Zeki 2001.
21. Panskepp 1998.
22. Krican và cộng sự 1995.
23. Lorberbaum và cộng sự 1999.
24. McCarthy 1990.
25. Insel và Young 2001
26. Uvnäs-Mosberg và cộng sự
27. Argyle 1987
. 1990.
28. Kobrin và Hendershot 1977.
29. Psychologie Heute 03/2001.
CHƯƠNG 10: TÌNH BẠN
1. Sapolsky và Cộng sự 1997.
2. Sapolsky 2001.. 4. House và Cộng sự 1989; Argyle 2000. 5. Spiegel và cộng sự 1989; Spiegel 1991.
3. Argyle và Lu 1990; Okun và cộng sự 1984
6. Để có những thông tin chuyên sâu, cập nhật và được trình bày rõ ràng, xem trang chủ của Viện Ung thư Quốc gia (http://www.cancer.gov), trang web Oncolink Đại học Pennsylvania (http://www.oncolink.upenn.edu) và Hiệp hội Ung thư Mỹ (http://www.cancer.org).
7. Berkman 1983; House và cộng sự 1988. 8. Sapolsky 2000.
9. Kiecolt-Glaser và cộng sự 1984. 10. Coe và cộng sự 1989. 11. Riley 1981. 12. Rosengren và cộng sự 1993. 13. Panskepp 1998. 14. Panskepp 1998. 15. Field và cộng sự 1986.
16. Sử gia trung cổ Salimbene của Parma, trích trong Montagu 1974.
17. Winslow và Insel 1991.
18. Đáng ngạc nhiên là thuốc gây nghiện có thể làm dịu đi những bứt rứt gây ra bởi sự cô đơn tốt hơn hẳn các thuốc giảm đau tiêu chuẩn, những loại vốn dĩ có hiệu quả chống lại sự lo lắng. Panskepp xem điều này như một chứng cứ thuyết phục cho lý thuyết của ông rằng chúng ta có một mạng thần kinh tinh vi để gây cho những người đang cô đơn trạng thái hoang mang, và do vậy thúc đẩy chúng ta tìm kiếm sự thân mật với người khác. Nếu như nỗi sợ nhện và thang máy có thể điều trị được hiệu quả bằng thuốc giảm căng thẳng thần kinh Valium và các loại tương tự (được gọi là benzodiazepines), trong khi sự cô đơn lại điều trị tốt nhất bằng thuốc phiện, thì hai biến thể này của nỗi sợ ắt phải khác biệt nhau cơ bản và xảy ra theo những cách khác nhau. Xem Panskepp 1998.
19. Cocteau 1998.
20. Về trạng thái ngây ngất và dopamine, ví dụ xem Liechti và Vollenweider 2000,Obradovic và cộng sự 1996.
21. A. Shulgin: trao đổi cá nhân với tác giả. Không nên hiểu nhầm đoạn này như là một lời gợi ý dùng Ecstasy. Mặc dù loại thuốc này có lẽ không gây nghiện, nhưng có những chỉ báo rằng nó gây hại cho não bộ khi sử dụng nhiều lần. Thêm nữa, những viên thuốc bình thường sẵn có này hầu như không bao giờ chỉ có Ecstasy thuần túy (tên hóa học là MDMA) mà luôn là một hỗn hợp cả một số chất khác. Điều này khiến ta rất khó đoán được tác dụng của nó đối với người dùng và do vậy có tính rủi ro hơn. Nhưng bất chấp nguy cơ của việc dùng sai thuốc, những tác dụng của thuốc gây nghiện đã dẫn đến những hiểu biết có giá trị đối với khoa học.
22. de Waal 1997.
23. de Waal và Berger 2000.
24. de Waal 1997.
25. Damasio 2000.
CHƯƠNG 11: ĐAM MÊ - SÁCH HƯỚNG DẪN
1. Để biết thêm thông tin, xem Chương 14.
2. Biddle và Mutrie 1991.
3. Scully và cộng sự 1998.
4. Biddle và Mutrie 1991.
5. Moses và cộng sự 1989. 6. Rolls 1999; Doherty và Cộng sự 2000. 7. Tagore 1976. 8. Zajonc 1968; Federick và Loewenstein 2000. 9. Naipaul 1991.
10. Kiecolt-Glaser và cộng sự 1987; Kiecolt-Glaser và Cộng sự 1994.
11. Kiecolt-Glaser và cộng sự 1994.
12. Montaigne 2001.
13. Những thí nghiệm mà Jaak Panskepp thực hiện trên những con chuột con là rất thú vị về mặt này. Nghịch đánh nhau là cách thể hiện giao tiếp xã hội cơ bản của chúng. Chiến thắng trong những cuộc đánh nhau này tạo ra cho chúng một lượng morphium nhỏ. Rõ ràng một kiểu tự tin có tính xã hội được tăng cường, khiến con vật này dễ dàng thắng thế hơn. Xem Panskepp và Cộng sự 1985.
14. Meyers 1992.
15. Robins và Rieger 1991.
16. House và Cộng sự 1988. Những sự khác nhau trong ứng là rõ ràng thậm chí cả ở tỉ lệ tử vong. Tuổi thọ của những người độc thân thấp hơn nhiều trong mọi nhóm tuổi so với những người sống cùng bạn đời hoặc cùng gia đình. Xem Stroebe và Stroebe 1991.
17. Argyle 2000. Một mối quan hệ với người bạn đời lâu dài khiến cho cuộc sống ổn định. Đây dường như là một cách giải thích khác cho niềm hạnh phúc tràn đầy hơm của những người sống trong các mối quan hệ như vậy. Hạnh phúc và sức khỏe thúc đẩy chúng ta quan tâm chăm sóc bản thân, ngay cả nếu việc đó đôi khi bất tiện, và những người bạn đời luôn đảm bảo chúng ta gắn chặt với nó. Do vậy, sự thiếu tự do trong một mối quan hệ có cam kết lại có những lợi ích của nó.
18. Panskepp 1998.
CHƯƠNG 12: CHINH PHỤC BÓNG TỐI ĐỜI TA
1. Theo như tiêu chí đã được quốc tế công nhận DSM-IV, một nghi ngờ về bệnh trầm cảm nghiêm trọng được chúng thực khi mỗi ngày (hoặc hầu hết mỗi ngày) trong vòng hai tuần một người trải nghiệm ít nhất năm trong số những triệu chúng dưới đây: buồn bực, suy giảm hứng thú trầm trọng, hoặc không hứng thú, trong tất cả hoặc hầu hết các hoạt động: giảm cân hoặc tăng cân rõ rệt, hay chán ăn hoặc thèm ăn hơn; mất ngủ hoặc ngủ quá nhiều, cơ thể bứt rứt, mệt mỏi hoặc mất năng lượng, cảm giác vô dụng hoặc tội lỗi; ý nghĩ tự tử và cái chết luôn tái diễn.
Xem thêm thông tin và nguồn tại Viện Sức khỏe Tinh thần, http://www.ninh.nih.gov/publicat/depression.cfm. 2. Lindner 1968.
3. Hiroto 1974.
4. Bench và cộng sự 1995. Roger và Cộng sự 1998 đưa ra một tổng quan từ nhiều nghiên cứu hình ảnh não bộ về chứng trầm cảm.
5. Henriques và Davidson 2000. 6. Baker và cộng sự 1997. 7. Wenzlaff 1993.
8. Matt và Cộng sự 1992 9. Sapolsky 1998.
10. Solomon 2001 đưa ra một báo cáo trực tiếp đầy ấn tượng cùng với những kết quả nghiên cứu và một bản đánh giá.
11. Rogers và Cộng sự 1998. 12. Vogel 2000. 13. Rajkowska 2000.
14. Wayne Dresets, một bác sĩ tâm thần học thuộc Đại học Pittsburg, đã phát hiện ra một số phần nhất định của thùy trước trán suy thoái khoảng 40%. Không những nơron mà các tế bào được gọi là mô đệm thần kinh, có chức năng nuôi dưỡng và làm sạch những tế bào thần kinh, cũng tạo đi.
Tác động của bệnh trầm cảm lên cấu trúc não bộ là một khám phá mới, dù nó chưa được công nhận rộng rãi. Người ta đã phát hiện ra rằng trầm cảm làm thay đổi cấu trúc não bộ không những của người mà cả của khỉ và chuột. Xem Duman và cộng sự 1998.
15. Vogel 2000.
16. Lopez và Cộng sự 1999; Lopez và cộng sự 1998. 17. Malberg và cộng sự 2000.. 19. Baker và cộng sự 1997. 20. R. Davidson, trao đổi cá nhân, Robbins 2000. 21. Kempermann và cộng sự 1997. 22. Chaouloff 1997. 23. Blumental
18. Duman và cộng sự 1997 và Cộng sự 1999; Babyak và cộng sự 2000; Steptoe và Cộng sự 1996.
24. Elkin và Cộng sự 1989. 25. Comer 2001.
26. Berk và Efran 1983;Svartberg và Stiles 1991. 27. Để biết thêm những hướng dẫn được gợi ý đối với phương pháp này, xem Seligman 1991; Schwartz 1998.
CHƯƠNG 13: SỨC MẠNH CỦA NHÃN QUAN
1. Brickman, Coates và Janoff-Bulman 1978. 11 người liệt hai chi, 18 người liệt tứ chi và 22 người trúng xổ số đã được phỏng vấn. Những nghiên cứu sau này, trong đó phỏng vấn hàng trăm bệnh nhân, đều cho kết quả tương tự.
2. Frederick và Loewenstein 2000. 3. N. Schwarz, trao đổi cá nhân với tác giả. 7. Seligman 1991 cung cấp một phần tổng quan tốt. 1990.
4. Kahneman 2000.
5. Medver và Cộng sự 1995.
6. Parducci 1968.
8. Smith, Diener và Garonzik
9. Montaigne 2001.
10. Schwarz và cộng sự 1988.
11. Strack và cộng sự 1990. 12. Russell 1977.
13. Brown 1978.
14. Epictetus 1995.
15. Diener 1985.
16. Löwer 2000.
17. Diener và Cộng sự 1993; Haring và cộng sự 1984. 18. Brickman và Campbell 1971.
19. Schmuck và cộng sự 2000; Kasser và Ryan 1996; Kasser và Ryan 1993, Kasser và Ryan 1999.
20. Những tác dụng này tương tự như những tác dụng trong một liệu pháp chuẩn về hành vi nhận thức. Fava và Cộng sự 1998; Fava 1999.
CHƯƠNG 14: NHỮNG KHOẢNH KHẮC THĂNG HOA
1. Luxemburg 2000. 2. Matthew 14: 28-31
3. Rees và cộng sự 1997.
4. Mặc dù nhà nghiên cứu linh trưởng Jane Goodall đã ghi chép việc quan sát thấy những con tinh tinh trong tự nhiên vui đùa nhảy nhót dưới thác nước, song các nhà nghiên cứu động vật linh trưởng khác lại nghi ngờ lối giải thích rằng niềm hạnh phúc của tinh tinh phát sinh từ việc cảm nhận nước như một nguồn truyền sức sống. Khả năng nhiều hơn là chúng chỉ đơn giản thích thú vui chơi trong nước.
5. Konsalik và Goetsche 1998.
6. Csikszentmihalyi 1992.
7. Lavie 1995.
8. Caplan và cộng sự 1975. 9. Cần những nghiên cứu sâu hơn nữa để khẳng định lý thuyết này. Chắc sẽ rất tốn kém nhưng với những kỹ thuật hiện nay, việc đó hoàn toàn khả thi. Chẳng hạn, có thể thí nghiệm đưa cho những người đang bận rộn với hoạt động đòi hỏi trí não các dược phẩm có tác dụng chặn lại một số chất truyền dẫn thần kinh cụ thể. Một khả năng khác là sử dụng kỹ thuật chụp ảnh não để quan sát não bộ của đối tượng thí nghiệm trong khi họ đang chú tâm vào một hoạt động cụ thể cho trước.
10. Durstewitz và cộng sự 1999.
11. Wallace và Benson 1972.
12. Begley 2001.
13. Acts 9:4.
14. Về trải nghiệm huyền diệu của những nhân vật lịch sử, xem Engel 1989; LaPlante 1993.
15. Newberg và Cộng sự 2001; Saver và Rabin 1997. 16. Những giải thích trực tiếp được trình bày trong Begley 2001.
17. Những phát hiện của Newberg đều trùng với những nghiên cứu khác. Xem Lazar và Cộng sự 2000.
18. Cook và Persinger 1997.
CHƯƠNG 15: TAM GIÁC THẦN KỲ
1. Thu nhập đã tăng khoảng tám lần từ những năm 1950, và sức mua tăng ít nhất gấp ba lần. Sự khác biệt trong hai con số này chính là kết quả của lạm phát.
2. Brecht 1979.
3. Ở Mỹ, sức mua trung bình tăng đáng kể trong vòng năm mươi năm qua, trong khi đó tỉ lệ những người dân tự cho mình là hạnh phúc vẫn duy trì ổn định ở mức 33%. Xem Myer và Diener 1995.
4. Mối quan hệ này vẫn không thay đổi khi ta loại bỏ không tính đến các nước trước đây là cộng sản, vốn đã trải qua một sự chuyển giao chính trị và xã hội đầy gian khổ. 5. Diener và Suhk 2000.
6. Sen 1999.
7. Wilkinson 1996.
8. Adler 2001.
9. Nguồn: OECD-Document DEELSA/ELSA/WD (2003) 3.
10. Kawachi và cộng sự 1997; Kaplan và cộng sự 1996. 11. Được tính dựa trên tỉ lệ của tổng thu nhập mà 20% nghèo nhất trong dân số kiếm được. Nguồn: Viện Chính sách Kinh tế, Trung tâm Ngân sách và Chính sách ưu tiên. Có những chỉ số khác thể hiện sự phân phối thu nhập, nhưng sự tương quan giữa bất bình đẳng trong thu nhập và tỉ lệ tử vong vẫn độc lập với bất kỳ chỉ số nào được sử dụng. Xem Kennedy, Kawachi và Prothrow-Stith 1996; Kawachi và Kennedy 1997.
12. Wilkinson 1996.
13. Để có cái nhìn tổng thể hơn, tham khảo World Bank: www.worldbank.org/poverty/inequality/intro.htm.
14. Kopp 2000; Kopp và Cộng sự 2000. Văn phòng WHO khu vực châu Âu: Bản đồ tỉ lệ tử vong ở châu Âu 1980/81 và 1990/91. Tài liệu xuất bản theo khu vực của WHO, loạt về châu Âu, Số 75. Copenhagen 1997.
15. Egolf và Cộng sự 1992; Bruhn và Wolf 1979.
16. Về quan hệ giữa bệnh ung thư và trí não, xem Chương 10, bao gồm cả chú giải 6.
17. Một trong những nghiên cứu sớm nhất và thành Công nhất được gọi là Nghiên cứu Alameda, trong đó các nhà nghiên cứu xã hội đã bám sát cuộc sống của người dân quận
Alameda, California, từng chi tiết tính theo phút trong suốt cả một thập kỷ. Xem Berkman và Syme 1979. Một bản phân tích sự phát triển tuổi thọ ở Anh trong suốt hai cuộc chiến tranh thế giới đã chỉ ra tầm quan trọng đặc biệt của việc phân phối hàng hóa công bằng, của ý thức cộng đồng và mối quan tâm chung trong xã hội. Từ Công nhân lên đến các thượng nghị sĩ của vương quốc, khẩu phần lương thực đều ở mức thấp giống nhau trên bảng phân phối. Mặc dù năng suất kinh tế giảm, song từ năm 1914 đến 1918 và từ năm 1940 đến 1945, tuổi thọ Anh cao hơn rất nhiều so với những thập kỷ trước hoặc sau đó. Xem Wilkinson 1996; Sen 1999.
18. Luận điểm rằng xã hội quân bình của Hà Lan có thể truy nguyên là do những đe dọa không ngừng từ việc biển dâng là của sử gia xã hội học người Anh Simon Schama. Tham khảo Shermer 2000.
19. Tất cả những những trích dẫn này có thể tìm thấy ở Blomberg 2001. Trích dẫn từ Perelman cũng nằm trong cuốn sách này.
20. Argyle 1996.
21. Putnam 1993.
22. Putnam 2000; Kawachi và cộng sự 1997; Kawachi và Kennedy 1997; Kaplan và cộng sự 1996. 23. Frey 2001.
24. Clark và Oswald 2002.
25. Argyle 2000; Frey 2001; Argyle 1989; Ingelhart 1990; Lahelma 1989.
26. Kahlweit 2002.
27. B. McEwen: Stress and Health (Bệnh căng thẳng và sức khỏe). Bài thuyết trình tại Hội nghị thường niên của Hiệp hội Tiến bộ Khoa học Mỹ, 12/2/2001, San Francisco.
28. Sapolsky 2000; Sapolsky 1998; Sapolsky 1993. 29. Oettingen và Seligman 1990.
30. Những công chức nhà nước càng ở thang bậc xã hội thấp thì tác dụng tiêu cực đến đề kháng insulin càng cao và tình trạng vón cục trong máu càng nặng. Vấn đề đề kháng insulin có thể ảnh hưởng đến bệnh béo phì và tim mạch. Quá nhiều lượng vón cục trong máu sẽ làm tăng nguy cơ đột quỵ. Cả hai tình trạng nói trên càng trầm trọng khi người ta bị trầm cảm mãn tính. Xem Marmot và cộng sự 1997; Brunner 1997; Marmot và cộng sự 1991.
31. Sapolsky 1998. 32. Rodin 1986; Rowe và Kahn 1987. 33. Frey và Stutzer 2002; Frey 2001.
34. Như nhà tâm lý học xã hội Ed Diener đã khẳng định, những nước có công dân ở đỉnh của nấc thang hài lòng cuộc sống thì đều có những truyền thống dân chủ lâu dài. Những đất nước này đã có tự do bầu cử, tự do báo chí, và được cai quản bằng luật ít nhất là từ năm 1920, chỉ bị gián đoạn bởi sự xâm chiếm của Đức Quốc xã. Mặt khác, Công dân ở tất cả các nước Công nghiệp mà nền dân chủ hiện thời chỉ được thiết lập sau Thế chiến II hoặc muộn hơn (ví dụ Đức, Ba Lan, Tây Ban Nha) đều ít hài lòng cuộc sống hơn so với những nước dân chủ truyền thống. Có vẻ như “ý thức Công dân” phải mất nhiều thế hệ mới có thể tự thiết lập được. Dân chủ phải thấm đẫm vào trí não con người.
35. Sen 1999; Sen 1982.
36. Sen 1999. Về tác động của giáo dục đối với hạnh phúc, xem Frey 2001;Ostrove và cộng sự 2000.