LÀNG HẢI ĐĂNG - 1
Một chiếc xe hơi màu đen chạy tới rồi đỗ trước hiệu thuốc. Người đeo kính mát hiệu Rayban ngồi ghế tài xế bước xuống xe, đi vào hiệu thuốc. Đúng lúc tôi đang định ăn mỳ. Đây là bữa trưa muộn của tôi, vào lúc 3 giờ chiều. Tôi vừa dọn dẹp xong nên đói meo. Nhưng dẫu vậy cũng không thể không đứng dậy đón khách được.
“Này cậu học sinh, cho hỏi chút.”
Người đeo kính Rayban vừa gỡ cặp kính xuống vừa nói. Ánh mắt ngập ngừng nhìn mái tóc cắt ngắn của tôi, tựa như muốn hỏi “Phải học sinh không đó?” Tôi gác đũa ở quai nồi. Hỏi gì thì hỏi nhanh lên chứ.
“Đến làng Hải Đăng đi hướng nào? Trên bảng chỉ đường không thấy.”
Rayban giơ tay cầm kính lên chỉ một vòng ra phía ngã tư gần hiệu thuốc. Tôi đưa mắt nhìn khắp một lượt chiếc xe của tay Rayban. Xe to, trông vừa hung tợn vừa khỏe khoắn. Phải xe Chevy của Chevrolet không nhỉ.
“Này cậu học sinh, không biết làng Hải Đăng hả?”
Tôi ư, tôi đâu phải học sinh. Tôi là nhân viên hiệu thuốc, mỗi khi dược sĩ chủ hiệu thuốc này gọi tôi “cậu Choi ơi”, thì tôi đáp lại “Dạ”, thế thôi.
Dù vậy, tôi cũng chẳng khó chịu vì hắn có hẳn một chiếc
Chevrolet. Cũng chẳng cáu vì hắn nói năng bỗ bã. Chỉ vì tò mò, mà cũng đúng lúc chủ hiệu thuốc không có ở đó, nên tôi mới hỏi một câu.
“Không có định vị ạ?”
“Định vị cũng không tìm được nên mới phải hỏi chứ…”
“…thằng nhóc này!” – vẻ mặt hắn như ngầm lược đi từ đó. Tôi cũng bỏ qua.
“Định vị không tìm được sao lại vào hiệu thuốc làm gì ạ?”
Chiếc Chevrolet từ ngã tư phóng thẳng đi rồi biến mất. Tôi ngồi xuống ăn mỳ. Nồi mỳ vừa hết thì tôi cũng nhớ ra địa danh làng Hải Đăng. Đấy là làng Shinsung. Tôi còn nhớ ra cả việc muốn đi tới đó, phải rẽ trái ở ngã tư trước hiệu thuốc. Thêm vào đó, tôi cũng là người dân làng Hải Đăng.
Làng Hải Đăng không có trên bản đồ. Có lẽ trong mắt những người làm bản đồ, sự tồn tại của nơi này quá ư vô giá trị, ngay cả gọi tên cũng không đáng. Theo như chú ở cùng phòng với tôi bảo, thì đó là vùng đất “vành tai của bán đảo Hwawon”. Ông chủ tôi, dược sĩ chủ hiệu thuốc Papa, cũng gọi đó là “xó quê hiểm ác” mà xe đò chợ cũng chẳng buồn dừng. Theo cách nói của Hội trưởng Hội thanh niên làng Hải Đăng, đó là nơi tận cùng thế giới, nơi mà để mua được đôi dép lê cũng phải chạy kiếm khắp nơi đến “lè cả lưỡi”. Những chuyện đó đều đúng cả. Vì phải chạy qua 30 dặm đường bờ biển không một bóng người, mới thấy ngôi làng cheo leo phía trên vách đá dựng đứng. Phía trên mỏm đá nhô ra như cái mỏ chim, là ngọn hải đăng hướng ra phía biển. Biển trước làng đâm lên đủ các đảo đá lớn nhỏ, phía sau làng là cả dãy núi đá vừa cao vừa dài vây bọc.
Có lần, tôi đã từng cùng chú leo lên đỉnh núi. Nhìn xuống thấy bờ bên kia, đất liền kéo dài một dải trọn tầm mắt. Đất cũng mênh mang như biển, cả một vùng đất hoang không có lấy một thân cây. Nơi đây nghe nói Nhà nước đã mua lại và để đó, sau này định mở khu du lịch. Nghe kể trước đây vốn là cánh đồng trồng cao lương. Giờ cánh đồng cao lương tuy không còn nữa, nhưng cuối cánh đồng vẫn còn một ngôi làng nhỏ. Chính những đứa con của ngôi làng biến mất Shinsung ấy đã gọi nó là làng Hải Đăng.
Làng Hải Đăng đã bước vào buổi suy tàn. Người làng, tính cả dân vãng lai là “bọn trẻ” chúng tôi (gồm chú và tôi), cộng lại cũng chỉ được mười hai người. Người làng có tuổi bình quân là 69, đều làm nông, sống nhờ vào nghề trồng khoai. Vì biển thì có đấy, nhưng cũng chẳng ai đi bắt cá. Có biển thì cũng phải ra kéo thứ gì về chứ. Vậy nên cứ mỗi khi thiếu đồ nấu canh hay đồ nhắm rượu, họ lại đẩy lưng “bọn trẻ” chúng tôi ra biển. Đứa trẻ cuối cùng của cái làng này ra đời và được ghi vào sổ đăng ký trên Ủy ban xã từ 61 năm trước rồi. Đứa trẻ ấy giờ thành Hội trưởng Hội thanh niên Làng Hải Đăng, là chủ của chiếc thuyền máy duy nhất trong làng, và là chủ nhà trọ Hải Đăng mà tôi và chú thuê phòng ở. Khách trọ chủ yếu là mấy tay lặn Scuba[1] truyền miệng nhau ghé tới đây. Vách đứng của mấy đảo đá trên biển trước làng chính là thứ vẫy gọi họ đến với mảnh đất cô quạnh này. Giống như họ, cả tôi và chú cũng bị lôi kéo đến đây rồi bám trụ lại. Nói không chừng, đội Chevrolet có khi cũng đã nghe được tiếng gọi của mấy đảo đá nơi đây. Mong là không phải, nhưng dường như đúng là như thế.
1. Scuba (self-contained underwater breathing apparatus): thiết bị thở dưới nước.
Khoảng 7 giờ, dược sĩ chủ tiệm về, rồi mở tủ đựng tiền. Đây là tín hiệu cho thấy nghỉ làm được rồi. Tôi lén chủ tiệm, nhét vào túi một bịch thuốc bổ tăng lực đông y, với ít cao dán. Nếu có hỏi tôi, vào đêm thánh vô ngần trước Giáng sinh thế này, tôi lại đang làm trò tủn mủn gì thế kia, thì tôi có thể nói cho nghe lý do như sau.
Chú mới 40 tuổi mà đỉnh đầu đã lưa thưa tóc. Lông mày cũng đã có những sợi trắng như mấy ông đạo sĩ. Trong cuộc thi đảo đá ở làng chúng tôi, thành tích thi đấu của chú ngày càng thảm hại. Đấy là một kiểu thi ba môn phối hợp, nhưng luật thi rất đơn giản.
Trước hết, chạy thuyền máy của Hội trưởng Hội thanh niên ra mũi phía Tây một đảo đá được chọn làm nơi thi đấu. Đến nơi rồi, sau khi neo thuyền máy lại, là bắt đầu vòng thi thứ nhất – thi bơi ếch vòng quanh đảo. Vòng thi thứ hai – lặn xuống nước, sau đó, cạo thật sạch mấy cái gờ nhô ra trên vách đá chìm dưới nước, nhặt hết bọn nhím biển, nghêu sò, hải sâm bám ở đó… bỏ riêng từng loại vào giỏ. Vòng thi thứ ba – đấu bóng rổ tay đôi, ai ghi trước được năm quả vào cái lưới gôn treo trên cây thông thì thắng.
Thành tích gần đây nhất của chú, đấu mười trận thì thua mất chín. Tuần trước, lúc nhảy lên làm cú úp bóng vào rổ, chú bị trẹo cả cổ. Chú bảo như thể có “thằng nào” đê tiện, đã lấy tay ấn dúi đầu chú xuống, rồi cứ nhìn thấy tôi là chú lại ca cẩm như vậy.
“Cháu về trước đây ạ.”
Tôi đứng trước cửa hiệu thuốc, chào to rồi leo lên xe đạp. Ra khỏi ngã tư, tôi nhỏm cả mông lên mà nhấn bàn đạp. Tôi phóng hết tốc lực trên con đường bờ biển dẫn lên phía trên vách đá. Đêm không trăng nhưng đường không tối. Trời đêm chi chít những sao. Biển bị vây bọc trong ánh sao tựa như cảnh sắc trong mơ, trông thật dịu dàng. Sóng vỗ vào vách đá, những chú hải âu ánh bạc chao liệng lặng lẽ trong đêm, sương biển bắt đầu dâng lên từ khe những tảng đá ven bờ, những đảo đá in bóng tối đen. Giá mà có thể thêm vào khung cảnh này một hình ảnh đầy chất văn thơ là “làn gió biển ngọt ngào” nữa thôi… Nhưng gió hệt như lưỡi rìu cứa trên da mặt. Cảm giác về đến nhà thì tôi chỉ còn trơ xương.
Sau hàng rào, chiếc xe Bongo màu mận chín của chú với chiếc Chevrolet đen đậu thành một hàng. Tôi dựng xe đạp vào giữa hai cái xe hơi. Có tiếng chú vọng ra ngoài hàng rào. Là cái giọng lúc từ chối ai đó, nghe cứ như đang đọc chính tả trong sách giáo khoa.
“Đảo đá là chỗ dòng chảy mạnh và thất thường, còn xuất hiện dòng chảy ngầm, địa hình đáy biển thì phức tạp y như mê cung, mà bây giờ là mùa triều cường, lại đang đêm, còn mấy cậu thì vừa uống rượu…”
“Này, ông chú.”
Ai đó cắt lời.
“Chú là ai, ba lỗ dép lê mà cũng đòi lên mặt dạy đời hả?”
Chú kết thúc bài đọc chính tả của mình.
“Chỗ của người say không phải ở dưới biển, mà là nằm trong chăn.”
Tôi đẩy cổng bước vào. Ngay giữa sân, có hai đội đang đối đầu nhau. Một bên là đội Chevrolet, vũ trang bằng mấy thiết bị lặn, một bên là đội của chú – đang trong trang phục dép lê, áo ba lỗ – cùng Hội trưởng Hội thanh niên. Tương quan lực lượng là bốn chọi hai. Mắt chú vốn đã sụp, giờ lại còn nửa nhắm nửa mở. Trông có vẻ như đang ngủ thì bị gọi dậy. Hội trưởng Hội thanh niên cũng đang ngủ thì bị đánh thức, giờ đang đứng lòm khòm sau lưng chú.
“Theo như tôi thấy, người phải quay vào trong chăn bây giờ có lẽ là vị mặc ba lỗ đang run lẩy bẩy kia kìa.”
Tuyển thủ đại diện cho đội đối thủ giờ đang đứng đối đầu với chú, hóa ra là gã Rayban.
“Cậu đã lặn drift[2] vào ban đêm bao giờ chưa hả?” Chú hỏi.
2. Kiểu lặn thả mình theo dòng chảy ngầm ở khu có nhiều vách đá dưới biển.
Gã Rayban phá lên cười. Không biết nếu hỏi Ronaldo rằng “Cậu biết đánh đầu không?” thì liệu cậu ta có cười thế này không nhỉ. Ba người còn lại đứng bên cạnh nãy giờ cũng theo đuôi cười ầm lên. Chú khoanh tay trước ngực, ngó một cái xuống đất.
“Trưởng nhóm mà liều lĩnh thế thì sẽ xảy ra sự cố thôi.”
“Và cứ nhúng mũi vào việc người khác thế thì sẽ chảy máu mũi đấy.”
Gã Rayban đưa ngón trỏ lên phẩy mũi một cái. Cả đám lại cười rộ lên. Một người ngồi phệt hẳn xuống sân. Có vẻ như không phải say rượu, mà là vừa chơi ma túy. Chú đứng cắn cắn môi, chằm chằm nhìn gã Rayban, vẻ mặt như thể đang bấm máy tính trong đầu – mình mà nện cho thằng này một cái thì bị đập lại mấy cái đây? Theo máy tính của tôi, kết quả tính toán bốn chọi hai cho ra đáp án là “Tỷ số chết”.
“Này cậu sinh viên, giờ cậu lại còn nói năng bừa bãi kiểu gì thế hả?”
Ngày xưa vốn mê văn học, thường ngày vẫn tôn chú lên làm “nhà văn”, Hội trưởng Hội thanh niên lúc này liền đứng ra chi viện cho chú.
“Không phải tự dưng mà nhà văn của chúng tôi cứ đứng ra thế này đâu. Phải ngăn chặn trước khi có chuyện xảy ra. Cậu ấy là chuyên gia lặn số một ở khu chúng tôi đấy. Cậu ấy đã nói không được thì thực sự là không được đâu. Để trời sáng rồi mười lần hay hai chục lần, tôi cũng sẽ đưa các cậu đi. Còn hôm nay thì dừng ở đây thôi…”
Gã Rayban nhổ bọt đánh toẹt xuống sân. Dính sau đó là một câu “A, mẹ kiếp!” bắn phọt ra.
“Nói mà các cụ không thông tí nào nhỉ. Theo hợp đồng thì chúng tôi là bên A đấy.”
Gã Rayban chỉ vào bộ mặt sưng sỉa của Hội trưởng Hội thanh niên.
“Ông là bên B. Chúng tôi chồng tiền, còn ông đưa chúng tôi ra biển. OK?”
Tôi đá cái cổng đóng lại, rồi chạy tới. Muốn bảo chú rút lui về phòng thì cần phải phá vỡ tình thế căng thẳng này. Tuy rằng chẳng thể nào mà cứu được cả Hội trưởng Hội thanh niên.
“Ôi mẹ ơi, thằng bé nhà mình về lúc nào thế kia?”
Đầu tiên là Hội trưởng ngoái nhìn. Tiếp theo là chú ngoái nhìn. Đội Chevrolet cũng bốn cặp mắt hướng theo.
“Xem này. Vị nào đây hả? Chẳng phải anh chàng nhân viên hiệu thuốc đây sao?” Gã Rayban lên tiếng, lập tức chuyển sự quan tâm sang tôi.
Tôi nói với chú. “Chú gặp cháu một lát.”
Gã Rayban đứng chắn trước mặt chú.
“Anh chàng hiệu thuốc tìm đường về nhà bằng cách nào thế? Nghe nói không biết làng Hải Đăng cơ mà.”
Dù vậy thì tôi vẫn biết đường về phòng tôi chứ. Ngay phòng đầu tiên trong dãy nhà kiểu cổ xây thành hình chữ L. Cửa sổ quay ra mặt đường, từ đó nhìn thấy một mạch cả ngọn hải đăng và biển. Tôi quay người đi về hướng đó.
“Ông chủ của cậu không hay biết gì à? Chuyện nhân viên của mình là thằng khờ đến mức không biết nhà mình ở đâu ấy? Nhưng mà này, ông tác giả kiêm chuyên gia lặn là ông chú ba lỗ đây, có quan hệ thế nào với cậu vậy? Không phải cha con, mà có vẻ cũng không phải chú cháu. Hay là kiểu quan hệ nóng bỏng lâu lâu gặp một lần rồi dính chặt lấy nhau?”
Gã Rayban cười đểu, còn bọn kia cả đám cũng cười hinh hích. Tôi giả như không nghe thấy, quay bước đi. Dù đã phá vỡ được tình huống căng thẳng, nhưng tôi không có ý định đấm vỡ mồm hắn.
“Hội trưởng quyết định đi. Tôi không còn gì để nói cả.”
Chú kết luận. Rồi chúng tôi cùng quay bước về phòng. Đóng cửa rồi mà tiếng châm chọc vẫn vọng qua khe cửa. Có tiếng kêu la của Hội trưởng, rồi tiếp theo là tiếng khởi động xe. Hình như bọn họ vẫn đi ra biển. Nhưng ít nhất thì không phải ngay bây giờ.
Bất chợt một âm thanh kỳ dị rống lên, không biết là tiếng cười của đội Rayban, hay tiếng hú của Tarzan nữa. Ầm ầm ú ú… Ăn nhịp với âm thanh đó là ánh đèn pha ô tô chớp liên hồi. Từ dàn audio trong xe, dội ra bản nhạc Giáng sinh của Young Gu[3].
3. Tức ca khúc “Jingle bells”, do nghệ sĩ hài Young Gu của Hàn Quốc phổ lời lại một cách hài hước.
Mừng ngài Chúa xinh ra đời, mình cùng nắm tay tươi cười, hòa bình đến hay không nào, có đến hay là không đây…
Tôi kéo rèm lại. Đúng là tôi vừa tự đá phản lưới nhà mà. Điệu bộ này chỉ tổ gieo cho đối phương cảm giác chiến thắng rằng đội mình đã dẫn trước một điểm. Giờ thì bọn họ chuyển sang hành vi khiêu khích bằng cách ầm ầm mở nhạc bật đèn náo loạn ngay trước cửa sổ phòng tôi đấy thôi. Khung cửa kính rung lên bần bật, đội Chevrolet giờ đang đồng ca bản carol ngọng líu. Chẳng có Young Gu nào ở đây cả.
Chú ngồi trước bàn sách. Tôi cởi tất ra. Lúc này là sau khi nhóm Chevrolet buông tha cho cái cửa sổ khoảng 5 phút.
“Mấy gã đó là thế nào vậy ạ?”
Tôi hỏi. Giọng tôi khàn khàn như người mới ngủ dậy. Chú đáp lại, giọng cũng gần như vậy.
“Còn thế nào nữa, mấy thằng điên chứ sao.”
“Mấy gã như vậy, sao Hội trưởng còn cho vào ở làm gì?”
“Lúc này sao kén cá chọn canh được. Gần tháng trời nay mới có khách.”
“Nhưng sao lại lôi chú dính vào thế?”
“Thì bọn nó uống rượu xong cứ khăng khăng đòi đưa ra biển, nên Hội trưởng gọi ra ngăn lại xem
thế nào thôi.”
Chú nghĩ ngợi gì đó một lát, rồi hỏi mà như tự nói với mình.
“Mà mấy đứa đó có trói lại treo lên mà ngăn cản, chắc cũng không chịu nghe lời đâu nhỉ.”
Bọ ngựa giơ càng chặn đường mà xe ủi nó chịu dừng lại hay sao? Tôi lấy trong túi ra gói thuốc bổ tăng lực, đưa cho chú. Đột nhiên chú nổi cáu.
“Sao cứ ăn trộm cái thứ này về thế hả, thằng ranh. Có tác dụng phụ gì thì đi mà chịu trách nhiệm
đấy!”
“Tác dụng phụ là tóc mọc như bờm sư tử còn gì. Còn nếu cứ nhất quyết thành một ông đầu trọc hòa nhã trầm tư, thì lúc đó cháu sẽ uống.”
Chú giật lấy gói thuốc. Còn tôi bỏ đi ra rửa chân.
Nghe nói, trước khi trời có sấm, não loài mèo có thể cảm nhận được từ trường. Ở hệ viền trong não người, cũng có một cơ quan cảm thụ như vậy – một chiếc đồng hồ mang tên “bất an”, được kích hoạt mỗi khi cảm nhận được điềm báo về thảm kịch. Đi nằm rồi mà tôi không sao ngủ được. Vừa nghe tiếng kim giây tích tắc, vừa đi giật lùi về quá khứ. Trở lại cái ngày hôm đó bảy năm về trước, sau khi chia tay với chú ở sở cảnh sát.
Mẹ tôi ngay cả đến đám tang cũng không tổ chức được, nên đành phải hỏa táng. Tôi thì được giao cho chú ruột. Tôi không thể đi học được nữa. Ngay ngày đầu tiên chuyển đến trường mới, tôi đã hiểu ra như vậy. Bọn bạn trong lớp còn biết rõ tôi là ai hơn cả bản thân tôi. Tôi là con trai của một kẻ sát nhân loạn trí, kẻ đã vặn cổ sát hại một đứa bé gái 12 tuổi, kẻ đã dùng dùi cui đánh chết bố của đứa bé gái, kẻ mà ngay cả vợ mình cũng giết rồi quăng xác xuống sông, kẻ đã mở cửa đập nước, nhấn chìm bốn cảnh sát và một nửa số dân của cả một làng. Tôi là đứa trẻ vẫn còn sống sót nguyên vẹn sau cái đêm điên dại đó.
Mấy đứa em họ khóc lóc, kể là chúng cũng bị bọn bạn ở lớp đối xử giống như tôi. Chú ruột tôi đang làm bác sĩ vật lý trị liệu ở bệnh viện tư, giờ phải nghỉ việc. Thím tôi thì nhận được yêu cầu của chủ nhà là phải chuyển đi. Cả gia đình như thể chạy trốn, chuyển đến một căn hộ ở Sanbon. Căn phòng phía sau có ban công trở thành chỗ của tôi. Thím tôi sợ người ta biết thím đón tôi đến sống cùng hay sao mà luôn rón ra rón rén. Mấy đứa em họ tôi thì ngay cả dùng chung nhà vệ sinh với tôi chúng nó cũng không muốn. Tình cờ mà chạm mặt nhau trong nhà, thì chúng nó cứ hét ầm lên trước đã. Mỗi lần như thế là tôi cứng đờ người. Dù tôi có mang vẻ ngoài đầy sức hút như Casanova, hay dễ gây thiện cảm với người khác giới đi nữa, nhưng gặp phải hai con bé cứ thấy tôi là hét lên như còi tàu, tôi còn có thể làm gì đây. Ngoài việc tự nhốt mình trong phòng.
Tôi chỉ ra khỏi phòng lúc nhà không có ai, hoặc vào ban đêm, khi tất cả đang ngủ. Có cơm thì ăn, không thì nhịn đói. Cả ngày nhịn, đến lúc đó mới đi vệ sinh rồi tắm rửa. Tắm rửa cũng là một kiểu nghi thức. Đấy là một kiểu thủ tục xác nhận rằng tôi không phải loại quái vật chuyên gieo rắc nỗi sợ hãi hay sự căm ghét. Tôi cũng có hai chân, hai tay, một đôi mắt đang xác nhận lại hình hài của mình, và một linh hồn yên ổn.
Quay về phòng, tôi ngồi co ro bên cửa sổ cho qua ngày. Hoặc là ngủ, hoặc nhìn ra ngoài cửa sổ, vừa nhìn vừa suy nghĩ vẩn vơ. Tôi nhớ chú. Tôi thắc mắc không biết chú có tìm cách liên lạc với tôi không. Mà dù cho chú có liên lạc cũng không cách nào mà nhận được tin, thật là bức bối. Điện thoại của chú bị chú ruột tôi ném vào tường, vỡ mất rồi. Chú ruột tôi bảo nếu không muốn bị đuổi ra khỏi nhà, thì đừng có liên lạc với những người quen của bố.
Được ba tháng, chú ruột tôi gửi tôi qua nhà bác gái chị của bố. Ở nhà bác gái ba tháng, rồi qua nhà cô thứ hai… đi đến đâu thì chỗ của tôi cũng giống nhau. Chỉ có điểm khác là tuy bữa đực bữa cái nhưng tôi vẫn được đến trường. Thời gian trôi qua, sự kiện hồ Se Ryung dần phai khỏi mối quan tâm của người đời. Những người nhận ra tôi dần dà cũng giảm. Ngày chia tay ngôi trường đang học, thường là ngày mà tôi ở đó đủ ba tháng, hoặc là ngày mà mọi người nhận ra tôi là ai. Cũng may còn có mỗi dì Young Joo em của mẹ là còn có ý thương tôi. Nhà dì, tôi ở lâu hơn những nhà khác trên một tháng. Ngày được bốn tháng, dì gửi tôi qua bên cậu, dì bảo tôi, “Seo Won ạ, dì… xin lỗi.” Lúc đó, mắt dì rưng rưng, hình ảnh đó thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ đến. Nếu như không có dượng, liệu dì Young Joo có đón tôi về ở luôn với dì không nhỉ?
Dượng ghét tôi đến phát rùng mình. Dượng mà say rượu ở đâu rồi về nhà, thể nào cũng bất thình lình lôi tôi ra, đánh đấm túi bụi như người phát dại. Nhiều lần dì tôi vào can, dượng cũng đẩy dì dúi dụi, rồi gào lên “Dẫn thằng kia cút đi ngay”. Đến tận bây giờ, tôi vẫn không sao quên được những lời dượng rỉ rả trong phòng khách vào cái đêm hôm trước khi tôi rời nhà dì.
“Cô ấy, cô đã bao giờ nhìn thẳng vào mắt thằng bé đó chưa? Đã bao giờ cô thấy nó khóc chưa? Có ăn chửi, ăn đánh, ánh mắt nó vẫn y như vậy. Chẳng biểu lộ gì, cứ nhìn xoáy vào người khác, cái đó làm người ta phát điên lên được. Đấy không phải ánh mắt trẻ con, mà là ánh mắt của kẻ có thể gây ra bất cứ chuyện gì. Tôi sợ lắm, không để nó ở chung thêm được nữa. Ngày mai, cô đem nó qua nhà cậu đi.”
Ngày đầu tiên của tháng Một, ngày có bão tuyết, đúng vào buổi sáng hôm tôi ở nhà cậu được tròn ba tháng. Tôi xách túi đi ra, cậu rút hai tờ 1000 won đưa cho tôi.
“Nhà chú bên Sanbon, tự tìm được đúng không?”
Địa chỉ thì thuộc lòng rồi, kiểu gì chẳng tìm được. Tôi gật đầu thay cho câu trả lời. Cậu tôi nói xin lỗi vì không để tôi ở cùng thêm được. Nhà cậu đã định hôm đó chuyển đi. Địa chỉ nhà mới chuyển đến, cậu không cho tôi biết. Tôi đeo cặp sách lên, tay xách túi quần áo, chụp cái mũ lên đầu, rồi đi ra khỏi khu chung cư nhà cậu. Gió rét thổi cắt da cắt thịt. Tuyết rơi suốt đêm qua nên giờ đường trơn trượt. Tay tôi lạnh buốt, còn mũi thì đau như vừa bị đấm một cú. Dẫu vậy, tôi vẫn không ngoái lại nhìn. Tôi không muốn cầu xin người ta cho mình sống cố định ở một nhà. Mà cũng chẳng có nhà nào muốn tôi ở luôn đấy cả. Tôi lại nghĩ đến chú.
Mặc dù là chuyện sau này lớn lên tôi mới biết, nhưng lúc đó tài sản để lại cho tôi, mấy người họ hàng đó lấy lý do là chi phí nuôi tôi ăn học, chia đều với nhau hết rồi. Tài khoản tiết kiệm của mẹ, rồi tiền bảo hiểm nhân thọ, cho đến cả căn hộ mới ở Ilsan mà gia đình tôi chưa kịp ở một giờ phút nào. Dường như bao nhiêu đó chỉ đủ mua sự nhẫn nại của họ trong ba tháng là cùng. Vậy nên chuyện như thế mới xảy ra.
Mất tới năm tiếng đồng hồ tôi mới đến được Sanbon. Tại tôi bị lạc rồi cứ lang thang trên đường. Tôi bấm chuông cửa, một giọng phụ nữ vang lên.
“Ai đấy ạ?”
Tôi nói tên chú. Người đó đáp lại là không có ai tên như vậy ở đây cả. Sợ mình nhầm, tôi bèn xem lại số nhà. Tôi ra cả bên ngoài xem lại số lô nhà. Không phải tôi tìm nhầm nhà. Mà là nhà đã đổi chủ. Tôi cuống lên, chạy vội ra bốt điện thoại công cộng ở lối vào khu chung cư. Số điện thoại của chú tôi giờ thành ra thuê bao không tồn tại. Cậu tôi cũng y như vậy. Cả số di động, cả số máy bàn ở nhà, tất cả đều đã ngưng sử dụng. Trong khoảnh khắc, tôi chợt hiểu ra một sự thật đáng sợ. Chú ruột tôi, trước khi quay vòng tới lượt nuôi tôi lần thứ hai, đã âm thầm chuyển nhà đi mất. Cậu tôi biết vậy nhưng vẫn bảo tôi đến Sanbon. Và tôi có thể đoán được là giờ thì cậu cũng đã chuyển nhà đi xong rồi. Tôi thử lần lượt gọi điện cho dì Young Joo, bác gái và cô. Ai cũng không liên lạc được.
Thật mịt mờ không biết phải làm thế nào. Sao mà sợ hãi. Bão tuyết lùa cả vào bên trong bốt điện thoại, mà tôi thì đang mặc áo khoác mùa thu. Quần jeans thì ngắn hở cả cổ chân. Giày thể thao thì nhỏ quá, phải gập phía sau xuống mà đi. Cả ngày nhịn đói, giờ bụng cũng rỗng không. Trong người chỉ còn một đồng xu 100 won. Số điện thoại mà tôi chưa thử liên lạc cũng chỉ còn lại một. Là số của cái điện thoại mà chú ruột tôi đã ném vỡ. Mà có gọi vào đó thì cũng chẳng ý nghĩa gì. Vì không còn máy thì làm gì có người nghe. Dẫu vậy, tôi vẫn nhấc điện thoại lên bởi một cảm giác hy vọng mong manh thoáng qua. Biết đâu chú ấy mua điện thoại mới, biết đâu chú lại dùng số đó giống như ngày xưa….
Có tín hiệu kết nối. Rồi một lúc sau, dù chậm chạp, nhưng rõ ràng nghe thấy tiếng nói “A lô”. Là chú. Chỉ nghe một lần là tôi nhận ra ngay. Làm sao mà không nhận ra được cơ chứ. Chưa có giờ khắc nào tôi quên cả. Cổ họng tôi nghẹn lại, không nói nên lời. Cảm giác như có nấm mồ chẹn ngang cổ. Chú không gác máy, mà kiên nhẫn hỏi lại.
“A lô, ai đấy?”
“Là cháu ạ.”
Tôi gắng cất giọng. Lần này, đầu dây bên kia im lặng. Tôi lấy hết can đảm, nói thêm.
“Bạn cùng phòng với chú đây ạ.”
Cảm giác chờ đợi dài như vô tận. Khoảng một giờ sau, chiếc xe Bongo màu mận chín xuyên qua cơn bão tuyết, đỗ trước mặt tôi.
Chú sống ở Ansan. Tôi cảm giác như đang trở lại những ngày xưa ấy. Thời chúng tôi sống như người một nhà trong căn hộ một phòng của chú, cái thời mà chú với tôi cùng ở chung một căn phòng, cảnh tượng về thời đó giờ đang hiện về nguyên vẹn. Laptop để trên chiếc bàn nhỏ, bên cạnh là sổ tay, chùm chìa khóa và cái ví, bao thuốc lá bạc hà màu xanh lá cây với lon bia, và những mẩu giấy ghi nhớ dán khắp nơi. Chú cũng vẫn vậy. Vẫn mái tóc cắt ngắn đã điểm bạc, vẫn khóe miệng tủm tỉm như cười như không, cho đến cả thói quen cứ vào đến phòng là cởi tất quẳng đi cũng vậy. Chỉ có nghề nghiệp là thay đổi, giờ chú là tác giả viết lót cho một tiểu thuyết gia.
Chú không hỏi tôi đã sống thế nào. Bộ dạng này đã tố giác hết tình cảnh của tôi rồi. Chú cũng không hỏi cái điện thoại giờ ra sao. Chú chỉ bảo cứ nghĩ biết đâu tôi sẽ gọi điện cho chú một lần, nên chú cứ đợi tôi gọi. Tôi vội đứng dậy vào nhà vệ sinh. Tôi không muốn để lộ cảm xúc của mình. Chú không hiểu lòng tôi thì tốt hơn. Tôi không muốn chú biết tôi vui thế nào khi thấy chú vẫn còn sống một mình, tôi nhẹ cả người như thế nào khi biết chú vẫn chưa kết hôn, và tôi không muốn chú biết rằng, vì sợ chú cho tôi ở vài ngày rồi lại dò la tin tức mấy nhà họ hàng thân thích, gửi trả tôi ngược trở lại, tôi đã bất an đến nhường nào.
Khoảng cuối mùa đông, chú làm xong thủ tục pháp lý, thành người giám hộ của tôi. Tôi trở thành con nuôi của anh ba chú. Tôi chịu không biết sao lại làm được thế. Tôi còn chưa thấy mặt cha nuôi bao giờ. Tôi chưa bao giờ hỏi, mà cũng chưa từng muốn biết. Điều duy nhất quan trọng với tôi, đó là chắc chắn tôi sẽ không bị chú bỏ rơi.
Tôi đã lên cấp hai. Với tâm trạng khẩn thiết như vậy, tôi dính chặt vào việc học. Đấy là việc duy nhất tôi có thể làm được, và cũng là lời thề bất thành văn “Cháu sẽ sống thật tốt”. Đó cũng là một khuôn mặt khác của nỗi sợ không biết có bị bỏ rơi hay không. Chú tự nguyện làm gia sư cho tôi.
Thi giữa học kỳ hai, tôi đạt được 80% mục tiêu đề ra, đứng thứ nhất ở lớp, và thứ năm toàn trường. Hôm đó, chú dẫn tôi ra hàng thịt nướng gần nhà. Ly bia và ly coca chạm nhau, chúng tôi tự chúc mừng cho thành quả này. Lúc đó, trên tivi treo tường vang lên tên của bố. Tin đưa rằng đã quyết định án tử hình. Ly coca tuột khỏi tay tôi.
Phải đến giây phút đó, tôi mới biết. Rằng đâu đó ẩn sâu trong lòng, tôi vẫn ôm hy vọng. Hy vọng biết đâu bố không phải thủ phạm thật sự, hy vọng biết đâu có gì đó nhầm lẫn, hy vọng nếu hung thủ thật sự xuất hiện thì tôi có thể gặp lại bố. Tôi vẫn còn nhớ, để giữ được hy vọng đó, tôi đã phải tìm cách cầm cự như thế nào. Không xem thời sự trên tivi, không đọc báo, không lên mạng. Cũng không hỏi ai về chuyện của bố. Thậm chí ngay cả bức tranh tổng thể về sự kiện đó, tôi còn không biết. Tất nhiên những tin đồn thổi thì vẫn đến tai tôi. Rằng ai bị giết, giết như thế nào, có bao nhiêu người thiệt mạng, bản án sẽ như thế nào. Những gì tôi biết chỉ đến đúng mức đó mà thôi.
Tin về phán quyết xác định án tử hình đã cướp mất hy vọng đầy ảo tưởng đó. Chiều ngày hôm sau, gói bưu phẩm bay đến trước mặt đã phá nát chút tự tôn cuối cùng. Một chiếc phong bì màu nâu, địa chỉ người gửi là một hòm thư bưu điện, bên trong phong bì có đựng tờ tuần san Sunday Magazine. Đó là số báo ra sáng hôm đó, có một bức ảnh chiếm toàn bộ trang nhất. Bức ảnh một thằng bé đang mím chặt môi, ngoái nhìn camera. Ảnh không bị bôi nhòe nên chẳng khó khăn gì để nhận ra đó là ai. Là tôi. Là tôi năm 12 tuổi đang hứng ánh đèn flash máy ảnh ở Sở cảnh sát thành phố S. Trang tiếp theo đăng bài phóng sự đặc biệt trải dài tới mười trang, với tiêu đề là “Thảm kịch hồ Se Ryung”. Bài báo có đăng toàn văn bản tuyên án, theo sau là ghi chép tái hiện lại sự kiện hồ Se Ryung. Cả thời niên thiếu của bố, cả hai mươi năm thời bố làm tuyển thủ bóng chày, sau đó giải nghệ đi làm… tất cả đều được phơi ra hết cả, có gọi là đăng tiểu sử cũng được. Phóng sự còn đăng kèm những bài đi sâu phân tích của các bác sĩ chuyên khoa thần kinh, nên không biết có gọi là báo cáo tâm lý học được không. Trong bài báo, cứ cách đoạn lại đưa vào một bức hình chụp ở hiện trường. Tô điểm cho đoạn kết bài báo là bức hình bố sau khi nhận phán quyết cuối cùng. Bố không đội mũ hay đeo khẩu trang che mặt. Bố cũng không cúi đầu. Ánh mắt không biểu cảm gì khi ngoái nhìn camera, giống hệt như ánh mắt tôi trong bức ảnh ở trang nhất.
Ai là người gửi cái này nhỉ? Tôi ngẩng đầu lên, nhìn chú đang ngồi bên cạnh.
“Cái này không phải là thật, đúng không ạ?”
Tôi tuyệt vọng nhìn đôi mắt chú đang tối sầm lại.
“Tất cả đều không phải sự thật, đúng không chú?”
Mất một lúc, tôi mới nghe thấy chú đáp lại.
“Sự thật không phải là tất cả.”
“Vậy sự thật cũng có thể là nói dối phải không ạ?”
Có những lúc, sự im lặng là câu trả lời chính xác nhất. Sự im lặng bao trùm chúng tôi khi đó cũng vậy. Tôi nghe thấy trong ngực mình vang lên tiếng nói của sự thật. Chẳng có gì nhầm lẫn cả. Tất cả đều là sự thật. Tôi cảm giác nước mắt bắt đầu dâng lên. Mắt chú cũng đỏ lên thấy rõ.
Tờ Sunday Magazine hệt như một đàn dế gù nhảy bổ vào cuộc sống của tôi. Sáng thứ Hai, vừa mở cửa lớp là có thể tận mắt xác nhận ngay điều này. Trên bàn tôi, và trên bàn từng học sinh trong lớp đều chễm chệ một tờ Sunday. Lớp học đang náo loạn chợt lặng phắc. Lúc tôi đi về chỗ ngồi, thậm chí còn không nghe thấy cả một tiếng thở. Tôi để cặp xuống ghế, cầm tờ Sunday ra bỏ vào thùng rác cuối lớp. Về chỗ, tôi mở cặp, lấy sách tham khảo ra rồi ngồi xuống ghế. Hàng chục đôi mắt dán chặt vào sau gáy tôi. Sau lưng, có đứa nào đó bắt đầu đọc bài báo.
“Cứ cho tử hình tôi đi.”
Chữ in trong sách như vỡ ra nhòe nhoẹt.
“Tên sát nhân Choi Hyun Soo rốt cuộc đã từ chối nhờ đến luật sư. Ngay khi nhận phán quyết tuyên án tử hình, y vẫn tỏ ra bình thản.”
Tôi ngoái nhìn lại đằng sau. Là Joon Suk. Cái thằng suốt ngày sai tôi đi mua bánh về cho nó. Cái thằng hay gọi tôi là “bánh đa bánh đúc”. Ánh mắt hai bên vừa chạm nhau, nó liền cầm tờ báo đứng dậy tại chỗ.
“Vào tháng 11 năm 2004 vừa qua, khi thực hiện kiểm chứng tại hiện trường, cảnh siết cổ bé gái hay cảnh giết vợ rồi quăng xác xuống sông, Choi Hyun Soo cũng đều thản nhiên tái hiện lại, gây nên làn sóng công phẫn trong dư luận…”
Tôi gập sách lại. Rồi cầm chặt cặp sách trong tay, tôi bước ra phía cửa lớp. Trong ngực tôi như có đàn bướm đang bay lượn. Những con bướm đêm mang tên adrenaline đang phun trào, những đôi cánh đen vỗ phần phật. Bước chân tôi như trôi dập dềnh trong không khí. Khuôn mặt bọn bạn lướt qua rồi trôi về phía sau. Joon Suk vẫn tiếp tục đọc. Xem ra nó đã thủ thế sẵn sàng đọc đến khi tôi biến khỏi lớp mới thôi. Dĩ nhiên là tôi cũng định sẽ biến khỏi lớp. Nhưng là sau khi đã cho thằng này ngậm mồm lại.
“Trong lúc đó, con trai của Choi Hyun Soo, 12 tuổi, đang trốn trong chuồng gia súc bỏ hoang ở nông trại Se Ryung.”
Đã đến lúc tôi với Joon Suk phải thành người ngang hàng với nhau. Tôi vừa dừng bước, thằng đó liền ném cho tôi một cái liếc ngang. Một cái nhìn trộn lẫn vẻ nhạo báng, khinh miệt và căm ghét. Tôi tránh ánh mắt đó, nhìn xuống đầu ngón chân. Lý lịch đánh đấm của thằng này cũng khá lừng lẫy. Nó vừa cao vừa to hơn tôi. Cứ thế xông bừa vào nện nó, thì chẳng khác nào chuốc họa vào thân. Tôi thì chẳng hề có một mống quân chi viện nào. Vũ khí duy nhất dùng được là phản xạ bất ngờ. Ánh mắt đầy vẻ chờ đợi của bọn trong lớp, và sự tự tin của thằng kia trước cái thứ “bánh đa bánh đúc” là tôi những điều đó đã cho tôi cơ hội. Tôi bước thêm một bước, đi qua nó. Nó lại đưa mắt nhìn bài báo.
“Cậu Choi đang cố sức đi tránh nạn…”
Tôi xoay người lại, quăng nguyên cái cặp trên tay vào mặt nó. Cái cặp nặng trịch chất đầy sách vở quất thẳng vào chính giữa mặt. Nó rú lên, ngã đập gáy vào bàn phía sau, rồi cả người cả ghế lăn quay ra sàn. Cơ hội có một không hai này, tôi không thể bỏ lỡ được. Ngay lập tức, tôi phi thân tới, rồi cứ nhằm ngực nó mà giáng gót chân xuống. Tôi chỉ ghi điểm được đến đó. Rồi có ai đó ở phía sau nện một cái ghế vào đầu tôi. Hình ảnh Joon Suk co quắp, lăn lộn đột nhiên trở nên xa xôi, mờ mịt. Giây lát sau mắt tôi tối sầm lại. Khi tỉnh lại, tôi thấy mình đang bị bọn bạn đè nằm bẹp dí trên sàn.
Joon Suk được chở đến bệnh viện. Tôi thì bị lôi lên đồn cảnh sát. Chuyện này thực ra cũng có thể coi đơn thuần là chuyện trẻ con đánh nhau rồi xử lý bằng cảnh cáo là xong, nhưng tình hình lúc đó làm phát sinh đủ thứ chuyện. Cái tên Choi Hyun Soo đang dần trôi vào quên lãng, giờ lại nổi lên vì cái tin tuyên bố tử hình, tôi thì là con trai của người đó, và con trai của người đó đã đánh con trai một người dân lương thiện đến mức gẫy cả xương mũi lẫn xương sườn. Đôi vợ chồng người dân lương thiện đó từ chối hòa giải. Cảnh sát cũng chẳng ngăn cánh nhà báo kéo đến đồn. Chú cũng không ngăn được việc tôi bị chuyển tới trại giáo dưỡng.
Bốn tuần sau, ở tòa, tôi bị xử hai năm quản chế. Xét đến dư luận lúc đó, xử như thế là còn nhẹ. Nhờ chú van xin, cố gắng tìm cách hòa giải với bên nạn nhân nên mới ngăn việc tôi bị đưa đi phục hồi nhân phẩm. Vì chuyện đó mà căn hộ một phòng thuê theo năm của chú cũng đi đời. Chúng tôi chuyển đến nhà mới, là một căn buồng đơn nửa hầm nửa trệt. Ngày tôi ra trại, chú đưa tôi miếng đậu phụ rồi bảo.
“Không sao. Giờ mọi việc kết thúc rồi.”
Chưa kết thúc đâu. Mới chỉ là bắt đầu thôi. Tôi vừa ra khỏi trại thì tờ Sunday Magazine được gửi tới chủ nhà. Lần này có thêm cả những bài báo từ bốn tuần trước, mà trong đó tôi đóng vai nhân vật chính. Chủ nhà yêu cầu trả nhà. Trường học không nhận tôi. Giữa việc tôi bị chuyển trường và tự nghỉ, chú phải chọn một.
Tôi không tốt nghiệp được cấp Hai. Sau mười hai lần chuyển trường, tôi nghỉ học rồi tự thi đầu vào cấp Ba. Lên cấp Ba, bốn học kỳ, tôi chuyển trường chín lần. Lần nào thân phận tôi cũng bị người ta biết đến theo cùng một cách. Những tờ Sunday cùng các bài báo liên quan đến tôi đồng loạt được phân phát đến nhà trường, bố mẹ học sinh và bọn bạn trong lớp, cũng như chủ nhà và hàng xóm khu tôi sống.
Chúng tôi thành dân vô gia cư, nơi cư trú là cả cái thành phố cảng này. Chú dạy tôi lặn một cách bài bản. Biển đã mang lại cho tôi sự tự do. Chỉ cần nằm cuộn tròn yên lặng trong bóng tối dưới đáy biển, thế giới xung quanh như hoàn toàn biến mất. Nơi đó không tay ai chạm tới được, không ánh mắt ai nhìn thấy được, cũng không phải nghe thấy tiếng của ai, là bức tường tuyệt đối ngăn cách tôi
với thế gian.
Trường cuối cùng tôi học là một trường cấp Ba ở Sokcho. Lúc đi học, tôi thấy trên bàn mình có tờ Sunday. Bọn bạn không nói gì, nhìn tôi chằm chằm.
Trên đời này, có những việc tuyệt nhiên không thể nào quen được. Như việc bị cô lập hay cố gắng bỏ qua chuyện thị phi, như việc bị vây đánh bầm dập cũng không chống cự. Ngay cả việc cứ bước đi trong im lặng cũng được xếp vào phạm trù này. Lúc đi ra khỏi lớp, trên người tôi như phủ một ngọn lửa xanh lét. Ngọn lửa lạnh lẽo nhưng âm ỉ cháy. Từ lúc tôi băng ngang sân thể dục rồi đi qua cổng trường, đến tận lúc tôi đến được cửa hàng tiện lợi nơi tôi làm thêm, ngọn lửa đó vẫn không ngừng thiêu đốt.
Ở cửa hàng có một mình ông chủ. Khách mua thưa thớt, trên quầy có để chồng báo Sunday. Tôi bảo ông chủ trả cho tôi tiền làm công một tháng qua. Ông chủ vừa lấy máy tính tiền quét mã cơm hộp khách đem tới, vừa bảo tôi đợi một chút. Tôi đợi. Ba mươi phút, một tiếng… Ngày hôm đó, khách hàng túm tụm kéo đến một cách lạ thường. Ông chủ kêu tôi đứng đó làm vướng lối khách đi lại. Tôi bèn chuyển từ trước quầy tính tiền ra đứng cạnh cửa sau, rồi từ cạnh cửa sau ra đứng trước kho hàng, rồi lại đổi chỗ ra đứng gần cửa, và cứ thế đợi. Tôi không cảm thấy bị sỉ nhục, mặt tôi cũng chẳng đỏ lên.
Từ khi tôi còn là đứa trẻ 12 tuổi đứng hứng ánh đèn camera, cho đến bây giờ, chưa bao giờ tôi mất bình tĩnh cả. Từ sau khi đi trại giáo dưỡng về, tôi còn không phẫn nộ nữa. Kể cả có ai tỏ ra tình cảm với mình, tôi cũng không trông đợi gì chuyện giữ mối quan hệ với họ. Có như thế, trong bất cứ hoàn cảnh nào, tôi cũng không hoang mang. Tôi biết. Nếu có chuyện gì bất ngờ thì hoảng lên là lẽ thường tình. Nếu bị sỉ nhục thì cảm thấy phẫn nộ, đó mới là phản ứng lành mạnh. Nhận được tình cảm của người khác thì đáp lại, đó là lẽ làm người. Những đứa trẻ độ tuổi tôi đa phần đều sống như vậy. Chú cũng nói tôi phải sống như vậy. Tôi bèn bảo chú bỏ cái từ “như vậy” ra khỏi câu đó đi.
“Tôi cũng phải sống.” Muốn vậy, thì không được hoảng hốt, phẫn nộ hay xấu hổ, không được để người khác ở bên cạnh mình. Dù có phải đứng ở cửa như ăn mày, đợi ròng rã mấy tiếng đồng hồ, tôi cũng phải nhận được thù lao cho công việc mình làm. Đó là sức mạnh để tôi có thể sống trên cuộc đời này. À không. Là bí quyết để tôi không tự sát.
Hai tiếng sau, tôi nhận được tiền công. Vừa nhận tiền thì đột nhiên tôi rơi vào trạng thái đói khủng khiếp. Tôi đi một vòng, nhặt sạch hàng bày trên kệ. Tiền công nhận được bao nhiêu, tôi mua đồ ăn bằng hết. Hamburger, cơm cuộn rong biển, bánh mỳ xúc xích, sandwich, cơm hộp… Chất hết lên quầy tính tiền mới thấy chỗ này đủ cho cả đám người lang thang ở ga Seoul. Tôi quẳng tiền trả cho ông chủ.
Lâu lắm rồi bến cảng mới yên tĩnh thế này. Tôi kiếm chỗ ngồi trong một góc bến cảng, rồi một mình ăn hết chỗ đồ ăn mới mua. Miếng nào rớt ra khỏi miệng, tôi lấy tay nhón lên, bỏ miệng mà nuốt. Tôi đưa mắt đếm. Số chim mòng biển đang cắm đầu lao xuống nước trong ánh chiều, số tàu cá rời bến, số mèo hoang cũng rỗi việc y như tôi. Cuối cùng, đêm buông xuống. Đến lúc phải về rồi. Về cái tổ ấm của chú và tôi, về căn phòng thuê theo tháng tại nhà trọ Hoa Hồng ở cuối con hẻm gần bến cảng này.
Ngày hôm đó, lần đầu tiên tôi nói suy nghĩ của mình với chú. Tôi bảo muốn nghỉ học. Theo tôi thấy, nếu tôi bỏ học và chuyển chỗ ở, trên thế gian này sẽ chẳng còn dấu vết gì của tôi nữa. Chú lắc đầu.
“Cháu đầu hàng rồi.” Tôi nói.
Chú đáp lại rằng đừng giơ tay đầu hàng. Dù là đầu hàng thế gian này, cuộc đời này, trường học hay bất cứ thứ gì đi chăng nữa.
“Lên Đại học rồi, mọi việc sẽ khá hơn.”
Suýt tí nữa thì tôi phá lên cười. Đại học ấy à? Nói gì mà như trong mơ thế? Những thứ như thế có ý nghĩa gì chứ? Từ cái đêm bước ra khỏi nông trại Se Ryung, cuộc đời tôi đã kết thúc rồi. Trên trán tôi đã in rõ dấu ấn của kẻ tội đồ, còn chú thì vì tôi mà thành kẻ lang thang. Tờ Sunday sẽ không buông tha cho tôi. Dù có làm thế nào đi nữa, tình hình cũng chẳng thay đổi. Cuộc đời tôi cũng sẽ chẳng khác đi. Như thế chưa đủ lý do để đầu hàng sao? Tôi chỉ có một nguyện vọng duy nhất.
“Cháu mong được chuyển đến sống ở một vùng biển nào thật hẻo lánh.”
Chú lại lắc đầu. Ánh mắt chú như nói dù hàng trăm hàng vạn năm trôi qua đi nữa, chú cũng không tôn trọng cái gọi là “nguyện vọng của cháu” đâu. Tôi bướng bỉnh nhìn thẳng vào đôi mắt đó.
“Vậy tạm dừng học một năm. Chuyện học hành sau đó giải quyết cũng chưa muộn.”
Chú đã nhượng bộ một bước rồi. Tôi không còn cách nào khác, cũng đành phải nhượng bộ. Tôi đáp “Vâng.”
Chúng tôi di chuyển dọc theo bờ biển. Từ phía Đông, đi qua phía Nam, rồi từ phía Nam, đi hướng về phía Tây. Chú lái xe, còn tôi xem bản đồ. Nếu có nhà nghỉ thì chúng tôi dỡ hành lý xuống, không có thì ngủ trên xe. Thích thì ăn, lúc chán thì chạy xuống ngắm biển. Nếu có người xuất hiện, chúng tôi lập tức rời đi.
Chúng tôi đến làng Hải Đăng vào đầu tháng Một năm nay. Chúng tôi đã sống qua bốn mùa ở đây. Trong thời gian đó, tờ Sunday không thấy bay đến. Tại sao đến tận bây giờ chúng tôi mới có thể sống như thế này, tôi cứ hối tiếc mãi như vậy. Đáng lẽ phải bỏ học sớm hơn mới phải. Như thế có khi đã không phải lái cái xe Bongo mận chín kia lang thang khắp thế gian cát bụi hồng trần này.
Bây giờ thì có lẽ tôi cũng có thể mơ ước được rồi. Những mong ước bình thường xưa như Trái đất mà những con người bình thường theo đuổi, mong muốn được sống ở đây, chú viết văn, còn tôi làm việc ở hiệu thuốc, đã được như vậy rồi thì cứ thế sống thật lâu thật lâu, cho đến khi chết. Chính vì thế mới phải ngăn không để xảy ra chuyện ánh mắt người đời chạm đến vùng đất này. Thế nên mới phải bận tâm đến cái đám Chevrolet kia.
Chú cứ trằn trọc trở mình. Trong bóng đêm, vọng tới tiếng sóng biển. Chiếc đồng hồ treo tường của Hội trưởng điểm mười tiếng chuông. Không thấy đội Chevrolet quay về. Tôi nhắm mắt lại. Ngay giữa trán tôi nổi lên một mạch máu. Cái đồng hồ trong đầu tôi vang lên tiếng tích tắc to dần, và kim bắt đầu quay.
Người không hiểu về biển thì hay xem thường biển. Người xem thường biển, thì sẽ phải đau đớn vì biển.