← Quay lại trang sách

Chương 23 LUẬN VỀ CÁCH MẠNG QUỐC XÃ

Tinh thần nước Đức là con ó dũng

mãnh với đôi cánh lớn đưa cái

cơ thể nặng nề của nó bay vọt

lên cao, lên cao mãi cho đến tận

mây xanh, đến tận mặt trời sáng

chói mà nó vẫn mê say ngắm nhìn

JOHAN GOTTLEIB FICHTE

Đại hội quốc tế cộng sản lần thứ 4 họp ngày 5 tháng 11-1922 tại Petrograd, vấn đề chủ yếu được mang ra bàn thảo là nguy cơ phát xít đe dọa chủ nghĩa quốc tế cộng sản. Người đứng thuyết trình là Radek. Ông nói:

“Bọn phát xít hiện nay không những đã thành lập nhiều tổ chiến đấu phản cách mạng, chúng còn đưa ra chính sách xã hội mị dân để gây cơ sở quần chúng trong các giai cấp nông dân, tiểu tư sản và ngay cả thành phần vô sản nữa, chúng khéo che đậy tính chất phản cách mạng bằng những phỉnh gạt quốc gia dân tộc…

… Nguy cơ phát xít đang lan tràn khắp vùng Ba Nhĩ Can, nhất là Tiệp Khắc, Ba Lan, Đức, Áo, Hoa Kỳ, thậm chí cả Na Uy nữa, dưới hình thức này hay hình thức khác rồi đây chủ nghĩa Phát Xít có thể xâm nhập cả Anh – Pháp.

Nhiệm vụ hàng đầu của các đảng cộng sản là phải tổ chức cuộc đề kháng chống bè lũ phát xít quốc tế…”

Rồi Radek kết luận:

“Bè lũ phát xit tay sai của tư bản”.

Vì sao mà Radek la lối đến thế? Vì Mussolini vừa đè bẹp cộng sản để chiếm chính quyền Ý, nơi mà cộng sản đặt hy vọng hơn hết.

Mussolini là lãnh tụ đảng sơ mi đen phát xít, đảng hiệu là nhưng cây cũi quấn chặt thành một bó, chung quanh cái rìu đốn củi mang một ý nghĩa của sự thống nhất dưới sự lãnh đạo của một chính quyền mạnh.

Phát xít là gì?

Nếu muốn nói đủ gốc nguồn của nó cần phải cả một cuốn sách, ở đây xin trả lời vắn tắt như sau:

Năm 1919, Mussolini thủ xướng vận động chủ nghĩa quốc gia Ý đặt tên cho tổ chức là: “ Những người phát xít đấu tranh” triệu tập đại hội ở Milan.

Năm 1921, tổ chức lớn lên biến thành đảng phát xít có trụ sở tại Rome và triệu tập đại hội lần thứ 2, chế định cương lĩnh đảng, đại hội cử hành tại Napoli. Theo cương lĩnh đó chủ nghĩa phát xít không thuộc tư bản chủ nghĩa cũng không phải là xã hội chủ nghĩa. Phát xít muốn xây dựng cơ hội trên ý nghĩa thuần túy quốc gia dân tộc, không chấp nhận thể chế dân chủ sa đọa, hỗn loạn.

Năm 1922, Mussolini lên chấp chính, dùng cường lực áp bức, tiêu diệt, và phản đối đảng. Đặc tính của phát xít là:

- Tuyệt đối độc tài, lấy ý chí cá nhân chi phối đại đa số, lấy bạo lực khủng bố, tiêu diệt mọi phản đối.

- Chối bỏ sự tồn tại của giai cấp trong xã hội, chối bỏ lý luận đấu tranh giai cấp, chính quyền phát xít cấm công nhân bãi công, cấm tổ chức nghiệp đoàn công nhân.

- Cực đoan bảo thủ, bài ngoại, gìn giữ quốc hồn quốc túy, chống văn hóa ngoại lai.

- Tiến hành chính sách mở mang bờ cõi, tìm đất sống cho dân tộc, trở thành đế quốc chủ nghĩa.

- Đạo đức phát xít là bạo lực, anh hùng chủ nghĩa chống tự do dân chủ, chống giai cấp đấu tranh, chống cộng sản chủ nghĩa.

Năm 1923, tại Munich, Hitler muốn theo gót Mussolini làm “cú putsch” nhưng thất bại, vào nằm tù viết “Mein Kampf”, chịu nhiều ảnh hưởng của tư tưởng phát xít, tuy nó vẫn giữ mầu sắc Đức, tỉ dụ chống chủ nghĩa Mác Xít là chống lý thuyết của tên Do Thái Karl Marx phá hoại quốc gia, chống đường lối kinh tế, tước bỏ quyền tư hữu và chống quan niệm lịch sử thuần túy kinh tế và duy vật. Tỉ dụ chống nghị hội chủ nghĩa là chống tình trạng vô trách nhiệm cẩu thả của bọn người tưởng là đại biểu dân, dựa vào quyền bất khả xâm phạm mà quyết định bừa bãi, tham nhũng thối nát, tư túi nâng đỡ lẫn nhau.

Có thể nói chủ nghĩa Quốc Xã (Nazisme: kết hợp bởi 2 chữ National – Socialisme) gốc gác của nó là chủ nghĩa Phát Xít.

Sau này, khi phe Trục thành lập, báo chí gọi chung Đức – Ý – Nhật là Phát Xít.

Do nguyên nhân nào cộng sản quốc tế qua lời Radek gọi phát xít là tay sai tư bản? Trong khi trên cương lĩnh phát xít và quốc xã đều có những điều khoản chống bọn tài phiệt quốc tế.

Đọc ở trên độc giả thấy rõ phong trào quốc xã kể từ lúc còn trứng nước dưới hình thức đoàn nón sắt (Stahelm) và nghĩa binh (Freikorps) đã có sự giúp đỡ của giới kỹ nghệ gia giầu có của Đức. Lúc thành Đảng Quốc Xã với lực lượng hàng triều người rồi, có ít nhất là ba lần, quốc xã khánh tận về mặt tài chính, đã hồi sinh nhờ tiền của Thyssen, Krupp… Bảo là tay sai thì không đúng nhưng bảo là lá bài thì đúng hơn.

Hitler đã ngược hẳn với Gregor Strasser dùng lá bài mà tài phiệt ném xuống để đưa quốc xã vào chính quyền. Suốt quá trình liên kết lợi dụng lẫn nhau, tư bản chẳng ưa Hitler, trái lại Hitler cũng chẳng ưa gì tư bản. Họ chỉ là những bạn đường giai đoạn.

Chủ lực quốc xã không phải là giai cấp vô sản và đương nhiên không phải tư bản. Những người nồng nhiệt và những đảng viên toàn là thành phần bị hắt hủi sống không tương lai, đa số là binh lính giải ngũ, tiểu tư sản thành thị, trí thức thất nghiệp, Hitler là con người hội đủ cả ba hình dáng đó.

Thế lực tài phiệt Đức ủng hộ quốc xã nhằm hai mục tiêu: một là dựa trên tính tự dân tộc mà quốc xã đã gây được để tái lập thế tư bản dân tộc chống sự đàn áp của thế lực tư bản ngoại quốc kể từ ngày Đức thua trận; hai là dùng quốc xã làm con đê ngăn phong trào bôn sê vích tràn ngập với sự đồng tình của tư bản ngoại quốc.

Quốc Xã có phải là thế lực phản cách mạng như Radek nói về Phát Xít chăng?

Để trả lời, xin mở lại trang sử nước Đức sau đệ nhất thế chiến lúc Quốc Xã bắt đầu gây được ảnh hưởng trong quần chúng nhân dân.

Ký giả ngoại giao Pháp, ông Paul Ferdonnet viết:

“Chuyện xảy ra vào 1930 tại góc phố, một xác đảng viên quốc xã nằm sóng sượt giữa đường, ngực đầy máu, hắn vừa bị cộng sản cho ăn đạn. Sáng ra, tuyết còn phủ trắng, màu đỏ còn thắm hơn. Trên cành cây, những dây hoa bằng giấy còn lơ lửng phất phơ, mặt vỉa hè ngổn ngang chai rượu vỡ, gió thổi làm văng những mặt nạ và tất cả những gì còn lại sau một đêm ăn chơi, hội hè trác táng. Kẻ nào chết cứ chết, kẻ nào phè phỡn cứ phè phỡn. Rồi xác người sẽ được mang đi như những đống rác được phu hốt rác dẹp gọn.

Bá Linh tráng lệ với những đại lộ huy hoàng, với những công viên đầy hoa rực rỡ cho ta cảm tưởng Đức giầu có lắm, hùng cường lắm. Khí trời, ánh sáng, tiếng cười đùa rộn rã hòa hợp đã tăng vẻ đẹp cho Bá Linh.

Thế nhưng, đằng sau những lớp vỏ huy hoàng, rực rỡ đó là một thế giới khác đen tối và bần cùng. Hành khất chật đường phố nhỏ hẹp, kêu than nằm bờ nằm bụi. Ở thế giới này, sinh hoạt chính trị thật sôi động. Từng đoàn xe, chiếc cắm cờ đỏ có ngôi sao Sô Viết, chiếc cắm cờ chữ Vạn chạy rầm rầm, máy phong thanh la hét. Trẻ em chơi đùa bên cống rãnh bùn nhơ hôi thối, thợ thuyền thất nghiệp hàng đàn, cứ một trăm người lại có 40 người mang bệnh lao, đã từ lâu họ chỉ ăn một bữa mỗi ngày. Thang máy ọp ẹp, cửa sổ mối mọt ăn rỗng, gian buồng chừng 10 thước vuông mà bẩy tám người ở, chuột bọ chạy tứ tung.

Đàn ông lang thang kiếm việc làm, đàn bà hy vọng đời sống đỡ đói khổ, toàn thể dân Bá Linh cũng như toàn dân Đức bị cùm kẹp bởi dây xích nặng nề của các vấn đề xã hội, nước Đức chìm ngập trong thảm kịch”.

Thảm kịch kinh tế, đạo đức nhân phẩm và tinh thần trí thức.

Trước hết, sức mạnh của nền kinh tế Đức nhờ tay kinh tế gia Friedrich đã chuyển nó từ một nền kinh tế tranh thương nhỏ mọn giữa cá nhân với cá nhân trở thành một nền kinh tế quốc gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Kỹ nghệ gia họp lại, tổ chức những liên danh si nghiệp (cartel) khống chế thị trường quốc nội, mặt khác tạo khả năng xuất cảng bán sang thị trường quốc ngoại với giá thật rẻ. Sức mạnh ấy nay sụp đổ bởi thua trận.

Do hòa ước Versailles, Đức mất 14% đất đai cầy cấy, 46% kỹ nghệ than đá, 27% kỹ nghệ đúc thép, 74% khoáng sản.

Năm 1919, hơn 2000 cây số vuông miền đông Phổ với 140.000 dân bị cắt trả cho Lithuanie, hơn 100 cây số vuông với 24 ngàn dân trả cho Ba Lan, miền tây Phổ và cứ tương tự như thế, lãnh thổ Đức bị cắt trả cho Pháp, Anh, Bỉ ấy là chưa kể đất đai thuộc địa của Đức tại nhiều nơi.

Nào chỉ có vậy thôi đâu, Đức còn bồi thường trả nợ chiến tranh. Khủng hoảng kinh tế hẳn là khủng khiếp.

Năm 1923, nạn lạm phát đồng “mark” lên cực độ, một quan Pháp ăn 228 triệu đồng mark.

Khủng hoảng kinh tế kéo dài kéo theo khủng hoảng đạo đức, tinh thần và trí thức. Với 13 triệu gia đình không công ăn việc làm, sống tạm bợ bám vào sự cấp đỡ của chính phủ của một quốc gia nợ nần, khốn khó. Vô công rồi nghề, đói khat gây sáo trộn cho nếp sống cần kỷ cương, lành mạnh.

Người cha trong gia đình bị trẻ coi rẻ dúm. Thanh thiếu niên mất dạy tụ họp phá phách, trộm cắp điếm đàng mỗi ngày mỗi đông, ngoài đường hút sách, làm đĩ và truyền bá bệnh tình.

Cả mấy chục ngàn sinh viên ra trường không ai thuê mướn, nếu không rơi vào sa đọa thì đám sinh viên chỉ còn hai con đường gia nhập đảng cực tả hay cực hữu. Cực tả là chiến tuyến đỏ (Rot Front) từ Nga sang, cựu hữu là tổ chức phát xít từ Ý tới tức đảng Quốc Xã.

Toàn dân nhớ thời oanh liệt xưa của nước họ giữa lúc mà họ tin rằng Đức nắm chắc sự thắng trận thì đột nhiên, ngày 11 tháng 11 – 1918 Đức hạ khí giới xin hàng mà không hề thua đậm trên mặt trận nào chỉ biết Đức đã kiệt quệ. Từ đấy, tổ quốc nhục nhã, dân chúng lầm than. Chính phủ dân chủ xã hội thường tự hào với danh nghĩa cách mạng tháng 11 nay bị dân chúng coi như lũ sát nhân tháng 11.

Số người thuộc thành phần lãnh đạo trước đây rơi từ trên cao xuống vực thẳm, nghèo hèn tủi hổ, giới trung lưu thất vọng, giới tiểu thương hết vốn, phần tử trí thức không tương lai, thợ thuyền thất nghiệp, quân nhân giải ngũ bơ vơ. Tất cả đều tự hỏi phải chăng dân tộc Đức bị đóng dấu vào mặt như lũ gia súc?

Tại sao Đức lại bị phân chia? Tại sao Đức lại không có quyền vũ trang? Tại sao cả chục triệu người sống vất vưởng cơm thiếu áo rách?

Tất cả đều chẳng muốn nghe lời giải thích nhàm tai, nào bồi thường chiến tranh, nào thất trận v.v… Cái khối người gần 20 triệu phản kháng số phận đau thương của họ bằng cách di bỏ phiếu ồ ạt cho những khuynh hướng cực đoan, cho cộng sản hoặc cho quốc xã, dần dần quốc xã vượt hẳn cộng sản vì quốc xã rõ ràng hơn dứt khoát, hơn với ngôn ngữ mạnh bạo cả quyết đang cần cho một dân tộc khổ ải và muốn sống vươn lên.

Cả thế hệ tuổi trẻ bần cùng căm hờn tư bản và thù nghịch dân chủ. Lý luận, triết lý dân chủ đối với họ là thứ triết lý lý luận ươn hèn, bất lực và trống rỗng.

Những khẩu hiệu: Tự do – Công ăn việc làm – Bánh ăn (Freiheit – Arbeit und Brot) không còn hấp dẫn nữa. Họ muốn một cái gì khác hơn kia đề thay đổi cuộc sống tủi nhục này. Họ muốn một lãnh tụ can trường sáng suốt hơn là nghị hội thối tha, ăn hại đái nát.

Thế hệ trẻ tâm niệm lời Goethe: “Phải thống trị, phải thắng không thì bị hủy diệt, bị nô lê. Gian khổ hay vinh quang nếu không làm búa sẽ chịu kiếp đe”.

Đa số thuộc lòng bài thơ Hammerlie của Felix Dann

Hammerlie là lời ca của cái búa:

Aussi loin que le marteau tombe

Le pays et les mers m’appartient

Nous sommes de la lignée du dieu du marteau

Et nous voulons conquerir son empire mondial.

Quốc Xã đã đưa ra thật đúng lúc bài hát: “Nước Đức thân yêu, hãy tỉnh lại!”.

Tìm về với vinh quang cho nước Đức, thế hệ trẻ bỏ đọc “Que faire?” của Lenine sang đọc “Mein Kampf” của Hitler.

Mất độc lập, dân tộc không làm chủ được vận mạng mình nữa, chỉ lều bều nổi chìm theo các biến cố do các thế lực ngoại lai điều khiển, lịch sử quốc cũng mất luôn.

Lời nói của giáo sư Johan Gottlieh Fichte trước Hàn Lâm Viện Bá Linh ngày 13 tháng 12 – 1807, nay là ngọn đuốc sáng dẫn đường cho thanh niên Đức.

Chấp nhận bôn sê vích để làm cuộc cách mạng nối gót Nga Sô thì trước sau vẫn là thế lực ngoại lai. Nước Đức cần phải có riêng một cuộc cách mạng của Đức. “Mein Kampf” và chủ nghĩa Quốc Xã cung ứng đầy đủ cho đòi hỏi đó.

Chấp nhận Hitler, chấp nhận Quốc Xã, dân tộc Đức đã kiên quyết đứng lên thay đổi vận mạng mình. Nói sao thì nói nhưng cũng không thể phủ nhận khoảng thời gian từ 1933 đến 1939, Hitler và Quốc Xã đã phục hồi uy danh nước, đã thực hiện cuộc cách mạng dân tộc Đức, phá tan cuộc sống đen tối dưới kìm kẹp của hòa ước Versailles.

Phản cách mạng là gì?

Phản cách mạng là đi ngược lại với yêu cầu phổ biến và su thế tự nhiên của thời đại. Quốc Xã đâu có đi ngược với yêu cầu phổ biến và su thế tự nhiên của dân tộc Đức lúc đó? Bản chất quốc xã không phải là phản cách mạng nhưng bản thân cách mạng quốc xã đã phạm lỗi lầm để tự biến chất thành quá khích mà đi theo con đường phản cách mạng.

Guiseppe Ferrari (giáo sư triết học Ý) chia cách mạng ra làm 4 giai đoạn:

Giai đoạn cách mạng văn hóa tư tưởng. Giai đoạn cách mạng chính trị. Giai đoạn do cách mạng chính trị quá khích gây ra phản cách mạng. Giai đoạn phần tử ôn hòa hoàn thành cách mạng.

Cuộc cách mạng quốc xã dừng lại ở giai đoạn ba rồi đánh sụm ở đó. Nhưng hành động quá thô bạo tàn ác đến nổi không còn đất để chuyển ra ôn hòa nữa.

Tòa án Nuremberg kêu án các lãnh tụ quốc xã.

- Göering : treo cổ

- Hess : tù chung thân

- Ribbentrop : treo cổ

- Keitel : treo cổ

- Kaltenbrunner : treo cổ

- Rosenberg : treo cổ

- Frank : treo cổ

- Erick : treo cổ

- Streicher : treo cổ

- Funk : tù chung thân

- Raeder : tù chung thân

- Seyess Inquart : treo cổ

- Albert Speer : 20 năm khổ sai

Tất cả các tử tội đã chết.

Albert Speer mãn tù, sống âm thầm viết hồi ký.

Tuy nhiên, chính trị phát xít không chết theo cái chết của tử tội, cũng không sống âm thầm với hồi ký. Nó hiện đang là một vấn đề thời sự.

HẾT