Chương 19 HITLER: NHÀ ĐỘC TÀI
Ý muốn của Lãnh Tụ tối cao tức
là Hiến Pháp của chúng ta.
HANS FRANK
Hạ 1938, Hitler 50 tuổi, sự nghiệp thành công tột đỉnh. Tuy nhiên, hình vóc không mấy thay đổi, vẫn đanh thép nét cục mịch với mái tóc xòa xuống che nửa vầng trán, hàm râu bản chải cứng như rễ tre nằm giữa mép, vẫn một tính tình khá kỳ cục.
Bề ngoài, Hitler mang dáng dấp của một dân giả bình dị gần gũi chớ không cao sang, nhưng bộ mặt thì luôn luôn biến, lúc tươi cười dễ thương, lúc hung dữ sáng quắc, lúc lạnh lùng trầm mặc, lúc chua chát, lúc khinh bạc.
Miệng lưỡi là sức mạnh đưa ông lên nắm chính quyền chẳng những nó ảnh hưởng với quần chúng mà còn ảnh hưởng đối với bản thân ông. Hitler nói không ngừng, càng nói thì tư tưởng mới lạ hấp dẫn càng tuôn ra. Hitler thường bảo: “ Lời nói là những chiếc cầu đưa ta vào những vùng chưa khai thác” (Les mots jettent des pints vers des régions inexplorees)
Hitler không thích tranh luận hay phê bình, ông ưa độc thoại, hễ tranh luận là ông mất ngay bình tĩnh rồi la hét ầm ỹ mà đàn áp đối phương.
Theo Hitler nói là để ném súc động vào lòng người chứ không để rỉ rả phân tích. Tỉa tót lý luận sẽ làm giảm sức mạnh của quyền lực hùng biện. Ông ghét nói như một người trí thức, nói cho quần chúng rộng lớn tình cảm bản năng là quan trọng.
Làm thế nào cho quần chúng nghiến răng phẫn nộ vòng tay nhau quây thành một lực lượng mạnh như sóng cả. Nếu cứ chạy lăng xăng như con gà trong sân thì khá chẳng khác gì thổi sóng dâng lên. Bởi thế, bọn trí thức không bao giờ có khả năng dựng sử vì họ chỉ là những chiếc cột chống đỡ tòa nhà tập thể mà thôi.
Hitler có tài chụp nhanh hơn kẻ địch những điều kiện thuận lợi của thời cơ mới, nhờ vậy ông kiến tạo lực lượng chính trị qua tâm trạng tủi nhục và thù hận của dân Đức. Ông lại thấy ngay nỗi e sợ hoang mang của Anh-Pháp trước đe dọa cộng sản và chiến tranh, ông nhìn thấu lòng sĩ quan tướng lãnh quân đội Đức để đi từ o bế đến khuất phục, ông giảo quyệt bám lấy thế hợp pháp để chặn những đòn độc của địch thủ.
Ngôn ngữ Đức có danh từ “Fingerspitzge fulil” nghĩa là đúng lúc (timing) hay cổ học Trung Quốc gọi là “thời trung”.
Hitler hành động rất đúng lúc kể cả vụ đảo chánh bất thành 1923.
Hitler nói với Rauchsning trong một lần chuyện vãn:
“Bất cứ anh định làm gì khi tư tưởng chưa chín thời cơ chưa đến, anh không thể nào thực hiện được. Trong trường hợp này chỉ còn một điều cần phải làm là: nhẫn nại chờ đợi rồi thử lại và chờ nữa. Công tác, hoạt động sẽ ăn vào tiềm thức tư tưởng già dặn”.
Ông thường trầm xuống mỗi khi thấy hành động có vẻ quá sớm.
Ông đắn đo lúc ra ứng cử tổng thống nhưng ông lẹ như con cắt khi xua quân vào Rhenanie.
Chiến lược đấu tranh, chiến tranh của Hitler thu gọn vào chữ bất ngờ (surprise), ông luôn luôn đánh bất thần, đánh lúc kẻ địch không hề chuẩn bị hoặc không hề ngờ rằng bị đánh, và đánh thật mau.
Chưa có chế độ nào từ trước tới giờ chú ý đến những động lực tâm lý như chế độ Quốc Xã.
Hitler xứng đáng là bậc thầy của nghệ thuật gây xúc động quần chúng. Đứng xem hay tham dự mít tinh, diễu hành quốc xã, cảm giác hoàn toàn bị mê hoặc thần kinh căng thẳng hàng trăm ngàn người, hàng trăm ngàn lá cờ, hàng triệu bước chân đều tăm tắp và hùng dũng theo điệu nhạc ầm ầm cuốn lên như lớp lớp sóng thần, đuốc thắp sáng rực rỡ, đèn chiếu lên trời thành những cột trụ khổng lồ. Giữa lúc ta cảm thấy bị thu nhỏ lại trước cảnh trí oai nghiêm vĩ đại thì đại lãnh tụ xuất hiện.
Hitler kết hợp tuyên truyền với khủng bố. Kết hợp sự dàn cảnh rầm rộ nuốt hồn người với đôi mắt hung dữ của mật vụ Gestapo, với trại tập trung khi đã bước vào là hết ngày ra.
Chỉ có Hitler mới khai thác đến tận cùng sự kết hợp trên vì ông trên không chằng, dưới không rễ, không thân thích, không gia đình, không ràng buộc, không truyền thống họ hàng, không tín ngưỡng, tôn giáo. Do đó, ông nhìn mọi vấn đề một cách dứt khoát đơn giản. Hitler nói với một ký giả Pháp:
“Thiên hạ vẫn bảo sở dĩ tôi thành công là vì tôi đã tạo ra được một huyền thoại hoặc là vì tôi gặp nhiều may mắn. Vậy tôi nói lên cho ông biết cái gì đã dẫn tôi đi và tôi đã tới đâu? Nước tôi, các vấn đề chính trị thực rắc rối phức tạp. Đai đa số dân chúng tôi không hiểu nổi cho rõ ràng. Trong trường hợp này, tốt hơn hết là để cho các tay chính trị nhà nghề làm việc gỡ rối. Còn tôi thì dứt bỏ mọi rườm rà làm sao cho các vấn đề trở nên đơn giản, nhờ thế mà quần chúng hiểu và họ theo tôi”.
Hitler là hiện thân của ý chí quyền lực thuần túy, tàn nhẫn, khát vọng chế ngự và quyền binh. Không giống như Lenine, hay Robespierre hiện thân chiến thắng quy tắc.
Nguyên tắc của Quốc Xã là quyền lực. Hitler vốn khắc khổ, thành tín nên chẳng ham lợi lộc do quyền binh mang đến như Goering. Ông chỉ sống với mộng tưởng to tát làm sống dậy nước Đức, làm quốc tế phải nể sợ nước Đức.
Hitler thù hận dai dẳng, ông dùng quyền binh để trả oán dĩ vãng, cái dĩ vãng ở Vienne, Munich mà ông bị khinh miệt. Ông trở thành con người ưa nịnh, cần được vuốt ve lòng kiêu hãnh dồn nén, bị hắt hủi trong thời kỳ lay lắt bơ vơ, sống bằng bát cháo thí, mẫu bánh mì ôi của tu viện. Vì thế sau này, Hitler mới viết chúc thư đặt Martin Bormann, một tên thầu dốt nát, thô lỗ nhưng giỏi nịnh nọt làm người kế vị để lãnh đạo đảng.
Trên miệng ông luôn luôn có danh từ nghị lực và ông bảo vệ hai tiếng đó trong từng chi tiết nhỏ. Tại phòng làm việc đeo kính nhưng ra đám đông thì không. Gọng kính trên mặt đối với ông là một biểu hiện yếu đuối, tàn nghị lực.
Hitler rất sợ giấy tờ, trật tự hành chánh để giải quyết việc này, ông giao toàn trách nhiệm cho Hess và Bormann. Lộn xộn là kết quả của chất văn nghệ nằm nép trong người ông. Đối với văn nghệ thì ông lại ưu gò vào khuôn khổ, do đó mà thất bại.
Hitler say mê nghệ thuật cổ điển và ghét thậm tệ nghệ thuật mới. Có lần Heinrich Hoffmann cho treo trong dinh những bức họa của họa phái mới như Chagall, Leger, Cesanne, Matisse v.v… ông cáu lên bắt bỏ ngay và cho thay thế vào đấy những bức họa cổ thời Hi Lạp, La Mã của họa phái Lãng Mạn (Romantisme).
Bên cạnh say mê chính trị, Hitler có một say mê khác là kiến trúc. Ông muốn biểu hiện sức mạnh đế quốc tam Reich vào kiến trúc như La Mã xưa. Ông muốn xây cất lại Bá Linh, Munich, Nuremberg và nếu có thể tất cả thành phố lớn của Đức.
Lúc ở Munich, ngày nào ông cũng tới nơi làm việc của kiến trúc sư Troost cả giờ đồng hồ để bàn luận. Troost chết, Hitler mời Albert Speer (sau này làm bộ trưởng bộ vũ khí). Cho đến khi ông thở hơi cuối cùng, Hitler được phút rãnh rỗi là đem ra ngắm nghía những đồ án kiến trúc do Troost và Speer làm, một số đồ án đó theo ý phác họa của Hitler.
Hitler khoái xem chiếu bóng nhất là những phim có Greta Grabo.
Từ tấm bé, Hitler được giáo dục trong tín ngưỡng công giáo, tổ chức giáo hội, đức tin và cách khuyến dụ để lãnh đạo tâm lý của công giáo ảnh hưởng đến tư tưởng của Hitler nhiều lắm và ông đã áp dụng chúng vào việc lãnh đạo đảng. Tuy nhiên, Hitler không phải là người ngoan đạo. Theo ông, công giáo là một tôn giáo của bọn nô lệ, nó ngược hẳn với luật chiến đấu của thiên nhiên dành sự sống cho kẻ mạnh, chỉ kẻ mạnh mới có quyền sống. Ông nói: “Nếu lý luận đến tận cùng thì Kitô giáo là một hệ thống tư tưởng về sự thất bại của con người”.
Ông quan niệm rằng tôn giáo với lý lẽ riêng là hãy dẹp hết bọn tăng lữ, tu sĩ đi để chỉ tin vào một thượng đế. Vì thế, ông chê chế độ Sô Viết Nga:
“Bọn Nga có quyền hủy diệt các tu sĩ cha cố nhưng không có quyền hủy diệt tín ngưỡng vào một sức mạnh siêu việt”. (Les Russes avaient le droit de détruire leurs prêtres mais non la Foi en une force suprème).
“Kẻ nào không mang một ý niệm về lịch sử kẻ đó là người không có tai có mắt”/
Hitler bảo bạn bè đồng chí như vậy.
Đi học, Hitler chỉ chú ý vào môn lịch sử, hiểu biết về lịch sử Âu Châu của ông khá rộng. Có thể nói toàn bộ tư tưởng Hitler đều chịu ảnh hưởng lịch sử.
Đọc Spengler, ông suy nghĩ về sự sụp đổ của những nền văn minh. Thế kỷ 19, văn minh Âu Châu đang đi tới chỗ sụp đổ. Tương lai sẽ vào tay ý thức hệ “Do Thái Bôn Sê Vich” nếu Âu Châu không được ý thức hệ chủng tộc Quốc Xã cứu vớt. Cái thứ tư tưởng Tự Do lảm nhảm chẳng làm gì được hết. Không thể dùng tranh biện mà chiến thắng ý thức hệ “Do Thái Bôn Sê Vich”. (Bôn Sê Vích = Bonsevich:Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga )
Chủ nghĩa chính trị Quốc Xã, ông cho xây dựng trên ba nguyên tắc cơ bản:
1) Đấu tranh dành sống là mẹ của mọi sự vật.
2) Máu đấu tranh là phẩm hạnh
3) Đức tính người lãnh đạo đấu tranh là kiên quyết.
Sức mạnh là luật tối thượng.
“Trước thượng đế, trước thế giới loài người, chỉ có kẻ mạnh mới có quyền thực hiện điều mình muốn. Lịch sử đã chứng minh, thiếu sức mạnh thì quyền nào cũng vô ích (Toujours devant Dieu et devant le monde le plus fort a le droit de réaliser sa volonté. L’histoire le prouve a celui qui n’a pas la force le “droit en lui-même” ne sert a rien du tout).
Nguồn sức mạnh là lòng tin tưởng mãnh liệt vào chủng tộc. Chủng tộc cao quý có quyền ngược đãi chủng tộc thấp hèn. Chủng tộc Đức có quyền cai trị chủng tộc Slaves (Nga) ngu tối, cai trị giống Pháp sa đọa. Vì vậy, ông lệnh cho Himmler phải lựa chọn giống người Aryen không những ở Đức mà còn những nước khác nữa. Ông nói:
“Quan niệm quốc gia hẹp hòi nay đã mất hết ý nghĩa, chúng ta hãy từ bỏ quan niệm sai lầm đó để thay thế bằng quan niệm chủng tộc. Trât tự mới không thể hạn chế quanh quẩn trong làn ranh biên giới quốc gia của những dân tộc có quá khứ lịch sử mà phải quan niệm bằng lý lẽ chủng tộc vượt lên cao khỏi các vấn đề quốc gia vụn vặt. Tôi biết lắm, dưới nhãn quan khoa học thì không làm gì có vấn đề chủng tộc, nhưng nhà nông khó lòng thành công với công cuộc chăn nuôi. Còn tôi, là nhà chính trị, tôi cần một quan niệm khả dĩ giúp tôi đạp đổ trật tự mà cho đến nay nó vẫn đứng trên cơ sở lịch sử và cho nó một cơ sở trí thức. Trong mục tiêu trên, quan niệm chủng tộc thật là cần thiết đối với tôi. Nước Pháp đã lãnh đạo cuộc cách mạng lớn tràn ra ngoài biên cương. Pháp nhờ ở quan niệm dân tộc.
Với quan niệm chủng tộc Quốc Xã chủ nghĩa sẽ phát triển cách mạng ra nước ngoài để xây dựng lại thế giới. Tôi cho tiến hành công tác chọn giống tại Âu Châu như chúng tôi đã làm trên đất Đức. Những phần tử cao quí, hăng say chiến đấu ở các quốc gia sẽ nhất loạt nổi dậy để bắt bọn cầu an hiếu hòa, bọn con buôn tính toán, bọn đầu cơ thủ sảo phải qui phục…”
Đấy là lý lẽ mà nhà độc tài Hitler biện minh cho chính sách xâm chiếm của ông. Tuy nhiên, trong thâm tâm, ông thành thực tin vào lý lẽ đó. Ông giải thích:
“Quốc Xã không đặt căn bản lý thuyết cùng quyết định trên cá nhân hay nhân đạo. Trong tâm, tư tưởng Quốc Xã là Volk (chủng tộc). Lòng tham vị kỷ cá nhân đều bị tiêu hủy để đưa mọi người vào thứ vị kỷ tập thể của chủng tộc thiêng liêng. Đảng, nhà nước, quân đội, cơ cấu kinh tế, hành chánh, công lý chỉ là thứ yếu có nhiệm vụ bảo vệ cho Volk. Ngày nào chúng làm tròn nhiệm vụ thì chúng còn có ích. Ngày nào chúng thất bại với sứ mạng thì chúng sẽ trở thành nguy hại cần loại trừ ngay để thay thế bằng những phương tiện hiệu lực hơn.”
Khi suy tư về chính trị, Hitler hình dung chế độ Quốc Xã hệt như một tổ chức Quân Đội.
Quốc gia đối với ông là một công cụ quyền lực mà phẩm chất căn bản của nó là kỷ luật, hy sinh và thống nhất. Lãnh tụ quốc gia đặt trên nguyen tắc tư lệnh quân đội.
Dưới mắt Hitler, chế độ dân chủ có lầm lỗi lớn là phó mặc quyết định cho đa số vô danh, như vậy, khác gì đề cao vô trách nhiệm và khuyến khích. Chế độ đa đảng, quyền tự do phát biểu, tư do báo chí làm hại sự thống nhất quốc gia thành một khối. Tranh luận là lắm thầy thối ma.
Ông nói với thanh niên:
“Chúng ta cần phải học bài học của chúng ta. Chúng ta hãy có một ý chí duy nhất hình thành một khối duy nhất, một kỷ luật duy nhát, một phục tòng duy nhất bởi vì bao trùm lên chúng ta là Quốc Gia”.
Hitler muốn quyền uy của mình tuyệt đối hơn cả Staline, Mussolini, Napoléon nên ông tìm cách vô hiệu hóa hết thẩy các cơ chế chống lại ông trong tình trạng nguy biến bằng cách cho thiên hạ tin rằng uy quyền của ông có gốc rễ từ nhân dân, chế độ độc tài của ông là do dân bầu, dân muốn. Ông nói:
“Ở nước Đức, nhân dân không sống trong sự đe dọa của lưỡi lê. Ở đây, chính phủ được lòng tin của toàn dân. Mười lăm năm, tôi đã mở đường nhờ lòng tin cậy đó. Không ai áp đặt nhân dân điều gì.Tôi sinh ra từ nhân dân, tôi đứng trong hàng ngũ nhân dân và tôi sẽ trở về với nhân dân. Tôi rất tự hào rằng trên thế giới chưa có chính khách nào hơn tôi vì tính chất đại biểu cho nhân dân”.
Hitler thù hận chủ nghĩa mác xít, ông cho rằng lý thuyết đấu tranh giai cấp và đoàn kết giai cấp công nhân quốc tế đe dọa ghê gớm cho sự thống nhất dân tộc Đức đặt trên nền tảng “Volk”. Bởi vì mục tiêu tối hậu của chính sách Quốc Xã là xây dựng một xã hội thực sự không có giai cấp. Ông nói:
“Khẩu hiệu: “Vô sản chuyên chính, giản đơn chỉ là một đòi hỏi đem chuyên chế của giai cấp này thay chuyên chế của giai cấp khác. Chúng ta không muốn như vậy. Chúng ta muốn một nền chuyên chính của toàn bộ tập thể. Chỉ có thế chúng ta mới làm cho hàng triệu đồng bào tin tưởng chính quyền không phục vụ riêng cho quyền lợi một giai cấp và chính phủ là để bảo vệ quyền lợi của toàn bộ tập thể”.
Đối với Hitler, giống Aryen cao quí bao nhiêu thì giống Do Thái tồi tệ bấy nhiêu. Ông đổ hết các thứ tội lên đầu Do Thái. Dân chủ là cho bọn Do Thái đề cao cốt để Do Thái bí mật thống trị. Bôn Sê Vich, chủ nghĩa tư bản, nô lệ vay lời, chủ nghĩa nghị hội, chủ nghĩa quốc tế, đấu tranh giai cấp, Thiên Chúa giáo, nghệ thuật mới, đĩ điếm, lai giống tất cả đều là công cụ do Do Thái phát minh để làm ô uế giống Aryen. (Le Juif est le ferment de décomposition des peuples).
Bọn Do Thái không hề xây dựng một nền văn minh nào hết nhưng chúng lại phá hoại được khá nhiều. Bọn Do Thái không có khả năng sáng tạo, cái gì chúng có đều do chúng ăn cắp. Chúng bắt thợ thuyền dân nước khác xây đền đài. Bọn Do Thái không có nghệ thuật riêng, chúng ăn cắp chỗ này chút ít, chỗ kia chút ít.
Rút cuộc, chúng lại không có luôn khả năng bảo tồn những gì chúng ăn cắp. Vì không có khả năng nên chúng mới cổ động cho cách mạng quốc tế. Chúng dùng cách mạng quốc tế theo tác dụng của bệnh dịch hạch để tàn phá. Chúng vừa giết chết dân tộc Nga rồi, bây giờ muốn quay sang Đức để đục rỗng tinh thần quốc gia Đức và làm bẩn dòng máu Đức.