Chương 2
“Hoan hô! Hoan hô!” Tấm màn sân khấu khép vào mở ra tận sáu lần rồi mà tiếng vỗ tay tán thưởng vẫn vang lên ầm ĩ. Dàn diễn viên đứng xếp hàng trên sân khấu, lần lượt cúi đầu chào, nhưng khi Leigh bước tới phía trước, tiếng hoan hô vang dậy điên cuồng. Đèn trong rạp đã bật sáng và Leigh có thể nhìn thấy Logan đứng ở hàng ghế trước, vỗ tay reo hò với vẻ tự hào nồng nhiệt. Cô mỉm cười với anh và anh giơ ngón tay cái tán thưởng.
Khi tấm màn đóng lại, cô bước về phía Jason bên cánh gà, khuôn mặt anh đang rạng ngời niềm hân hoan. “Chúng ta đã thắng lớn, Jason!” cô nói, ôm chầm anh.
“Ra chào lần nữa nào, lần này chỉ có cô và tôi thôi,” anh nói.
Jason sẽ cho kéo mở tấm màn suốt đêm đến khi vị khán giả cuối cùng rời khỏi rạp mất thôi. “Không,” Leigh nói, toét miệng cười. “Cả hai chúng ta chào thế là đủ rồi.”
Anh giật giật cánh tay cô như một cậu bé ba mươi lăm tuổi hạnh phúc - xuất sắc, bất an, nhạy cảm, ích kỷ, trung thành, nóng nảy, ân cần. “Đi nào, Leigh,” anh phỉnh phờ. “Chào thêm lần nữa thôi. Chúng ta xứng đáng mà.” Đám đông bắt đầu đồng thanh ngân nga, “Nhà soạn kịch! Nhà soạn kịch!” và nụ cười của anh mở rộng. “Họ muốn gặp lại tôi thật kìa.”
Anh đang ngây ngất, và Leigh nhìn anh bằng ánh mắt hòa trộn giữa sự thấu hiểu và lo sợ của một bà mẹ. Jason Solomon có thể đôi khi làm cô sững sờ bởi trí tuệ của anh, làm cô đau khổ bởi sự thiếu nhạy cảm của anh và sưởi ấm cô bằng sự dịu dàng của anh. Ai không quen biết thường coi anh là kẻ quyến rũ lập dị. Ai hiểu anh hơn sẽ cho rằng anh là một người tự kỷ thông minh, khó chịu. Đối với Leigh, người vừa hiểu lại vừa yêu mến anh, Jason có hai tính cách hoàn toàn trái ngược nhau.
“Nghe tiếng vỗ tay kìa,” anh nói, giật giật tay cô. “Ra ngoài kia đi mà...”
Chẳng thể chống lại khi anh đang trong tâm trạng này, Leigh đành nhượng bộ, nhưng cô bước lùi lại. “Đi đi,” cô nói. “Tôi sẽ ở lại đây.”
Thay vì thả tay cô ra, anh càng siết chặt hơn và kéo cô theo. Cô bị mất thăng bằng đúng lúc hai người họ xuất hiện từ sau cánh gà, và ai cũng dễ dàng nhận thấy sự kháng cự bất ngờ của cô. Khoảnh khắc lúng túng không dự định trước lại được khán giả xem như điều tuyệt vời. Nó làm cho hai nhân vật nổi tiếng nhất trên sân khấu Broadway toát lên vẻ trần tục dễ mến, và ngoài tiếng vỗ tay huyên náo còn xen cả tiếng cười đùa hú hét.
Jason đã định cố nịnh nọt cô cúi chào thêm lần nữa, nhưng lần này Leigh kịp rút tay ra và bật cười quay đi. “Đừng quên câu châm ngôn...” cô nói với lại, nhắc nhở anh, “Luôn để kẻ khác phải thòm thèm.”
“Chỉ là lời sáo rỗng thôi,” anh bất bình cãi lại.
“Tuy nhiên lại rất đúng.”
Anh do dự một lát, rồi theo cô ra hậu trường, bước dọc dãy hành lang đang ken kín các diễn viên hoan hỉ và những nhân viên bận rộn, ai cũng cố chúc mừng và cảm ơn nhau. Jason và Leigh dừng lại vài lần để góp phần vào những cái ôm hôn chúc mừng ấy.
“Tôi đã bảo cô ngày hai tám luôn là ngày may mắn của tôi mà.”
“Anh nói đúng,” Leigh đồng ý. Jason khăng khăng đòi khai diễn tất cả các vở kịch của anh vào ngày hai mươi tám kể cả vở Blind spot, mặc dù theo thông lệ, Broadway không diễn mở màn vào thứ Bảy.
“Tôi thèm sâm banh quá,” Jason tuyên bố khi họ rốt cuộc cũng đến gần phòng thay đồ của Leigh.
“Tôi cũng vậy, nhưng tôi phải thay quần áo và tẩy trang ngay. Chúng ta còn phải dự tiệc nữa, và tôi muốn đến đó trước nửa đêm.”
Một nhà phê bình sân khấu đang chúc mừng đạo diễn, và Jason quan sát anh ta một hồi lâu. “Không ai để ý nếu chúng ta đến muộn đâu.”
“Jason,” Leigh thích thú nhắc nhở anh với vẻ kiên nhẫn, “Tôi là khách mời danh dự đấy. Tôi nên cố gắng đến đó trước khi buổi tiệc kết thúc.”
“Có lẽ vậy,” anh đồng ý, rời mắt khỏi nhà phê bình. Anh theo cô vào phòng thay đồ tràn ngập hoa, nơi một nhân viên phục trang đã chờ sẵn để giúp Leigh cởi bộ váy áo rẻ tiền cô mặc trong cảnh diễn cuối cùng.
“Ai gửi cái này vậy?” Jason hỏi, bước lại gần một giỏ phong lan trắng khổng lồ. “Chúng chắc đáng giá cả một gia tài ấy chứ.”
Leigh nhìn lướt qua giỏ hoa khổng lồ. “Tôi không biết.”
“Có thiệp nữa này,” Jason nói, tay đã vươn về phía cái phong bì của tiệm hoa. “Tôi đọc nhé?”
“Liệu tôi cản được anh không?” Leigh đùa. Tính tò mò của Jason đã thành huyền thoại. Leigh đứng sau tấm màn chắn, cởi bộ váy áo ra rồi khoác áo choàng vào; sau đó cô vội vã đi đến bàn trang điểm, ngồi xuống trước tấm gương lớn sáng đèn.
Tay cầm cái phong bì đã mở, Jason nhìn hình phản chiếu của cô trong gương và mỉm cười ranh mãnh. “Rõ ràng cô đã thu hút được một người theo đuổi cực kỳ giàu có. Thú thật đi cưng, anh ta là ai vậy? Cô biết rõ cô có thể tin tưởng thổ lộ với tôi những bí mật bẩn thỉu của cô mà.”
Câu cuối cùng của anh làm Leigh phì cười. “Cả đời anh đã bao giờ giữ được bí mật nào đâu, cho dù nó có bẩn thỉu hay không cũng vậy,” cô nhìn vào gương trả lời anh.
“Đúng vậy thật, nhưng dù sao thì cứ cho tôi biết anh ta là ai đi mà.”
“Tấm thiệp viết gì vậy?”
Jason không nói mà đưa cho cô tự đọc. “YÊU ANH,” tấm thiệp viết. Chỉ sau một thoáng cau mày bối rối, Leigh mỉm cười đặt tấm thiệp xuống bắt đầu lau chùi phấn son. “Của Logan đấy,” cô bảo anh.
“Tại sao chồng cô lại gửi cho cô một giỏ phong lan đáng giá cả ngàn đô kèm tấm thiệp yêu cầu cô yêu anh ta chứ?”
Leigh thoa đều kem lên mặt và lấy khăn giấy chùi sạch phấn son xong rồi mới trả lời. “Khi Logan đọc lời chúc cho người bán hoa viết lên thiệp, rõ ràng người bán hoa đã hiểu lầm và quên đặt dấu phẩy sau chữ ‘yêu’. Đáng lẽ ra phải là, ‘Yêu phẩy Anh’.”
Jason phát hiện ra một chai Dom Pérignon trong xô đá. “Tại sao Logan lại gọi mình là ‘Anh’ thay vì ‘Logan’ vậy?” Vừa hỏi anh vừa nhấc cái chai ra khỏi xô đá và bắt đầu tháo miếng giấy bạc đen ở cổ chai.
“Có lẽ tại tôi đấy,” cô thú nhận, liếc nhìn anh rầu rĩ. “Dự án Crescent Plaza đã vắt kiệt sức Logan mấy tháng trời rồi, và tôi đã đề nghị anh ấy nên thư giãn một chút. Vì tôi nên anh ấy đang cố tỏ ra khôi hài và thoải mái hơn.”
Jason há hốc miệng với vẻ giễu cợt. “Logan ư? Thoải mái và khôi hài à? Chắc cô đùa thôi đúng không.” Anh châm hai ly sâm banh và đặt một ly trên bàn trang điểm cho cô; sau đó anh ngồi xuống chiếc sofa nhỏ bên trái cô, bắt tréo chân gác lên bàn cà phê. “Phòng trường hợp cô còn chưa nhận ra, xin thưa là chồng cô cho rằng nhà hàng năm sao là một phòng hội nghị thiếu ánh sáng có cả thìa nĩa. Anh ta nghĩ cặp hồ sơ là phụ kiện thời trang cần thiết, và anh ta xem thường câu lạc bộ golf của anh ta.”
“Đừng nhạo báng Logan,” cô bảo anh. “Anh ấy là một doanh nhân xuất sắc.”
“Anh ta là kẻ tẻ nhạt,” Jason cãi lại, rõ ràng đang vô cùng thích thú trước cơ hội hiếm hoi được chế nhạo một người mà anh thật sự thán phục, chậm chí còn ghen tị nữa. “Nếu muốn một người đàn ông khôi hài và thoải mái, lẽ ra cô nên tính chuyện yêu đương với tôi thay vì tìm kiếm những nét đó ở chàng trai hoa phong lan này.”
Cô nhìn anh trìu mến, phớt lờ lời ám chỉ về giỏ phong lan. “Anh là dân đồng tính đấy, Jason.”
“Chà, đúng vậy,” anh toét miệng cười đồng ý. “Có lẽ chuyện đó sẽ gây trở ngại cho cuộc tình của chúng ta.”
“Eric sao rồi?” Leigh hỏi, cố tình đổi đề tài. Eric là “nửa kia” của Jason hơn sáu tháng nay - gần như đã xác lập một kỷ lục về sự gắn bó lâu dài với Jason. “Tối nay tôi không thấy anh ta ngồi ở hàng ghế trước.”
“Anh ta ở đó đấy,” Jason nói, giọng thờ ơ. Anh chuyển chân từ bên này qua bên kia, ngắm nghía đôi giày đen bóng loáng. “Nói thật với cô là Eric cũng đang trở nên hơi tẻ nhạt rồi.”
“Anh vốn cả thèm chóng chán mà,” Leigh nói kèm theo ánh mắt ẩn ý.
“Cô nói đúng.”
“Nếu anh muốn nghe ý kiến của tôi...”
“Mà dĩ nhiên là không rồi,” Jason ngắt lời.
“Và dĩ nhiên dù sao thì tôi vẫn cứ nói... Nếu anh muốn nghe ý kiến của tôi thì theo tôi anh nên thử tìm ai đó không quá giống mình đến mức trở nên dễ đoán và tẻ nhạt. Thử đổi gió bằng cách cặp kè với một anh chàng coi thường câu lạc bộ golf của anh ta xem.”
“Một người điển trai đến nỗi có thể khiến tôi phớt lờ sự tẻ nhạt của anh ta ư? Thật ra, tôi biết một người như thế đấy!”
Anh có vẻ quá nhiệt tình đến nỗi Leigh phải bắn cho anh một ánh nhìn ngờ vực trước khi ném tờ khăn giấy vào sọt rác và bắt đầu trang điểm như bình thường. “Anh biết à?”
“Có chứ, thật đấy,” Jason nói, mỉm cười ranh mãnh. “Anh ta có mái tóc dày màu nâu nhạt hơi ngả vàng do phơi dưới nắng hè, đôi mắt đẹp và cơ thể cường tráng. Đối với tôi thì anh ta hơi quá trí thức, nhưng anh ta ba mươi lăm tuổi, đúng tuổi hợp với tôi. Anh ta xuất thân từ một gia đình quý tộc lâu đời ở New York vốn lâm vào cảnh túng bấn từ lâu trước khi anh ta chào đời, vì vậy anh ta có nhiệm vụ khôi phục gia sản, và anh ta đã xoay xở một mình...”
Cuối cùng Leigh cũng nhận ra anh đang mô cả Logan, và vai cô bắt đầu rung lên vì cười. “Anh đúng là điên.”
Khả năng tập trung ngắn ngủi của Jason dẫn anh nhảy thẳng từ chuyện lãng mạn sang vấn đề kinh doanh. “Đúng là một đêm không thể quên!” anh thở dài nói, ngả đầu vào ghế sofa. “Tôi đã đúng khi thay đổi lời thoại của cô trong cảnh cuối hồi hai. Cô có thấy khán giả phản ứng mạnh mẽ đến mức nào không? Vừa phút trước mọi người vẫn còn đang cười; sau đó họ nhận ra cô định làm gì, vậy là cuối cùng ai nấy đều rơi lệ. Chỉ trong vài lời thoại, họ đã từ vui vẻ chuyển sang tuôn nước mắt. Ái chà, cưng ạ, tất cả là nhờ tài biên kịch xuất sắc - và diễn xuất xuất sắc nữa, dĩ nhiên rồi.” Anh ngừng lại nhấp một ngụm sâm banh, rồi sau một hồi im lặng suy nghĩ, anh bổ sung, “Sau suất diễn chiều mai, có lẽ tôi sẽ muốn thay đổi đôi chút trong đoạn đối thoại giữa cô và Jane ở hồi thứ ba. Tôi vẫn chưa quyết định.”
Leigh không nói gì, chỉ vội vã trang điểm nốt, chải tóc, rồi mất hút sau tấm rèm để mặc bộ váy cô đã mang tới nhà hát. Bên ngoài phòng thay đồ, sự ồn ào đã tăng lên đáng kể khi các diễn viên, nhân viên cùng những người đủ tầm ảnh hưởng để được phép vào hậu trường bắt đầu rời khỏi nhà hát từ cửa sau, cười nói rộn rã chuẩn bị đi ăn mừng thắng lợi đêm nay với bạn bè và gia đình. Thường thì Jason và cô sẽ làm y như vậy, nhưng hôm nay là sinh nhật lần thứ ba mươi lăm của Leigh, và Logan đã quyết sẽ không để nó phải xếp sau đêm ra mắt vở kịch.
Cô bước ra khỏi tấm bình phong trong bộ váy bó giản dị bằng lụa đỏ với hai dây áo nhỏ xíu đính cườm, đôi giày cao gót đồng bộ đi kèm cái ví dạ hội nạm ngọc hiệu Judith Leiber treo lủng lẳng trên ngón tay nhờ một sợi dây mảnh.
“Màu đỏ à?” Jason nói, vừa cười toe vừa từ từ đứng dậy. “Tôi chưa thấy cô mặc đồ đỏ bao giờ.”
“Logan đã đặc biệt đề nghị tôi mặc màu đỏ cho buổi tiệc đêm nay.”
“Thật à, vì cớ gì?”
“Có lẽ vì anh ấy đang tỏ ra khôi hài,” Leigh điệu đà nói; rồi sự lo lắng đã thế chỗ cho nét vui vẻ. “Trông tôi ổn chứ?”
Jason chậm rãi đưa ánh mắt đánh giá lướt từ mái tóc nâu vàng óng ả dài ngang vai cho tới đôi mắt to màu xanh ngọc và xương gò má cao của cô; rồi anh dừng lại ở vòng eo thon thả và đôi chân dài của cô. Cô khá ưa nhìn, nhưng chắc chắn không lộng lẫy và thậm chí chẳng thể coi là xinh đẹp. Tuy nhiên trong một căn phòng đầy những phụ nữ như thế, chỉ cần cử động hay nói chuyện là Leigh Kendall sẽ ngay lập tức thu hút sự chú ý của người khác. Trong nỗ lực xác định tầm ảnh hưởng của Leigh khi cô xuất hiện trên sân khấu, các nhà phê bình đã ví cô với bản sao thời trẻ của Katharine Hepburn hay Ethel Barrymore, nhưng Jason biết họ đã sai. Trên sân khấu, cô có vẻ rực rỡ vô song của Hepburn và chiều sâu huyền thoại của Barrymore, nhưng cô còn có một thứ khác nữa, một thứ mang đậm dấu ấn độc nhất vô nhị của cô và chắc chắn quyến rũ hơn nhiều - một sự mê hoặc vô cùng mạnh mẽ dù cô đang diễn trên sân khấu hay đứng trong phòng thay đồ chờ anh nhận xét về y phục của cô. Cô là nữ diễn viên điềm đạm nhất, sẵn lòng hợp tác nhất mà anh từng biết; ấy vậy nhưng dường như từ cô vẫn toát lên vẻ bí ẩn, như có một rào chắn nào đó không ai được phép vượt qua. Cô làm việc rất nghiêm túc, nhưng bản thân cô thì lại không hề tỏ ra nghiêm trang cứng nhắc, và đôi khi sự khiêm tốn cùng khiếu hài hước của cô khiến anh cảm thấy mình chẳng khác gì một anh chàng tự cao tự đại tính khí thất thường.
“Tôi bắt đầu ước gì mình đang mặc quần jean áo thun rồi đấy,” cô đùa, nhắc anh nhớ rằng cô vẫn đợi ý kiến của anh.
“Được rồi,” anh nói. “Đây - sự thật thẳng thắn nhé: mặc dù không lộng lẫy bằng chồng cô nhưng cô cũng là một phụ nữ hấp dẫn khác thường.”
“Nếu may mắn ra trong trường hợp nào đó mà câu nhận xét này được coi như một lời khen,” Leigh bật cười, vừa nói vừa mở tủ lấy áo khoác, “thì cám ơn nhiều nhé.”
Jason thực sự kinh ngạc khi thấy cô chẳng biết nhìn xa trông rộng gì cả. “Dĩ nhiên đó là lời khen rồi, Leigh, nhưng sao cô lại phải quan tâm đến chuyện bây giờ nhìn cô ra sao chứ? Điều quan trọng là cách đây một tiếng đồng hồ, cô đã thuyết phục bốn trăm người rằng cô thật sự là một phụ nữ mù lòa ba mươi tuổi không ý thức được rằng mình đang nắm giữ chìa khóa phá giải một vụ giết người ghê tởm. Cô đã làm mọi khán giả co rúm người trên ghế vì khiếp sợ!” Jason vung hai tay lên với vẻ phẫn nộ đầy hoang mang. “Chúa ơi, tại sao một người phụ nữ có thể làm được tất cả chuyện đó lại quan tâm đến cái vẻ ngoài chết tiệt của cô ta trong bộ váy dạ hội chứ?”
Leigh mở miệng định trả lời; nhưng rồi cô mỉm cười lắc đầu. “Phụ nữ là thế mà,” cô nói ngắn gọn, liếc mắt nhìn đồng hồ đeo tay.
“Tôi hiểu rồi.” Anh mở cánh cửa phòng thay quần áo và bước tránh sang bên với vẻ lịch thiệp đầy khoa trương. “Mời cô,” anh nói; rồi anh chìa cánh tay ra cho cô làm điểm tựa, nhưng khi họ bắt đầu đi dọc hành lang phía sau, anh tỏ ra nghiêm trang hẳn. “Khi chúng ta đến buổi tiệc, tôi sẽ hỏi Logan xem có phải anh ta gửi cho cô giỏ phong lan đó hay không.”
“Tôi mong là tối nay anh đừng để chính anh hay Logan phải bận tâm về chuyện đó,” Leigh nói, giữ giọng nhẹ nhàng. “Cho dù Logan không phải người gửi thì cũng đâu phải vấn đề thật sự. Chúng ta vẫn đề phòng cẩn thận mà - bây giờ tôi đã có một tài xế kiêm vệ sĩ. Matt và Meredith Farrell đã cho tôi mượn anh ta sáu tháng trong khi họ vắng mặt. Khi gia đình họ có mặt tại nhà ở Chicago, anh ta chẳng khác gì một thành viên trong gia đình họ. Tôi đang được bảo vệ rất tốt.”
Bất chấp những lời trấn an ấy, Leigh vẫn không hoàn toàn chế ngự được nỗi lo lắng đến run người về giỏ hoa phong lan. Gần đây, cô nhận được vài món quà nặc danh, tất cả đều đắt tiền và đôi khi còn mang ẩn ý tình dục rành rành, như là áo ngực cùng nịt tất đăng ten đen của hãng Neiman Marcus và bộ đồ ngủ mỏng tang, vô cùng quyến rũ của Bergdorf Goodman. Lần nào cũng có một tấm thiệp nhỏ màu trắng đi kèm món quà với những lời nhắn cụt lủn, khó hiểu như “Mặc cái này cho anh” và “Anh muốn thấy em trong cái này”.
Cô đã nhận được cuộc gọi ở nhà ngay sau ngày món quà đầu tiên được chuyển đến nhà hát. “Có phải em đang mặc món quà không, Leigh?” một giọng đàn ông âu yếm, tán tỉnh vang lên từ máy trả lời tự động.
Tuần trước, Leigh đến Saks mua áo choàng cho Logan cùng một cái trâm cài áo nhỏ cho mình, và cô đã nhét cái trâm vào túi áo khoác. Cô vừa định bước xuống vỉa hè ở góc phố giao giữa đại lộ 5 và đường 51 cùng những người đi bộ khác thì từ sau lưng cô, một người đàn ông với tay ra phía trước, cầm theo cái túi mua sắm nhỏ của Saks. “Cô vừa đánh rơi này,” anh ta nói lịch sự. Giật mình, Leigh máy móc cầm lấy cái túi thả vào trong cái túi lớn hơn đựng áo của Logan, nhưng khi quay lại cảm ơn thì cô nhận thấy hoặc anh ta đã thụt lùi vào đám đông đi bộ hoặc anh ta chính là người đàn ông đang vội vã đi xuống phố, áo khoác che đến tận tai, đầu cúi xuống tránh gió.
Khi mang mấy món đồ mới về đến nhà, Leigh nhận ra cái túi nhỏ cô nhận từ Saks vẫn ở nguyên trong túi áo khoác của mình. Cái túi mà người đàn ông kia trao cho cô trên đường chứa một chiếc nhẫn bạc nhỏ, giống như nhẫn cưới. Tấm thiệp ghi “Em thuộc về anh”.
Dù vậy, cô tin chắc giỏ phong lan trong phòng thay quần áo của cô là món quà từ Logan. Anh biết đó là loài hoa ưa thích của cô.
Trong con hẻm sau lưng nhà hát, tài xế kiêm vệ sĩ mới của Leigh đứng bên chiếc limousine đang mở cửa. “Buổi biểu diễn đã thành công vang dội, bà Manning, và bà thật tuyệt vời!”
“Cảm ơn anh, Joe.”
Jason chui vào trong chiếc xe hơi sang trọng và gật đầu hài lòng. “Ai cũng nên có vệ sĩ kiêm tài xế riêng.”
“Có lẽ chỉ lát nữa thôi anh sẽ không nghĩ vậy đâu,” Leigh rầu rĩ mỉm cười cảnh báo khi viên tài xế ngồi vào đằng sau vô lăng và cài số xe. “Anh ta lái xe như...” Chiếc xe đột ngột bắn về phía trước khiến lưng họ đập vào ghế, rồi nó xộc vào dòng xe cộ đông đúc.
“Đồ điên!” Jason chửi thề, tay này chộp lấy thành ghế, tay kia túm cổ tay Leigh.