Chương 2 CHUỖI NGÀY VẤT VƯỠNG
Không chỗ ngủ, hắn đành co quắp trên ghế
công viên vào những đêm mùa thu thời tiết
đã bắt đầu lạnh.
WALTER GORLITZ
Vienne của những năm tháng giữa 1905 – 1907 là trung tâm ăn chơi sa đọa.
Hằng đêm trong các lâu đài, biệt thự, khách sạn sang trọng, yến tiệc mở tưng bừng, xã hội giầu có quyền quí thi nhau lăn vào hố trụy lạc. Những bản valse điên cuồng, rượu đổ như suối, đàn bà đĩ thõa và hoang phí. Họ ngâm ngợi, ca tụng những bài thơ đầy tuyệt vọng ủy mị của Rilke, Hofmanusthal, Trakl. Dưới lớp vỏ hồng của xã hội quý tộc, tư bản bạo lợi là xã hội khốn cùng trộm cướp nhà thổ, thợ thuyền đói rách hừng hực căm thù sẵn trong tay lá cờ đỏ tươi màu máu. “L’autriche pe’rira par ses femme” (Áo quốc sắp bị đàn bà Áo tiêu diệt). Mọi người bảo nhau như vậy.
Thế vẫn chưa hết. Thành Vienne cùng triều đại Habsbourg còn cái họa nguy hiểm bội phần là phong khí hoàn toàn tin vào định mệnh cộng với thái độ thờ ơ lạnh nhạt ngu xuẩn kèm theo triết lý hư vô lười biếng cho rằng tất cả đều vô ích chẳng làm thế nào cứu vãn tình thế được nữa. Ai nấy chăm chăm vơ vét bằng đủ mọi cách vô liêm sỉ nhất. Adolf Hitler viết trong cuốn Mein Kampf về chuỗi ngày vất vưỡng sống ở Vienne như sau: “Đó là thời gian tạo cho tôi những quan điểm hành động. Vienne mãi mãi đối với tôi là một trường học cứng rắn nhất, đồng thời nó cũng cho tôi nhiều điều có lợi trong đời tôi.” (Que cetle e’poque que prirent forme en moi les vues de mon action… Vienne fut et resta pour moi l’ecole la plus dure, mais aussi la plus fructueuse de ma vies).
Đúng thế, Adolf Hitler thời gian đầu trong kinh đô đã hoàn toàn bị mê hoặc bởi các lâu đài, cung điện tráng lệ nguy nga, với cả ngàn bức danh họa treo trong các bảo tàng viện.
Nhưng cuộc sống Vienne cũng hết sức tàn nhẫn nếu không vươn lên sẽ bị ép dẹp.
Sau khi sát hạch để vào học trường cao đẳng mỹ thuật, ngày kết quả, Adolf bị lạnh lùng từ chối bằng mấy hàng chữ:
“Adolf Hitler sinh quán Braunau ngày 20 – 4 – 1889, quốc tịch Đức. Công giáo. Bố công chức. Kém khả năng. Vẽ tầm thường. Không được tuyển.”
Thật là một tảng đá dâng vào đầu. Hy vọng trở thành họa sĩ đến đây tắt phụt. Một sớm một chiều. Adolf cảm thấy mình bây giờ chỉ là kẻ vất vưỡng bị ném ra ngoài lề xã hội (the outcast). Thất bại cay đắng. Buồn tủi, Adolf quay về Linz thì vào cuối mùa đông năm ấy, người mẹ thân yêu, cũng là nguồn an ủi duy nhất, trút hơi thở cuối cùng. Lễ Noel 1907 đầy thảm sầu, Adolf cùng với Paula đến nhà thờ cầu hồn cho mẹ. Theo lời chỉ bảo của ông xã trưởng, Hitler viết đơn cho bộ tài chính hoàng gia xin tiền phụ cấp cho trẻ mồ côi. Đơn được chấp nhận, hàng tháng hai anh em lãnh tiền bố thí 35 đồng “couronnes”. Lá đơn bây giờ đã thành sử liệu vô giá cho Đức Quốc.
Trong Mein Kampf, Hitler tự tả hình dạng mình: “Lê la, lêu bêu đói phải cầm cố tất cả những gì còn sót lại, tinh thần cũng như thể chất nhão ra” (Il traine maintenant ca et la affame, il vend ou met en gage ce qui lui reste, une decheance complete du corps et de l’esprit).
Tháng 2 1908, Hitler trở lại Vienne. Lần này rủ thêm người bạn thân Augus Kubizek cùng đi. Kubizek là một sinh viên học nhạc, chơi vĩ cầm, hoàn toàn khâm phục Hitler.
Tới Vienne, cả hai gom góp còn ít tiền thuê tầng lầu căn nhà tồi tàn khu Stumpergasse gần nhà ga phía Tây. Họ sống thật âm thầm không bạn bè nào khác. Đàn bà con gái thấy lạ thường tìm cách quyến rủ Hitler nhưng đều bị khước từ bằng sự hờ hững. Bực mình, đám phu nhân nói xấu hai thằng đó là loại đồng tính ái “ô mô”. Cả ngày, Hitler hoặc ngồi yên lặng trong phòng đọc sách miên mang, vẽ say mê hoặc đi lang thang khắp phố, các công viên. Tối tối, cả hai rủ nhau xem ca kịch (ope’ra).
Rồi Kubizek vào học Âm Nhạc Viện, phần Hitler vẫn tiếp tục vất vưỡng vì không chịu nổi bất cứ lối làm việc kỷ luật máy móc.
Lúc quay cuồng với hoặc lúc chìm đắm vào sách vở, lúc thích luôn cả âm nhạc, Hitler thật sự mang tâm hồn nghệ sĩ nhưng lại hoàn toàn không có tài, thiếu học hỏi và không có sức mạnh sáng tác. Điều này khiến Hitler bơ vơ.
Mùa hè 1908, Kubizek về Linz thăm nhà, trở lại Vienne không thấy bạn đâu nữa. Hitler bỏ đi sống xa lánh một mình. Lý do nào? Chẳng ai biết, chỉ đồ chừng vì tự ái đồng thời để cho bạn yên thân theo đuổi con đường mà xã hội Vienne thu dụng Kubizek mà hắt hủi Hitler.
Từ biệt Kubizek, Adolf Hitler gặp người bạn thân khác là đói rách, rét mướt. Dòng dã hai năm không ngày nào đủ ăn. Ban đầu, hắn còn mướn gầm cầu thang làm chổ che mưa tránh nắng. Sau hết sạch tiền, hắn đành phải tìm nhà kèn, ghế công viên mà ngủ. Cuối cùng, Hitler mới dọn hẳn đến trại tế bần Meidling phía Tây Nam thành phố, ngày ngày vác tô sắt đi xin “soupe” của tu viện: “Những thầy dòng Phước Thiện” (Couvent des Freres de la Charite) ăn. Thỉnh thoảng, Hitler xin được một chân lao công quét đường hoặc làm phu khuân vác. Chỉ những ngày có việc, Hitler mới biết hơi ấm là gì, mấy mẩu bánh mì đen nhét pate, jambon làm hắn thêm nhiệt lượng. Sung sướng hơn nữa là hơ đôi tay cóng buốt gần lò đúc thép của bá tước Konigswater, nhà tư bản lớn đương thời, gốc Do Thái.
Trại tế bần Meidling, Hitler kết bạn được với một họa sĩ nghèo đói khác tên là Reinhold Hanisch. Noel năm 1909, Hitler nhận được 50 đồng “couronnes” do Angela gửi cho, Hitler tức khắc chuyển qua trại tế bần khác, trại Meldermanntrasse. Muốn ngủ tại đây thì phải trả mỗi tuần 2 đồng “couronnes” nhưng có chỗ nằm rộng rãi với nơi đọc sách yên tĩnh. Hanisch đi theo Hitler.
Thế giới tế bần Meldermannfrasse như chiếc gương soi kỳ diệu soi rõ cuộc sống phức tạp thiên hình vạn trạng của đủ mọi giai tầng xã hội thành Vienne. Có những thương nhân buôn bán không cửa không nhà, có bọn Do Thái cho vay cắt cổ, có lũ nông dân chất phác bỏ ruộng vườn lên thành thị mong tìm thấy tương lai để giả từ chân lấm tay bùn, có những nghệ sĩ tâm hồn ưa chống đối, có những kẻ đầu trộm đuôi cướp hoặc ăn cắp vặt, thậm chí có cả những nhân vật tự xưng mình là công tử vương tôn. Tất cả trôi nổi bồng bềnh như rêu rong ngoài biển, tất cả đều hư hỏng, ung thối thèm khát tiền bạc.
Để kiếm sống, Hitler vẽ những bức thủy thái họa, Hanisch mang bán, một người Do Thái gốc Hung tên Neumann dắt mối, có Joseph Greiner bạn của Hitler nhận làm bầu bỏ vốn. Việc làm ăn dần dần dễ thở đôi chút. Cả bốn bàn nhau kết lập một hãng quảng cáo. Ngoài thì giờ vẽ, Hitler đọc sách, hắn đọc ngấu nghiến các loại sách.
Trong “Mein Kampf” thấy ghi rằng:
“Tôi đọc và đọc miên man, rỗi lúc nào đọc lúc đó cho nên chỉ vài năm đã thâu thập được nhiều điều thật ích lợi cho tôi ngày nay. Nhưng tôi không chỉ tìm biết mà thôi, thời kỳ này đã biểu hiện lên trong tâm óc tôi hình ảnh về đời sống cùng với một ý thức hệ, bây giờ là nền móng cho cuộc chiến đấu của tôi”.
Theo Greiner, Hitler khoảng thời gian này đã đọc khá kỹ càng ít nhất là 500 cuốn sách.
Qua thế giới trại tế bần, Hitler thấy đời sống là khốn cùng, đói khổ, tàn nhẫn và quá khích đặt trong luật rừng, chỉ kẻ mạnh mới được quyền tồn tại.
Sử gia Heinrich von Treitschke nói đúng: “Ai mạnh sẽ nắm phần hơn đó là qui luật” (If the strong get the better of the weak, it is an inexorable law of life). Và Hitler tin như vậy rồi suy diễn thêm luật rừng ấy: Nguyên nhân căn bản của bao nhiêu thế kỷ lịch sử đều không di ra ngoài nguyên tắc sức mạnh và quyền lực. Phát triển nào cũng phải qua đấu tranh. Chỉ có sức mạnh chế ngự hết tất cả. Sức mạnh là quy luật bao trùm.
Suốt cuộc đời Hilter đã sống bằng quy luật sức mạnh. Những tác giả mà Hitler luôn luôn đọc là triết gia Schopenhauer với tác phẩm “Le monde comme volonte’ et comme repre’sentation”, Stewart Chamberlain với cuốn “Fondements du 19e siècle” và hầu hết sách do Nietzche viết.
Trời đông nằm giường đá, gối gỗ, bụng cồn cào nếu không có thứ triết lý “nghị lực, sức mạnh lên đến tuyết đỉnh” chắc Hitler không sống nổi.
Cả kinh đô Vienne trước mắt Hilter là kẻ thù.
Để đối phó với kẻ thù, mọi thủ đoạn mưu chước đều được quyền sử dụng. Quỷ quyệt, dối trá bóp méo sự thật, lừa đảo, nịnh nọt, dẹp tình cảm yếu đuối đều là những phẩm đức cho mọi người muốn sống vươn lên.
Hitler tỉ mỉ nghiên cứu đủ mọi khía cạnh sinh hoạt xã hội nước Áo rồi kết luận: “Điều đập vào tâm trí tôi không phải là vẻ tráng lệ của thành Vienne mà là cái tồi tàn cùng khốn của những kẻ không nhà không cửa ngủ nơi gầm cầu, cống rãnh”.
Mắt Hitler sáng lên khi nhìn đám công nhân biểu tình và tự nghĩ nếu làn sóng đói rách ấy sẽ tràn ngập lâu đài cung điện.
Hitler nhận thấy bọn tư sản hoàn toàn thờ ơ với sự khổ đau của quần chúng trong khi đám quần chúng thì chỉ biết cúi đầu chịu khổ, chịu bạc đãi.
Hitler càng đọc sách càng say mê chính trị.
Bước tiếp xúc khai mở với hoạt động chính trị là tìm hiểu làm quen với hoạt động của đảng Dân Chủ Xã Hội (Social – democratic). Hitler cũng chăm chú theo dõi tờ nhật báo công nhân (Nbeiter Zeitung). Nhìn sang khuynh hướng tả phải để đối chiếu, Hitler rút ra một định luật: Phong trào quần chúng không thể dựa trên những căn bản phòng nghiệm, quần chúng cần một người hùng để lãnh đạo, để mọi người qui phục.
Hitler rất ngạc nhiên thấy rằng thế hệ lãnh đạo phe xã hội tiên phong của Áo quốc có quá nhiều dân Do Thái. Trong khi cũng bọn Do Thái cầm đầu, hầu hết sinh hoạt trí thức lẫn tài chính, Do Thái còn làm trùm luôn cả đám ma cô chuyên khai thác đĩ điếm. Thượng tầng là lũ Do Thái đại tư bản như Rothschild, gia đình Wertheimtein, Konigswater đến hạ tầng đâu đâu cũng toàn Do Thái ăn chốc ngồi trên.
Ngó đến quốc hội thì đây là một sự hỗn tạp vô kể. Quốc Hội Đức mà sao có mặt đủ dàn Tiệp, Ba Lan, Serbie, Lỗ Mã Ni, Groate, Slavene. Dân chủ nghị hội Áo rõ ràng là thứ thể chế lộn xộn gồm những tên đại biểu kém thông minh lừa dối quần chúng. Cần phải có ngay một chế độ dân chủ khác cho riêng dân Đức để thay thế loại dân chủ Do Thái hiện thời. Nếu không dân tộc Đức sẽ lần mòn bị các giống khác tiêu diệt. Bảo toàn nòi giống là nhiệm vụ thiêng liêng nhất. Hitler ghi đậm vào cuốn sổ tay hàng chữ: “Quyền thiên nhiên của con người phải đè bẹp quyền chính trị” (Le droit naturel de l’homme brise le droit politique).