← Quay lại trang sách

Chương 3 MUNICH

Kế hoạch của bọn Do Thái trước hết

là làm hư đàn bà con gái với mục

đích biến dân tộc Đức thành dân tộc

lai hoang

HITLER

Công ty quảng cáo và tổ chức bán tranh bốn người tan vỡ vì có sự lường gạt bên trong. Hồ sơ cảnh sát ghi nhận một lá đơn của Hitler thưa Reinhold Hanisch về tội đã ăn chặn 50 “couronnes” tiền bán bức thủy thái họa. Lá đơn đề ngày 5 tháng 8 năm 1910.

Hai năm sau đó, không ai biết Hitler đã sống ra sao. Mãi đến tháng 5 – 1913 thì Hitler rời Vienne đến tỉnh Munich.

“Lòng hận thù Vienne ngày càng chồng chất đã hình thành trong tôi ước muốn vô bờ là được đến nơi thuần túy Đức quốc, nơi đó là tỉnh Munich”.

Munich là tỉnh nằm ở phía Bắc dẫy núi Alps, phía Nam sông Danube phía Đông của nó là Vienne và lùi xa về phía Tây là Paris. Kiến trúc và phong tục ở Munich hoàn toàn giữ nếp cổ truyền dân tộc Đức.

Vừa đặt chân xuống đây Hitler đã vui mừng reo lên: “A German City”. Nghèo đói và thất bại vẫn theo đuổi Hitler tới Munich. Sau khi trả tiền mướn căn buồng hẹp ở nhà người thợ may tên Popp đường Schleissheimer lúc bước chân ra phố, Hitler chỉ còn đủ tiền ăn bữa cơm chiều. Sở cảnh sát liệt Adolf Hitler vào thành phần vô gia cư. Xa lạ trong đám 600.000 dân, nhờ chỉ dẫn của Popp, Hitler cứ vài ngày xin được chân tạp dịch, quét dọn, làm bồi, khuân vác, không đều tuy nhiên cũng đủ sống một cách hết sức thiếu thốn. Lâu dần, Hitler lại dỡ nghề cũ ra đi vẽ bảng hiệu, sơn cửa, sơn tường, vẽ tranh đem bán. Để cho thân phận cao lên một chút, Hitler tự gán cho mình cái nhãn hiệu “họa gia kiến trúc” (Architectural painter) và thường nói với mọi người rằng: “Tôi tin chắc một ngày kia sẽ đạt tới mục đích nghệ thuật mà tôi quyết theo đuổi bất chấp tất cả. Do đó tôi không thèm đếm xỉa đến những khó khăn đời sống. Hiện tại, tôi chẳng kiếm được bao nhiêu, nhưng tôi chỉ cần ăn ngày hai bữa để tiếp tục nghiên cứu, ngoài ra chẳng có gì đáng kể”.

Nhà Hitler mướn nằm trong quận Schwabling, nơi khởi nghiệp của nhà danh họa quốc tế Vasily Kandisky, một giáo sư đại học luật người Nga đã bỏ nghề dạy học để đến Munich sống khổ sở theo đuổi nghành họa. Kandisky chỉ mới tìm thấy và đề xướng họa phái mới và được các nhà phê bình toàn cõi Âu Châu coi như một phát hiện làm đảo lộn nghệ thuật cho thế kỷ 20 cách đó chừng ba năm.

Hitler không mong chi hơn là mai đây Âu Châu sẽ còn hướng về Munich, quận Swabbing để ca tụng thêm một bậc danh tài nữa.

Nhưng đau khổ cho Hitler, không hề có “sự thì thầm của mầu sắc” (the whispering of colors) như mầu sắc từng thủ thỉ bên tai Kadinsky.

Thèm khát trở thành nghệ sĩ tăng bao nhiêu thì khả năng nghệ thuật khó đi bấy nhiêu. Bực tức, Hitler lên án luôn họa phái mới như một biểu tượng sa đọa của một thế giới đang tàn loại thối nát.

Munich là tỉnh vang danh về sản xuất rượu bia ngon nhất. Kỳ là nữa là bia Munich đã đưa Adolf Hitler trở thành quốc trưởng Đức vì Hitler bắt đầu sự nghiệp chính trị tại các quán mà thiên hạ tụ họp uống bia. Ở Munich thì không thể nào không uống bia, đời sống Munich từ tình cảm xã hội đến kinh tế đều ít nhiều liên quan đến bia, dĩ nhiên chính trị cũng không thể ra khỏi đặc tính của Munich. Khắp tỉnh từ hang cùng ngõ hẻm đến phố xá xầm uất, chỗ nào cũng thấy chữ “brau” nghĩa là bọt, nào Lowenbrau, Burgerbrau, Spatenbrau, Hackerbrau và mấy chục hãng bia khác biến Munich ra một đại dương bia rượu.

Vào quán bia, người dân Munich thân mật vui vẻ với nhau, cãi cọ bàn tính tranh luận đều tràn ngập bọt bia. Hitler vốn ghét chè chén, chẳng ưa gì bia dù là bia ngon Munich, nhưng chính tại các quán bia mà Hitler mới được mọi người bắt đầu chú ý tới và hầu hết các đảng viên, cán bộ trung kiên của đảng quốc xã đều là dân nhậu “Munichois”. Ở đấy, người ta nghe Hitler nói chính trị rồi theo Hitler làm chính trị. Ở đấy Hitler không còn cảm thấy mình bị cô lập xa lạ nữa, mạnh dạn phát triển tài năng mà tự Hitler chưa bao giờ tin nơi mình, học hỏi và tìm hiểu quần chúng.

Cùng lúc Hitler còn thấy xuất hiện nhà cách mạng thi sĩ Erich Muhsam với khuynh hướng vô chính phủ mác xít hay nói khác đi: một người mác xít không tưởng (Marxist dreamer) chống đối chế độ và cuộc sống tư bản. Muhsam chẳng dựa nguyên tắc nào hết, chỉ kêu gọi mọi người hãy phá tan xiềng xích gia đình, xã hội, chế độ chính trị. Quan niệm cách mạng của Muhsam là một đời sống bỏ ê miên giang hồ này đây mai đó, không ràng buộc.

Tại các quán café, quán bia, Muhsam thường duyên dáng hơn Hitler, nhiều vụ tranh luận Hitler bị Muhsam chế riễu thật đau.

Muhsam là kẻ thù chính trị trước tiên của Hitler cho nên khi Hitler lên nắm chính quyền, thi sĩ Muhsam tự nhiên là nạn nhân chính trị trước tiên của đảng quốc xã, chết thảm trong trại tập trung.

Người thứ hai mang tên Vladimir Ulianov, dân Nga, ngày nào cũng tụ tập một số bạn hữu bàn bạc to nhỏ tại quán Schwabinger số 41 Leopold Strasse, dáng nhỏ nhắn vai tròn chừng 30 tuổi, nét mặt đanh thép. Đó là Lenine. Tờ Tin Lửa (Iskra) danh tiếng thành lập tại Munich để bí mật chuyển về Nga. Cũng tại đây, Lenine đã viết tập sách căn bản cho chủ nghĩa Leninisme, cuốn “Que faire?”.

Lenine lưu ngụ ở Munich gần hai năm, nhà số 106 đường Schleissheimer trong khi Hitler nhà trọ số 34.

Ngoài ra, có tổ chức chính trị hoạt động mật qua những nghi lễ đượm màu huyền bí và rất cuồng tín là nhóm Ludvig Klages, Fridrich Gundol, Alfred Schuler, Goerg Stefan. Tổ chức này trên bàn thờ treo chữ vạn tức dấu “swastika” tượng trưng cho chữ thập cổ truyền của tôn giáo Đức. Chữ vạn ấy thành dấu cờ quốc xã sau này.

Ở Munich, Hitler say sưa đọc tác phẩm đang gây bàn tán sôi nổi cuốn “The decline of the West” (Sự sa đọa của Tây phương) do tác giả Oswald Spengler viết năm 1912. “The Spengler” lịch sử diễn tiến bằng quy tắc sinh vật học, những hệ thống văn hóa chỉ là những tế bào nẩy sinh ra trưởng thành rồi tàn lụi qua từng chu kỳ sinh trưởng như loài sâu bọ, thú vật và nhân loại. Lịch sử không tiếp tục tiến bộ, cải thiện mãi mãi nó xoay quanh vòng tròn hủy diệt. Văn minh Tây phương hiện đang trong thời kỳ của chu kỳ hủy diệt và sẽ bị hủy diệt bằng xung đột bạo lực rồi loài người đông đúc trở về với thời kỳ của những Cesars, tôn sùng chủ nghĩa Cesarism để thần phục một người anh hùng lãnh đạo. Hilter tìm thấy ở Spengler lý thuyết về chủng tộc về giòng máu huyết thống.

Đem Spencler kết hợp với tư tưởng Karl Lueger, cựu thị trưởng thành Vienne, chính trị gia xã hội Do Thái mà Hitler rất khâm phục, Hitler đã tạo cho mình chủ trương chống Do Thái rồi hùng biện:

“Tên Do Thái tóc đen kia nằm rình rập với đôi mắt cú vọ để quyến rũ cô gái, để đem vào cơ thể cô mầu máu lang chạ ngoại lai. Bọn chúng đã tìm đủ cách phá hoại gốc gác dòng giống bị chúng thống trị. Kế hoạch của chúng trước hết là làm hư đàn bà con gái, đạp đổ, ngăn cách phân biệt giữa chúng với dân tộc khác. Bọn Do Thái phải chịu trách nhiệm về việc đã đem giống mọi đen vào giang sơn Đức trong lành với mục tiêu biến Đức thành dân tộc lai hoang thấp văn hóa, đê tiện chính trị cho chúng dễ bề thống trị.

Bao lâu nay tiềm tàng trong thâm tâm người Đức nỗi đau nhục chủng tộc. Bây giờ Hitler khơi lên, dân Munichois reo mừng tán thưởng.

Bằng những cuộc tranh luận, bằng diễn văn, bằng mạn đàm, Hitler vọt thành một nhân vật. Nếu Vienne sua đuổi tàn nhẫn bao nhiêu thì Munich nồng nhiệt ân cần đón tiếp Hitler bấy nhiêu. Bởi vậy, cho đến lúc chết, Hitler vẫn hướng về Munich.