← Quay lại trang sách

Chương 5

Tôi bắt đầu gà gật trên ghế sô pha nên phải đứng dậy, đem dọn mấy chai bia, vứt chỗ bánh còn dư, đánh răng và thay sang đồ ngủ. Xong xuôi đâu đấy tôi tới chỗ giá sách và tìm cuốn Chết trong làn nước . Tôi có bản bìa mềm gốc của Gold Medal in vào năm 1963. Bìa sách mang đặc nét giật gân đặc trưng của những cuốn sách do John D. MacDonald viết vào thời trung niên. Bìa quyển này là hình một người phụ nữ trong bộ đồ bơi hai mảnh màu trắng bị những bàn tay túm lấy đôi chân xinh đẹp kéo xuống làn nước xanh đục ngầu. Giống như những cuốn sách khác cùng thời, hai thứ rõ ràng nhất trên bìa là tình dục và cái chết. Tôi đưa ngón tay rà dọc theo mép sách, lật nhanh qua những trang giấy để thứ mùi mốc ngai ngái đặc trưng của những quyển sách cũ ập vào mũi. Tôi vẫn luôn ưa thích thứ mùi này dù phần nhà sưu tầm bên trong tôi biết rằng đó là dấu hiệu của một quyển sách được bảo lưu sai cách trong thời gian dài, một quyển sách nằm trong thùng cát-tông đặt trên sàn của một căn hầm ẩm thấp qua nhiều năm tháng. Thế nhưng thứ mùi đó ngay lập tức đưa tôi trở lại với tiệm sách Annie’s Book Swap, nơi tôi mua những quyển sách đầu tiên hồi năm lớp sáu.

Tôi lớn lên ở Middleham, cách Boston tầm bốn mươi lăm phút chạy xe về phía Tây. Năm tròn mười một tuổi tôi cuối cùng cũng được phép đạp xe trên con đường gần hai cây số rưỡi dọc theo đường Dartford tới trung tâm thị trấn Middleham. Ở đó chỉ có ba cửa tiệm thôi, một cửa hàng tạp hóa tự đặt cho mình cái tên Middleham General để nghe cho có vẻ sang chảnh, một cửa hàng đồ cổ nằm trong tòa nhà bưu điện cũ và cửa hàng bán, trao đổi sách mang tên Annie’s Book Swap - chuỗi cửa hàng sách cũ của một người Anh tên là Anthony Blake. Tiệm chủ yếu hướng tới thị trường đại chúng với những quyển sách bìa mềm be bé vừa đủ đút vào túi sau. Đó là nơi tôi mua những cuốn tiểu thuyết của Ian Fleming, rồi Peter Benchleys và cả Agatha Christie nữa - những cuốn sách đã đưa tôi đi suốt thời niên thiếu. Gần như chắc chắn tôi đã mua một bản Chết trong làn nước ở đó sau khi đã sở hữu mọi cuốn tiểu thuyết về Travis McGee - bộ truyện nổi tiếng của John D. MacDonald. Truyện lẻ của John D. MacDonald thì hiếm lắm nhưng có lẽ một vài độc giả trinh thám lão làng ở khu vực quanh Massachusetts này đây đã qua đời vào đúng tầm thời gian tôi bắt đầu đạp xe đi mua sách. Tại sao ư? Bởi vì khi đó những sách vở họ dành cả đời để sưu tầm mới lại rơi vào tay những tiệm sách cũ, mà hồi đó tiệm Annie bỗng nhiên đầy tràn từng chồng từng chồng sách trinh thám giật gân in giá rẻ trên giấy cũ. Không chỉ có John D. MacDonald, cả sách của Mickey Spillane, Alistair MacLeans và bộ truyện 87 th Precinct của Ed McBain nữa. Tôi chỉ cho phép mình mua ba quyển sách mỗi chuyến đi thôi, chừng đó là đủ ngốn gần hết số tiền tiêu vặt tôi tích cóp được rồi. Hồi ấy tôi chỉ mất gần một tuần để ngốn hết ba quyển sách, đôi khi là ba ngày, nhưng sau đó sẽ vui vẻ đọc đi đọc lại. Có lẽ tôi chưa sờ vào Chết trong làn nước từ hồi đó đến giờ nhưng cốt truyện của nó vẫn còn khắc sâu trong trí nhớ.

Nhân vật phản diện được khắc họa khá xuất sắc, là một cô thư ký sùng đạo, đem tất cả những dồn nén về năng lượng tình dục của mình vào việc luyện tập thể dục thể thao. Cô ta hạ sát những người mình cho là đầy tội lỗi, bao gồm một người phụ nữ có chồng quan hệ ngoài luồng với cấp trên. Cô thư ký phục kích trong đồ lặn ở đáy hồ nơi người phụ nữ nọ thường bơi, sau đó túm lấy chân cô ta và kéo xuống làn nước sâu. Tình tiết vụ án đó khắc sâu vào trong đầu tôi và hiện lên ngay khi bản danh sách bắt đầu thành hình. Tôi không cần đọc lại cả cuốn sách, chỉ mất chút thời gian để nhớ lại thôi.

Tôi mang cuốn Chết trong làn nước lên giường, mở nó ra và đọc đoạn đầu tiên. Những từ ngữ quen thuộc tới ám ảnh. Đọc sách là du hành thời gian, những độc giả đích thực đều biết điều đó, nhưng sách không chỉ đem bạn về với thời điểm nó được viết ra đâu, nó có thể đưa bạn về với những phiên bản khác của chính mình. Lần cuối cùng tôi mở cuốn sách này ra tôi chỉ tầm mười một, mười hai tuổi. Tôi thích nghĩ rằng đó là vào một đêm mùa hè, tôi nằm trong phòng ngủ chật chội của mình, trùm chiếc chăn mỏng tránh con muỗi đang vo ve ở góc nhà. Bố tôi đang bật đài ở trong phòng khách, tiếng nhạc quá to, to đến đâu thì tùy vào mức độ say xỉn của ông lúc đấy. Gần như mọi buổi tối đều có cùng cái kết, mẹ tôi sẽ vặn nhỏ tiếng nhạc đi, thường là nhạc Jazz, nhưng đôi khi cũng là dòng kết hợp như của Frank Zappa hoặc Weather Report và bố sẽ cằn nhằn rằng bà chẳng hiểu ông gì cả. Thế nhưng đó chỉ là âm thanh nền thôi vì tôi có thực sự ở đó đâu. Tâm trí tôi đang ở trong những trang sách, ở Florida những năm 1963, chơi bời cùng những tay buôn bất động sản đầy mờ ám và những người phụ nữ đơn thân đầy gợi cảm, uống rượu Bourbon trong ly cao. Giờ tôi lại ở đây, gần bốn mươi tuổi - đôi mắt lại chạm vào những dòng chữ quen thuộc, cầm quyển sách quen thuộc như hai mươi tám năm trước, quyển sách có lẽ đã từng qua tay một gã doanh nhân hay bà nội trợ nào đó cách đây cả nửa thế kỷ. Đấy, du hành thời gian đấy.

Tôi đọc xong cuốn sách vào lúc bốn giờ sáng. Suýt chút nữa tôi đã rời giường đi lấy thêm một quyển khác trong danh sách, nhưng cuối cùng lại thôi và quyết định cố chìm vào giấc ngủ. Tôi nằm sấp xuống, nghĩ về cuốn sách, nghĩ về cảm giác sẽ ra sao khi đang bơi thì có thứ gì đó túm lấy mình, kéo mình xuống làn nước sâu, vào bàn tay của cái chết. Sau đó, bởi vì cơn buồn ngủ dần tới, tôi nhìn thấy gương mặt vợ mình, như mọi khi. Nhưng tôi không mơ về cô ấy, cũng chẳng mơ về cuốn Chết trong làn nước . Tôi mơ thấy mình đang chạy, mơ thấy có người đang đuổi theo mình.

Cùng một giấc mộng tôi mơ thấy hàng đêm.

Khi tôi rời nhà vào sáng hôm sau, tuyết vẫn còn rơi nhưng không còn nặng hạt như ngày hôm trước. Lớp tuyết đọng trên đường đã dày tới hơn nửa mét, lòng đường được dọn sạch sẽ nhưng vỉa hè vẫn còn nguyên lớp tuyết trắng xóa. Tôi đi giữa lòng đường, rón rén trên con đường dốc hướng tới phố Charles. Tuyết vẫn còn rơi nhưng bầu trời có vẻ sáng hơn, có lẽ một phần là nhờ lớp tuyết mới trắng tinh phản chiếu lại ánh mặt trời. Trên vai tôi là chiếc túi đeo cũ kỹ.

Tôi đến sớm, khách sạn Flat of the Hill là một điểm đến mới toanh ở bên này Boston, không lớn nhưng mang phong cách độc đáo, nằm trong khuôn viên nhà kho được tái quy hoạch ở gần phố Charles. Nó có nhà hàng sang trọng và một quán bar không tệ, nơi tôi vẫn thường lui tới vào mỗi tối thứ Hai khi hàu vẫn còn có giá một đô-la cho mỗi con.

Tôi nói với cô phục vụ duy nhất ở đó - một người phụ nữ với đôi mắt buồn đằng sau quầy lễ tân rằng mình có cuộc hẹn. Cô ấy hướng dẫn tôi đến khu vực ăn uống, không lớn, chỉ có tám bàn. Không có người xếp chỗ nên tôi tự chọn một chiếc bàn trong góc, bên cạnh cửa sổ lớn và ngồi xuống. Cả phòng ăn không còn ai khác, tôi tự hỏi liệu thực sự có ai đang làm việc không hay mọi nhân viên đều đã nghỉ vì bão tuyết. Ngay lúc đó, một người đàn ông trong chiếc áo sơ mi trắng và quần âu đen bước ra ngay lúc đặc vụ Mulvey rảo bước tiến đến qua lối vào nhà ăn. Cô ấy nhìn thấy tôi và bước tới, cùng lúc người phục vụ mang thực đơn ra. Cả hai chúng tôi đều gọi cà phê và nước trái cây.

“Ngân sách đi lại của FBI cũng khá nhỉ.” Tôi nói.

Cô ấy nhìn tôi bối rối mất một lúc rồi nói, “À, tôi tự đặt phòng ở đây vì nó gần với tiệm sách của anh. Cũng chả biết liệu có được hoàn ứng hay không nữa.”

“Đêm qua cô ngủ có ngon không?” Tôi hỏi. Cô ấy có một vòng bọng mắt xanh tím ngay dưới mắt.

“Không ngủ được mấy, tôi đọc sách cả đêm.

“Tôi cũng thế, cô đọc quyển nào vậy?”

“Bí ẩn ngôi nhà đỏ . Tôi nghĩ mình nên bắt đầu từ đầu danh sách.”

“Cô nghĩ sao về nó?” Tôi nhấp một ngụm cà phê rồi hỏi, đầu lưỡi bỏng rát.

“Rất hay, tình tiết rất khéo, tôi nghĩ vậy, tôi cũng không đoán được cái kết.” Đặc vụ Mulvey chạm vào cạnh chiếc cốc cà phê sứ rồi cúi xuống, mím môi và hớp lớp cà phê trên bề mặt - hành động này làm tôi liên tưởng tới một chú chim.

“Thực lòng mà nói, tôi biết rằng mình đã đưa nó vào danh sách nhưng tôi không còn nhớ được những tình tiết cụ thể nữa, đã lâu quá rồi.” Tôi nói.

“Thì nó cũng gần giống như mô tả của anh vậy, một án mạng đồng quê và hơi phóng đại một chút. Tôi vẫn không ngừng nghĩ về Clue, về trò chơi...”

“Đại tá Mustard trong thư viện.”

“Chính xác, nhưng mà không chỉ thế.” Cô ấy tóm tắt cho tôi cốt truyện cơ bản và tôi bắt đầu nhớ lại. Có một người đàn ông giàu có tên là Mark Ablett sống trong căn nhà ở vùng nông thôn - kiểu nhà mang phong cách Anh quốc với thiết kế quá mức thích hợp để án mạng diễn ra. Một ngày nọ Ablett nhận được một bức thư từ người anh trai xa cách đã lâu thông báo rằng anh ta sẽ đến thăm. Khi người anh đến nơi, anh ta được bảo chờ trong phòng đọc sách của Mark Ablett, sau đó một tiếng súng vang lên. Người anh mới trở về từ nước Úc đã chết còn Mark Ablett thì mất tích. Dường như kết luận hợp lý nhất ở đây là Mark đã sát hại anh mình rồi bỏ trốn.

Vị thám tử trong truyện thực chất chỉ tình cờ nghỉ lại trong nhà khách quận. Tony Gillingham cùng bạn mình là Bill bắt tay vào điều tra và phát hiện ra một hệ thống đường hầm bí mật nằm bên dưới căn nhà dẫn ra tới tận sân golf, số lượng nghi phạm cũng vì thế mà tăng lên.

“Không có người anh nào cả, đúng không?” Tôi ngắt lời cô.

“Phải, chính xác là vậy. Người anh thật sự đã chết từ nhiều năm trước rồi, hoàn toàn không có liên quan gì tới những sự kiện hiện tại cả. Có ai đó đã thuyết phục Mark Ablett tạo ra màn giả mạo này và sau đó bị sát hại. Nhưng đây chưa phải là chỗ tôi cảm thấy tài tình, anh thì sao?” Cô ấy nói một tràng làm tôi không nhận ra rằng cô đang chờ đợi một câu trả lời.

“Tôi nghĩ lúc đó mình đặt nó vào danh sách bởi vì vụ án này đã đưa ra nạn nhân và hung thủ cùng một lúc, là cùng một người và không một ai khác biết điều đó cả.”

“Tôi có thể đọc phần mà mình đã đánh dấu vào đêm qua không?”

“Được chứ.” Tôi nói, và cô ấy lôi cuốn sách ra từ trong túi và bắt đầu lật nhanh các trang. Từ chỗ đang ngồi tôi cũng có thể thấy được rất nhiều chỗ ghi chú. Tôi nghĩ về vợ mình, cô ấy không bao giờ đọc sách mà không có cây bút kè kè bên cạnh, sẵn sàng viết vào bất cứ thứ gì cô ấy đang cầm lúc đó. Tôi bỗng mừng thầm vì đã không cho đặc vụ Mulvey mượn phiên bản đầu tiên cực kỳ đắt tiền của cuốn Người lạ trên tàu.

“Đây rồi!” Cô ấy vừa nói vừa đặt quyển sách xuống bàn rồi rướn người về đằng trước để cả hai cùng đọc. “Thanh tra đã đến đó, tôi nghĩ anh ấy đang nói đến ngôi nhà kia, để thấy một người đàn ông đã chết và tìm một người khác đang mất tích” cô ấy bắt đầu đọc. “Có khả năng cao là người đàng ông mất tích chính là người đã nổ súng. Gần như chắc chắn rằng thanh tra sẽ coi giả thuyết cực kỳ khả thi này là chân tướng của sự việc, điều đó làm làm anh ta cân nhắc một cách thiếu khách quan về những trường hợp khác có thể xảy ra nếu có.” Cô ấy gấp sách lại. “Đoạn này làm tôi suy nghĩ,” đặc vụ Mulvey tiếp tục. “Nếu anh muốn thực hiện một vụ án dựa trên cuốn sách này, anh sẽ làm thế nào?”

Chắc lúc đó gương mặt tôi lộ vẻ bối rối, bởi vì cô ấy phải bổ sung thêm rằng, “Liệu anh có nổ súng vào một ai đó trong căn phòng đọc sách ở một căn nhà vùng quê không?”

“Không” Tôi trả lời. “Tôi nghĩ là mình sẽ giết hai người, sau đó giấu đi một thi thể và ngụy tạo tình huống kẻ thủ ác đã tẩu thoát và đang lẩn trốn”

“Chính xác.” Cô nói.

Người phục vụ đã lượn qua đây mấy lần rồi nên chúng tôi đều gọi món. Đặc vụ Mulvey gọi món trứng Florentine. Dù không đói lắm tôi vẫn gọi hai quả trứng chần và bánh mỳ nướng cùng với hoa quả. Sau khi đã gọi xong, cô ấy trầm ngâm, “Điều này làm tôi suy nghĩ về luật chơi ở đây.”

“Luật chơi là ý gì?”

“Thế này nhé,” cô ngẫm nghĩ một lát rồi nói. “Nếu tôi là người nọ, tự đặt ra cho mình một thử thách rằng mình phải thực hiện đủ tám vụ án mà anh đã liệt kê trong danh sách, vậy thì hẳn là tôi phải đặt ra một vài nguyên tắc nào đó - đặt ra luật chơi. Tôi có muốn bắt chước giống hệt những vụ án đó không hay chỉ làm theo ý tưởng đằng sau nó thôi? Tôi cần phải làm giống tới mức độ nào?”

“Vậy cô cho rằng luật chơi mà kẻ thủ ác đề ra bắt hắn phải làm sát với nguyên tác nhất có thể, phải không?”

“Không, không phải giống nhau ở chi tiết vụ án, mà là triết lý đằng sau chúng. Như thể tên sát nhân kia đang kiểm tra những quyển sách này trong tình huống thực tế vậy. Nếu hắn chỉ đơn thuần muốn bắt chước quyển sách thì hắn chỉ cần tìm bắn một ai đó ở trong phòng đọc sách của một căn nhà ở miền quê nào đó là đủ. Hay là như cuốn Sát nhân A.B.C. chẳng hạn, hắn sẽ bắt chước theo từng con chữ, tìm một ai đó tên là Abby Adams sống ở thị trấn Acton, giết chết rồi tiếp tục. Nhưng hắn không làm vậy, hắn muốn làm thật đúng. Luật chơi của hắn chắc chắn có tồn tại.”

“Vậy lấy ví dụ quyển Bí ẩn ngôi nhà đỏ , ý tưởng ở đây là dắt mũi cảnh sát hướng về một nghi phạm mà họ sẽ không bao giờ tìm thấy được, không bao giờ ngờ tới.”

“Phải, chính là như thế.” Đặc vụ Mulvey nói. “Thực ra nó khá là tài tình đấy. Tôi đã nghĩ về nó cả đêm qua. Giả dụ tôi muốn giết một ai đó... gã bạn trai cũ chẳng hạn.”

“Ừ.” Tôi nói.

“Nếu tôi chỉ giết anh ta thôi thì tôi sẽ trở thành nghi phạm. Nhưng nếu giả dụ tôi giết hai người - bạn trai cũ và người yêu mới của gã chẳng hạn - và tôi đảm bảo rằng người ta sẽ không thể tìm được thi thể của cô ả kia. Như vậy tôi có thể làm mọi chuyện giống như là hung thủ đã bỏ trốn. Phía cảnh sát sẽ không bỏ công đi tìm kiếm danh tính của hung thủ nữa vì họ cho rằng họ đã biết điều đó rồi.”

“Sẽ không dễ đâu, cô biết đấy.” Tôi nói.

“Ha!” Cô trả lời. “Tôi cũng đâu có thật sự làm vậy đâu.”

“Bởi vì hung thủ sẽ phải sẵn sàng giết hai người.”

“Đúng vậy”

“Và chuyện giấu xác cũng chẳng hề dễ dàng nữa.”

“Đừng nói là anh đang nói dựa trên kinh nghiệm cá nhân đấy nhé?” Cô nói.

“Đọc nhiều tiểu thuyết trinh thám để làm gì?”

“Tôi nghĩ rằng mình cần phải xem lại những vụ án mà nghi can chính đã biến mất.”

“Có nhiều vụ như thế không?” Tôi hỏi.

“Thực ra là không. Để biến mất trong thời đại này đâu có dễ, sẽ luôn có manh mối để lần theo, nhưng cũng không phải là không thể.”

“Tôi nghĩ là ta đang đi đúng hướng rồi.” Tôi nói. “Vấn đề là có thể ta phải tìm kiếm hai nạn nhân - tội phạm chẳng hạn, một người đã chết và người kia mất tích. Nếu như giả thiết của cô là đúng thì ta nên gọi nghi phạm là gì đây? Ta cần có một cái tên”

“Sao ta không gọi hắn là....” Cô ấy ngừng lại.

“Một thứ gì đó liên quan đến chim chóc?”

“Không, như thế thì rối quá. Cứ gọi hắn là Charlie đi.” Cô nói.

“Tại sao lại là Charlie?”

“Tự nhiên tôi nghĩ đến nó thôi. Mà cũng không phải tự nhiên đâu. Tôi nghĩ về cái tên rồi nghĩ về kẻ bắt chước (copycat), rồi điều đó làm tôi nghĩ đến lũ mèo, rồi nhớ về chú mèo đầu tiên tôi có hồi còn bé, và tên nó là Charlie.”

“Charlie tội nghiệp. Nó có tội tình gì mà bị lấy tên ra dùng theo cách này?”

“Thực ra thì đáng tội lắm. Nó bắt chuột bắt chim tha về nhà mỗi ngày luôn đấy.”

“Hoàn hảo.” Tôi nói.

“Thế ta chốt cái tên Charlie”

“Tôi nói đến đâu rồi nhỉ? À, đúng rồi, hãy tìm một cặp nạn nhân tiềm năng. Charlie có vẻ không thích xuống tay với người vô tội.

“Ta chưa có gì để chứng minh giả thiết đó nhưng cũng không loại trừ khả năng này. Cô vừa nói vừa đẩy người ra sau để lấy chỗ cho món ăn vừa ra. “Cảm ơn!” Cô nói với người phục vụ và cầm lấy chiếc dĩa. “Tôi có thể vừa ăn vừa nói được không? Tôi bỏ bữa tối qua nên giờ đang đói gần chết rồi.”

“Không, không sao cả.” Tôi nói. Món trứng chần của tôi cũng được mang lên. Nhìn lớp lòng trắng trứng vẫn còn hơi trong suốt làm dạ dày tôi nhộn nhạo. Tôi chọc lấy một miếng dưa lưới với cái dĩa.

“Có thể là tôi đoán sai, nhưng,” Đặc vụ Mulvey nói trong lúc đang bận nhai miếng đầu tiên, “có lẽ chuyện này ít nhiều có liên quan đến anh đấy. Có ai đó muốn anh chú ý, có thể là muốn gài bẫy anh.” Cô nói. Tôi đưa môi dưới ra, ra chiều suy nghĩ.

“Nếu thật là như vậy,” tôi trầm ngâm một lúc, “thì giả thiết rằng kẻ sát nhân học theo những tựa sách trong danh sách đó là hoàn toàn hợp lý.

“Đúng vậy.” Cô ấy nói. “Thế nên tôi muốn điều tra kỹ hơn về cái chết của Elaine Johnson, nạn nhân có tiền sử bệnh tim đó...”

“Người có thể thiệt mạng dưới tay Charlie, hoặc không.” Tôi nói.

“Nhưng nếu bà ấy đúng là bị sát hại thì tôi cần phải tới hiện trường. Có lẽ có thứ gì đó cho ta thấy đầu mối liên kết với Bẫy tử vong.

“Tôi phải thú thực là.” Tôi nói và nhìn gò má của đặc vụ Mulvey ửng hồng chờ đợi. “Thực ra tôi chưa từng xem vở diễn đó, kịch bản cũng không, nhưng đã xem phim rồi và tôi khá chắc là nó trung thành với bản gốc. Tôi khá xấu hổ, nhưng sự thật là vậy.”

“Anh nên thế.” Cô ấy bật cười, gò má đã thôi đỏ.

“Ờm, trong phim, đấy là tất cả những gì tôi có thể nói,” tôi nói, “nạn nhân chết vì nhồi máu cơ tim khi nhìn thấy một người đàn ông mà cô ta tin là đã chết lờ mờ xuất hiện trong phòng ngủ. Có phải thi thể của Elaine Johnson được tìm thấy trong phòng ngủ không?”

“Cái này thì tôi phải kiểm tra lại.” Cô nói. “Tôi không nhớ ra ngay bây giờ được. Anh biết đấy, khi anh nói mình có điều này cần thú nhận, tôi đã cho rằng anh sẽ nói cái gì đó khác cơ.”

“Cô nghĩ là tôi định thú nhận rằng mình là Charlie hả?” Tôi nói với một vẻ mà tôi hy vọng là hài hước.

“Không” Cô ấy nói. “Tôi đã nghĩ là anh định thú nhận rằng mình quen biết Elaine Johnson.”