← Quay lại trang sách

TERESA DELGADO

Tối nay, đến cả cán chổi đáng tin cậy của Senora Delgado, công cụ thuyết phục tối thượng, cũng chẳng đủ sức khiến cô con gái cả phải tuân theo lệnh mẹ. Bà vươn tay về phía cái chổi đầy hăm dọa. Thường thì chỉ hành động ấy thôi đã đủ tạo động lực để con bé bước ra cửa. Tối nay nó lại không có tác dụng. Tiếp đó, bà ta cầm hẳn cái chổi lên dứ dứ. Nhưng cũng vô hiệu. Cuối cùng bà ta buộc phải vụt vào bắp chân đứa con ngang ngạnh để bắt con bé phải tiến lên phía trước. Thậm chí cái đòn ấy cũng không hiệu nghiệm hoàn toàn. Con bé chỉ đơn thuần nhảy loi choi sang hai bên, không chịu khuất phục. Hầu hết các cú vụt đều quật trúng bức tường trống không, lần nào con bé cũng tránh kịp.

Cứ lần nào có việc cần ra ngoài là con bé lại giở trò ương bướng, trì hoãn, kỳ kèo. Nhưng tối nay thì còn hơn cả thế, có một sự lì lợm đến cùng, một kiểu phản kháng thụ động. Chưa bao giờ con bé chống đối dữ dội đến mức này. Hình như có thứ gì đang giữ chân con bé còn mạnh mẽ hơn cả nỗi sợ mấy cú vụt chổi của mẹ.

Con bé ngồi thụp sát tường, tỏ thái độ không muốn đi chút nào, liên tục nhảy né cán chổi trừng phạt. Cặp mắt đen to tròn và long lanh nhìn mẹ đầy van nài thật khó hiểu. Con bé khá cao so với độ tuổi và so với ba mẹ mình, hiện nó đã cao ngang tầm người lớn, mặc dù khổ người thì chưa bằng. Nó sắp sửa mười tám hay mười bảy tuổi gì đó, hoặc có thể mới mười sáu, gia đình nhà họ không bận tâm đo đếm tuổi tác. Da con bé vàng óng như lúa mạch trên đồng, dù tuổi trưởng thành chắc sẽ làm nước da sậm đi chút ít. Nó đã trùm xong rebozo - tấm khăn choàng đầu phổ thông của đàn bà con gái Mỹ Latin nghèo - bước chuẩn bị đầu tiên trước khi ra ngoài, nhưng xem ra thì con bé có vẻ chưa sẵn lòng hoặc không thể đi được.

Sau khi mấy cú vụt ngang không có công dụng gì hết, bà mẹ bắt đầu thọc thẳng chổi vào người con gái, miệng rú rít quát mắng, “Tao đã bảo mày đến tận ba lần rồi đấy! Mày có chịu đi không?”

Bà thọc một nhát nữa. “Trong cái thành phố này, có bà mẹ nào phải vất vả với con cái đến thế không? Tại sao mày lại làm khổ tao như thế này hả, Teresa? Tối hôm nay mày mắc cái chứng gì vậy? Nhờ mày đi ra tienda (cửa hàng), mang một ít than về để ông ba tội nghiệp nhà mày có cơm canh nóng sốt mà ăn sau khi đi làm quần quật về là quá quắt lắm à? Từ nãy đến giờ, đáng lẽ mày ra đó xong quay lại được đến hai lần rồi đấy!”

“Madrecita (Mẹ ơi),” Teresa đau khổ lạy lục, “sao không để Pedro đi một lần cho biết? Con đã phải làm việc cả ngày ở chỗ giặt là và mệt lắm rồi.”

“Mày biết rõ là tao không thể nào tin tưởng giao việc cho Pedro được mà. Trên đường đi, nó toàn tung xu lên trời và chưa gì đã để mất tiền.”

“Sao mẹ không dùng tạm củi hay giấy và chờ đến ngày mai? Tại sao con phải đi ngay bây giờ?”

“Giấy có phải là than không? Nó cháy được bao lâu? Nó bùng lên thành lửa và sau đó tắt ngóm!”

Nói đến đây, sực nhớ ra một chuyện, bà tạm hoãn lại màn vung chổi để chạy ra chỗ cái brasero (lò than) lát gạch thô, bị bỏ không đã được một lúc. Bà tóm lấy cái quạt lá cọ, kéo mạnh cái nồi đất nung sang một bên, lo lắng quạt vào lỗ thông hở cho đến khi nó lại bắt đầu đỏ lừ bên dưới. “Nhìn thấy chưa?” Bà mắng mỏ. “Giờ bếp bắt đầu tắt rồi đấy! Nếu nó mà tàn hẳn…”

Bà chạy vào lấy cây chổi, lần này quyết tâm sẽ tăng cấp độ đòn lên mức cao nhất, bởi chẳng còn cách nào hiệu nghiệm nữa: Quật cho ra trò quanh vai con bé. Trước viễn cảnh sắp sửa xảy ra, Teresa cuối cùng cũng chạy đến tận khung cửa, nhưng sau đó vẫn cứ đứng lần chần ở đấy, như thể trông mong đến phút chót sẽ có phép màu nào đó khiến mẹ tha cho mình.

Một thằng nhóc khoảng chín hay mười tuổi, nhân vật Pedro ban nãy có nhắc đến, ló mặt ra khỏi một cái bát mà từ nãy đến giờ nó vẫn vục mặt vào, cười cợt bình phẩm, “Con biết chị ấy sợ gì. Chị ấy sợ con báo.”

Con bé bắn cho em một ánh mắt như thừa nhận. Sau đó, nhờ có người nhắc đến chuyện ấy mà khả năng trình bày suy tư đã được giải phóng, con bé bắt đầu giãi bày với mẹ bằng cái giọng nửa hăng hái, nửa lo lắng, “Người ta đồn là có một con báo đâu đó quanh đây. Một cô nhà giàu buộc dây dắt con vật đi chơi và nó bị sổng mất. Chưa ai tìm thấy nó cả. Hôm nay con nghe mấy chị ở chỗ giặt là nói về chuyện ấy…”

Cây chổi chỉ dừng lại mấy giây. “Một con báo? Là cái thứ gì vậy, có phải mấy con vật ở trên núi không?”

“Chúng nó to lắm và sẽ vồ lấy mình đấy,” thằng ranh Pedro nói, đánh kèm một cú liếc sang chỗ cô chị, để lộ lý do phát biểu câu đấy.

Senora Delgado không chấp nhận câu chuyện ngớ ngẩn này. Bà phải làm việc cực nhọc và quá mệt mỏi với bao lo toan, thế nên không buồn quan tâm đến những thứ nằm ngoài phạm vi công việc và lề thói hàng ngày. “Mày đã bao giờ đụng phải con nào như thế khi đi ra tienda (cửa hàng) cho tao chưa?” Bà gầm lên.

Con bé nuốt khan, im lặng lắc đầu.

“Thế thì lần này cũng không! Giờ cút ngay ra khỏi nhà! Làm như tao bảo đi!” Và bà giơ cái chổi ngược ra sau, quả quyết đến mức đứa con lui tọt ra khỏi cánh cửa.

Cặp mắt con bé đen mọng nước, bấy giờ vẫn đang cầu khẩn trong vô vọng, là thứ lui ra cuối cùng.

Senora Delgado bực bội đặt chổi sang một bên và quay lại với những công việc dang dở, lẩm bẩm quàu quạu và lắc đầu. Nhưng một thoáng sau, cánh cửa lại lén lút hé ra và con bé tìm cách tuồn vào nhà từ sau lưng mẹ.

Bà bắt quả tang, rồi hùng hục lao về hướng nó, nhưng cửa nhanh chóng đóng lại trước khi bà kịp lao đến. Con bé một lần nữa ở bên ngoài.

Senora Delgado giải quyết dứt điểm bằng cách chốt cái then giữa lại, mặc dù cũng phải rất trầy trật. Do không ai dùng nên then đã hoen gỉ cả. Chắc đã mấy năm rồi chưa lần nào nó được kéo vào ổ. Cửa nhà họ không bao giờ cần phải khóa, chẳng có thứ gì đáng lấy đi cả. Các mảng gỉ sét vụn rơi khỏi cái then và một đám mây bụi tí hon bay túa lên khi bà ta cuối cùng cũng kéo chốt vào hẳn, chủ yếu nhờ sức lực từ đôi tay rắn rỏi như tượng.

Thế rồi bà ta dứ tay về phía cánh cửa gỗ vô tri trước mặt, “Giờ mày sẽ phải ở ngoài đó cho đến khi làm xong việc tao giao! Mày không được phép vào nhà cho đến khi mang than về!”

Bên ngoài, con bé ngồi co ro một lúc trong phần bậu cửa. Nó quấn chặt chiếc rebozo quanh miệng. Làm vậy là để ngăn khí đêm độc hại xộc vào lỗ mũi và đường thở. Chỉ có người ngoại quốc, chẳng hạn như người Mỹ, mới dám ăn vận phong phanh. Nó cẩn thận nhòm trước nhòm sau cái tuyến đường bẩn thỉu, dốc xiên trong khu ổ chuột trước nhà mình. Đường đi không thẳng mà cong dần. Không có vỉa hè, chỉ có một đoạn đường nằm giữa. Duy nhất một cột đèn leo lét đang tù mù rọi soi cuối con đường, mặc cho phần còn lại ngập chìm trong bóng tối. Nhưng nó phải đi theo hướng ngược lại, nơi chẳng đèn đuốc gì hết. Trên đường không có lấy một bóng người. Giờ này thì tất cả đã vào trong nhà hết rồi. Người dân ở đây làm việc quá khổ cực. Ra ngoài buổi đêm là đặc quyền của người giàu. Trong đêm lễ hội thì khác. Hoặc nếu nhân vật trụ cột gia đình muốn vào quán rượu ngồi vài tiếng thì cũng khác nốt. Nhưng mà ngay cả khi ấy thì họ cũng không ở ngoài phố, họ ngồi trong quán.

Thôi thì cũng không xa. Con bé không thể vào nhà cho đến khi đã mua được than, thế nên đi càng nhanh thì càng tốt. Nó can đảm lao ra khỏi khung cửa, đi vào lòng đường, hai tay ôm chặt lấy thân thể bên dưới chiếc rebozo, đôi mắt trên gương mặt trái xoan đảo qua đảo lại dò xét.

Con bé đi vòng qua góc khuất trong hẻm, nối với con đường kế bên phía dưới. Nó thoáng nhìn thấy ánh sáng nâu vàng mờ nhạt tỏa ra từ trong tòa nhà tienda, nằm ngay mạn dưới trước mặt. Con đường mới tiếp tục đưa nó xuống dưới. Toàn bộ khu nhà này của thành phố được xây trên một con dốc, dẫn lên lòng sông khô cạn xa xưa.

Nhưng, ngay khi con bé vừa nhìn thấy ngọn đèn thì ánh sáng tắt ngấm, cứ như thể từ nãy đến giờ ánh đèn chỉ đợi để được nhìn thấy rồi thôi. Cụ Calderón đã dọn hàng về nghỉ đêm. Việc này không diễn ra theo bất cứ hệ thống đồng hồ nào. Thực tình mà nói thì bà cụ không biết cách xem đồng hồ và cũng không sở hữu cái đồng hồ nào hết, hệt như tất cả người dân quanh đây. Kể từ lúc vị khách cuối cùng ghé qua, nếu như đã chờ đủ lâu, bà cụ tự hiểu rằng tối đó sẽ chẳng còn ai lai vãng nữa, rồi cụ đóng cửa hàng. Bởi thế nên có đêm bà cụ nghỉ bán lúc 10 giờ, đêm tiếp theo thì 11 giờ, đêm tiếp theo nữa thì 9 giờ.

Teresa vội cất cao giọng gọi, nhằm tìm cách giữ chân bà cụ cho đến khi mình chạy tới nơi, con bé bắt đầu co cẳng phóng xuống chỗ cửa hàng. Nhưng khi đến nơi thì muộn rồi, ổ khóa bên trong đã chốt. Vì đây là kho chứa các món hàng quý giá như đường, nến, đậu gà và nhiều thứ khác, cứ đêm đến là sẽ được khóa lại chắc chắn, khác hẳn các căn nhà quanh đây.

Áp sát mặt vào kính cửa sổ bên cạnh, con bé vẫn có thể nhìn thấy ánh nến tỏa ra lờ mờ từ sau bức màn gian trong. Gian ngoài là cửa hàng thì dùng điện, còn gian trong thì dùng nến, lẽ thường là như vậy, chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả. Con bé nện tay lên cửa sổ, lòng thầm hi vọng.

Bức màn được kéo chéo sang bên và cụ Calderón thò mặt ra. Bà cụ đang thay dở quần áo, chân để trần, bím tóc bạc vấn quanh đầu đã được tháo xuống và đang lủng lẳng trước một bên vai.

“Cháu chỉ muốn một túi than nhỏ để về nấu cơm cho ba thôi!” Teresa Delgado nói qua lớp kính giữa hai tay mình.

Trong lúc tiếp tục xõa bím tóc ra, cụ chủ tienda lắc đầu, ra dấu xua con bé đi. “Manana (Buổi sáng).”

“Sẽ chỉ mất một giây thôi mà. Thay vì đứng đó nói thì bà có thể đo luôn…” Con bé giơ đồng xu lên cho bà cụ nhìn.

“Thế tức là tao sẽ phải tháo khóa ra, bật đèn lên, mò mẫm trong bọc. Nhiều thứ lằng nhằng lắm. Một khi tao đã đóng cửa tức là tao đóng cửa luôn.” Bức màn lại buông xuống và che khuất khuôn mặt bà cụ.

Teresa thất vọng quay đi. Giờ thì con bé sẽ phải về nhà mà không có than, hoặc cuốc bộ tít ra một cửa hàng khác cách đây mấy con phố, ở tận bên kia cây cầu cạn. Đó là cửa hàng gần đây nhất. Cây cầu cạn là một lũy đá đặc, nâng đỡ một đại lộ bắc ngang qua lòng một con sông đã kiệt nước và cao ngang hai bên bờ sông. Người ta phải băng qua một đoạn hầm uốn vòm đâm xuyên chân cầu để sang phía bên kia. Từ hồi trước (từ hồi còn chưa có tin đồn kia), Teresa đã luôn cảm thấy sởn gai ốc mỗi lần phải chui qua đó vào những lúc muộn màng thế này, khi xung quanh chẳng còn mấy bóng người. Đoạn trong hầm tối đen như mực.

Nhưng nếu Teresa quay về với hai bàn tay trắng, mẹ sẽ không cho nó vào nhà. Giả như có để con gái bước qua ngưỡng cửa, chắc bà cũng sẽ không tin chuyện cửa hàng đã nghỉ bán và sẽ nện cho con thêm mấy nhát chổi nữa.

Cho dù có là thứ ít nguy hiểm hơn, nỗi sợ hữu hình luôn lấn át nỗi sợ vô hình. Lòng đầy miễn cưỡng, con bé tiếp tục hành trình đi xuống cây cầu trước mặt thay vì quay về nhà.

Lúc Teresa đến nơi và sắp sửa bước hẳn vào trong hầm, con bé hít một hơi thật sâu, trữ trong hai lá phổi đủ lượng khí để có thể đi được sang đến tận bên kia. Bóng tối trong đường hầm đen ngòm, khiến đôi mắt không thể nhìn thấu cái gì. Sàn đất bên ngoài dốc xuống, ngăn chút ánh đèn đường ít ỏi đằng xa tiến vào sâu, quầng sáng mờ nhạt đó chỉ hắt hờ hững ngay miệng hầm. Những tưởng ít nhất thì người ta cũng phải cho mắc một ngọn đèn bên trong hay bên ngoài cổng vào. Ừ, thì họ cũng đã từng thử nhiều lần, nhưng chỉ cần một đến hai ngày, bọn trẻ con chơi đùa quanh đây ban ngày kiểu gì cũng sẽ làm vỡ bóng hết. Thế là cuối cùng người ta không buồn lắp đèn nữa.

Ngay khi vòm trần đen thẫm phủ chụp lên Teresa, vọng âm từ những bước chân bắt đầu vang lên, các mặt đá xung quanh khiến âm thanh ấy thêm phần ẩm ướt và mốc meo. Đã có lần, chừng khoảng một năm trước, ở trong này, người ta phát hiện thi thể một khách bộ hành xấu số với con dao găm cắm trên thân mình, xuyên qua cả túi. Nhưng giờ con bé không muốn nghĩ đến chuyện ấy. Hiện tại không phải lúc.

Từ khi vào trong, Teresa vô thức rảo bước mau lẹ hơn, đồng tử dãn hết cỡ, cặp mắt long lanh và to tròn lạc trong bóng tối mịt mùng. Gracias a Dios (Tạ ơn thánh thần), đường hầm không quá dài, chỉ bằng bề rộng của đại lộ chạy phía trên thôi. Con bé đã đi được nửa đường sang bên kia rồi. Hai bàn chân rơi xuống mặt hầm nghe bộp, bộp, bộp, bộp tựa tiếng tay vỗ trên trái bầu, vòm đá bên trên hất ngược âm thanh xuống nền đá bên dưới.

Kia rồi! Teresa có thể thấy lối ra ở ngay trước mặt, con bé sắp đến bên ngoài. Nó bắt đầu hít thở trở lại và ngay lập tức nhận ra bản thân đã nín thở từ nãy đến giờ. Đằng trước cũng chẳng sáng sủa hơn là mấy. Một vài mẩu xám hay xanh thẫm pha trộn khiến bức màn đen nhẵn trông hơi xơ xác, chỉ vậy thôi. Nhưng âm vọng của những bước chân bắt đầu co lại, bầu không khí đã bớt ẩm ướt, ngột ngạt hơn, chúng mới là dấu hiệu chủ chốt thông báo rằng sắp đến cổng ra, chứ không phải những gì đôi mắt nhìn thấy.

Trong lúc hối hả chạy ra ngoài không gian thoáng đãng, Teresa vô tình liếc sang bên cạnh. Không rõ nguyên cớ tại sao, ánh mắt của con bé bỗng dưng bị hút về nơi tưởng chừng như chẳng có gì hết, hơi thở chợt mắc nghẹn trong cổ họng. Cái gì thế kia? Hẳn phần đá đó bị ướt, hẳn một dòng nước đang rỉ ra giữa các khe kẽ. Teresa vừa thoáng thấy một tia phản chiếu, một ánh ngũ sắc lóe lên, như thể ánh sáng bên ngoài cửa hầm…

Nhưng không, thứ ánh sáng bên ngoài nào có thể lọt vào xa đến vậy, còn hắt lên nền đá. Chúng không trải rộng mà chỉ gói gọn một chỗ, cũng không chảy xuống liên tục thành một đường chỉ dài như nước. Nếu đây mà là chất lỏng thì chúng có hình dạng của hai giọt nước đặt cạnh nhau. Hai giọt nước dài gần như bị chẻ dọc chính giữa, trông giống trực khuẩn mà ta quan sát được dưới ống kính hiển vi. Chúng khẽ lay động tựa màn khói lưu huỳnh vàng xanh, như thể có một luồng nhiệt đối lưu đang bốc lên giữa chúng. Ấy nhưng chúng không có hình hài cụ thể khắc hẳn vào tấm màn đen thẳm, không hề như thế, mà chỉ là một mảnh lóa khuếch tán. Đáng ra Teresa đã ngó lơ chúng nếu không phải vì đôi mắt, đôi mắt của con bé, chẳng còn biết nhìn đi đâu trong khoảng không gian tối như mực này.

Chúng không phải là con mắt, hay chúng… đúng là con mắt thật? Chúng vẫn cứ giữ nguyên số lượng, vị trí song song, dãn cách một khoảng bất biến, với vẻ căng thẳng tột độ như một cái nhìn đăm đăm đầy hung hiểm…

Không, tất nhiên là không phải. Sao chúng có thể là cặp mắt được? Mắt thì làm gì ở trong này và… và chúng là cặp mắt của ai mới được cơ chứ…? Đừng để chúng trở thành một cặp mắt! Đừng tưởng tượng ra chúng là một cặp mắt, thứ gì tâm trí không nghĩ đến thì sẽ không thành hình! Chúng chỉ là vệt sáng ướt át trên hai cái ụ nhỏ gồ ghề, hai điểm mấp mô nằm cạnh nhau trên nền đá, chỉ có vậy mà thôi.

Giờ chúng đã chịu lùi lại phía sau, tất cả nhờ vào cặp chân không ngừng rảo bước của Teresa, hệt như những người lính tiếp tục thực thi mệnh lệnh đã được ban bố từ trước, kể cả sau khi sĩ quan chỉ huy không còn có thể ra lệnh hay thậm chí nghĩ ra được mệnh lệnh mới. Kể cả khi tầm mắt bị cắt đứt, con bé cũng không dám quay đầu lại, lòng e sợ rằng cái nhìn thứ hai sẽ phá vỡ tan tành lời giải thích được chắp vá kỳ công kia.

Thêm một vài bước ngắn nữa, bầu trời đêm lại mở rộng trên đầu Teresa. Trông kìa, một ngôi sao. Rồi lại một ngôi sao nữa. Ôi, màn đêm phóng khoáng mới tươi đẹp làm sao. Con bé đã có chỗ để chạy. Ngay cả bóng tối cũng bớt mịt mùng hơn với đủ thứ màu ẩn náu bên dưới: trắng xỉn, xanh lá và xanh dương nhòe nhòe. Tiếng chân bộp bộp đầy thận trọng trở thành tiếng rào rạo thoăn thoắt, một đầu rebozo bay phất phới đằng sau con bé.

Teresa chỉ dừng lại khi thứ ánh sáng bàng bạc, hắt trên nền đất như nan quạt xòe rộng của cửa hàng đã ở ngay trước mặt, chỉ cần vòng qua một khúc quanh là tới. Trông cửa hàng mới diễm lệ làm sao, với những miếng giấy tua rua bẩn thỉu viền trước mặt tiền, mềm oặt đi sau bao lần ngâm mưa chịu gió, bao sắc màu từng được sơn phết từ ngày xưa giờ đã chuyển thành những vệt sọc trên bức tường trát vữa. Tiếng lệch nhịp nghịch tai của quả chuông gắn cửa khi con bé bước vào nghe thật thân thiện. Bầu không khí sực nức mùi gai dầu, thừng chão và dầu hỏa nơi đây quả là tuyệt vời.

Ông Basque già cả từ sau nhà chạy ra, tay còn mải chùi mép vì đang dở bữa cơm, đầu vẫn đội nguyên cái mũ nồi lúc ăn tối. Chỉ nhìn thoáng qua ông lão đã nhận ra con bé. “À, Teresita.”

Vừa cân chỗ than ông lão vừa lắc đầu, “Ba mẹ cháu đáng ra không nên cho con gái ra đường một mình lúc muộn thế này, hijita (cô bé).”

Cảm thấy giờ bản thân đã được an toàn, Teresa trở nên can đảm. Con bé sẽ không thú nhận hồi nãy mình đã khiếp đảm chừng nào.

Teresa gõ gõ ngón tay bên mép bàn thu ngân. “Cháu có thể gặp chuyện gì cơ chứ? Nơi này là Ciudad Real mà.”

“Nhiều chuyện có thể xảy ra lắm,” ông lão đáp với vẻ bí hiểm.

Đôi bên trao đổi một ánh mắt đầy thấu hiểu, nhưng họ không thốt hẳn thành lời. Không cần thiết phải làm thế. Vậy là ông lão cũng đã nghe về vụ việc ấy. Teresa biết ông lão đang nhắc đến thứ gì. Và ông lão cũng ngầm hiểu là con bé biết.

Teresa cố gắng kéo dài thương vụ lặt vặt này hết mức có thể. Bởi vì chừng nào nó còn diễn ra thì chừng ấy con bé còn được an toàn, còn có ánh đèn, còn có người bầu bạn. Sau đó chỉ còn chỗ cho bóng tối, nỗi sợ và sự cô độc tái xuất hiện.

“Để trong túi như thế có chắc không ạ?”

“Chắc, cháu chỉ cần giữ thẳng lên là được. Cầm hai góc như thế này này.”

“Ô, con mèo xinh thế!”

“Cháu từng thấy nó rồi mà. Không nhớ à? Ông nuôi nó đã bao lâu rồi.”

“À, phải rồi. Đúng là cháu đã từng thấy nó.” Trong lúc đặt tiền xuống bàn, con bé liếc nhìn cánh cửa sau lưng.

“Ba mẹ không đưa đủ tiền cho cháu rồi. Giá than đã tăng.”

“Lần sau cháu sẽ mang bù. Ông tin cháu được chứ? Cháu sống ở Pasaje del Diablo (Lối Quỷ), ở mé bên kia cây cầu cạn…”

“Không cần phải lo. Lần sau cháu trả cũng được.”

Người nghèo không lừa lọc lẫn nhau, bởi họ cùng khốn khó cả.

“À… thế thì senor, chúc ông ngủ ngon.” Mấy từ ấy bám quá chắc nơi cổ họng, Teresa phải vật lộn lắm mới thúc được chúng ra.

“Chúc ngủ ngon, Teresita. Nhớ về thẳng nhà luôn nhé, đừng có la cà dọc đường.”

Cái chuông rung lên lần nữa và con bé lại bước vào bóng tối. Lần này tiếng chuông nghe ảm đạm xiết bao, chẳng khác nào một lời vĩnh biệt.

Vành quạt ánh sáng trên nền đất sau lưng chầm chậm gấp lại, quay ngược hướng khi Teresa bước vòng qua. Con bé sải những bước từ tốn đi đến hết khúc quanh và thấy bộ hàm đen ngòm của cây cầu, một lần nữa há rộng ra trước mắt mình. Thế rồi con bé bắt đầu bước mau hơn, guồng chân mỗi lúc một nhanh, tiến thẳng về phía đường hầm. Nó chỉ muốn đi xuyên qua hầm và sang đến đầu bên kia một cách nhanh hết cỡ, tự bao biện rằng có thể ba đã về nhà rồi và mình sẽ bị ăn chổi nếu đi mua than quá lâu. Nhưng con bé biết rằng đó hoàn toàn không phải là lý do.

Teresa có thể đi đường khác, leo lên trên đại lộ qua cầu thang dài xây dựa vào một bên thành cầu. Nhưng đến cuối tuyến đường, con bé sẽ phải đi quá tận mấy dãy nhà và vòng ngược lại một đoạn nữa. Thôi kệ, trước giờ nó đã băng qua đường hầm này hàng chục lần rồi, thêm một lần nữa cũng chẳng sao. Nếu mới đây thôi, Teresa có thể đi qua hầm một cách bình an vô sự thì chắc chắn con bé có thể đi về thêm một lần nữa mà chẳng hề hấn gì.

Trong lúc Teresa còn mải trấn an bản thân, khoảng không gian ở giữa tiêu biến dần. Cây cầu cạn bắt đầu vươn lên bầu trời đêm, sừng sững như một ngọn núi trước mặt, hệt như một vách đá dựng đứng càng leo cao càng che lấp nhiều vì sao. Tít trên đỉnh cầu, một quầng sáng xanh lơ mờ ảo tỏa ra từ các ngọn đèn hồ quang mắc dọc đại lộ. Con bé đoan chắc xe cộ đang phóng vun vút phía trên, không hay biết về chuyến phiêu lưu nho nhỏ nhưng đầy kịch tính diễn ra ngay bên dưới, trong vùng trũng tối om của khe núi. Thành phố này là vậy đó, những sinh mạng xoắn xuýt không nhận thức được sự tồn tại của nhau.

Đã đến lúc rồi. Cổng đá hình trái xoan, hay đúng hơn là hình bán nguyệt, quét qua người Teresa như một lưỡi hái đen. Lại một lần nữa, những nhịp vọng âm trống rỗng lồng vào bước chân. Teresa sẽ không nhìn, con bé kiên quyết không nhìn gì nữa khi đến gần chỗ mình tưởng như đã trông thấy hai giọt lân quang.

Teresa hạ quyết tâm từ sớm. “Mắt không thấy,” con bé khẽ tụ nhủ, “tức là tâm không thấy và lòng sẽ bình an. Dù sao thì cũng chẳng có gì ở đó đâu, mình chỉ tưởng tượng ra thôi.” Nhưng trong thâm tâm, Teresa sợ rằng nếu để ý quan sát, mình sẽ nhận ra chúng vẫn còn ở nguyên vị trí cũ.

Đoán chừng cặp ánh sáng ở ngay trước mặt, sẽ rất khó để ngăn chúng lọt vào khóe mắt, Teresa vừa tiến về phía trước vừa quay mặt ngoắt sang bên đối diện. Trong bóng tối mịt mùng này, có giơ bàn tay lên sát mặt thì con bé còn chẳng thể nhìn thấy, nói gì đến việc xác định được chính xác vị trí mà chúng xuất hiện. Teresa phải ước lượng dựa trên lần đầu bản thân bắt gặp chúng, căn cứ vào khoảng cách từ chỗ chúng đến miệng hầm, lối ban nãy con bé vừa đi vào. Khi ấy chúng ở rất sát cổng, không quá mười lăm hay hai mươi bước chân. Giờ con bé đã đi được khoảng mười lăm hay hai mươi bước rồi.

Cổ Teresa nhức nhối vì phải giữ nguyên một góc cứng nhắc. Thật khó mà di chuyển khi đầu thì quay một đằng, còn người thì quay một nẻo. Cái cổ cứ tự động tìm cách ngoảnh thẳng lại. Con bé bắt đầu nhẩm bảng cửu chương để làm xao nhãng tâm trí.

Teresa không được đi học lâu lắm. Từ hồi còn mười hai hay mười ba tuổi, con bé đã vào làm cho tiệm giặt là. Nhưng Teresa biết viết một chút, biết đọc một chút, nếu câu từ không quá dài, nó còn thuộc một vài bảng nhân số nhỏ như bảng nhân hai, nhân ba, nhân được đến khoảng hai mươi gì đó. Nhịp thở của con bé bắt đầu nhẹ nhàng bám theo nhịp đếm. “Ba nhân một là ba. Ba nhân hai là sáu. Ba nhân ba là…”

Xong, giờ hẳn chúng đã nằm sau lưng rồi. Đấy, việc đó chẳng phải dễ lắm sao? Làm vậy chẳng phải là khôn ngoan lắm sao? Teresa từ từ quay đầu trở về vị trí tự nhiên. Phía trước chẳng có gì cả, bên cạnh chẳng có gì cả, chẳng có gì ngoài tấm màn đen tuyền, không chút sắc màu pha trộn, không có ánh sáng xanh, không có vệt lấp loáng. Còn đằng sau ư? Ôi… tốt nhất đừng cố tìm hiểu làm gì, cứ để kệ nó đi.

Một chút can đảm lại trỗi lên trong người Teresa.

Chỉ cần vài bước nữa thôi là con bé sẽ thoát khỏi nơi này. Con bé thật nhát chết khi để cho bản thân lo lắng đến như vậy. Chỉ một chốc nữa thôi, Teresa sẽ thấy ngôi sao đầu tiên ở phía bên kia. Sau đó, con bé chỉ cần leo lên làn đường thấp, quay ngoặt sang Pasaje là về đến cửa nhà mình. Khoảnh khắc tồi tệ nhất đã…

Chợt, tim Teresa chao đảo, trước khi kịp hiểu nguyên do, như thể trái tim còn nắm bắt tinh tường hơn cả đôi tai. Không rõ tim đã lỡ mất một nhịp, hay đập dồn dập trong lồng ngực thế nào, chỉ biết nhịp thở của Teresa lại tắc nghẹn trong họng hệt như ban nãy. Chỉ có đôi chân là còn tiếp tục guồng quay, hoạt động thay cho toàn bộ phần thân thể còn lại.

Cái tiếng bẹp nhè nhẹ, nhạt nhòa phía sau không phải do Teresa gây ra. Không phải là vọng âm hay bất cứ âm thanh nào bắt nguồn từ con bé. Một thứ gì khác hẳn, biệt lập, tách riêng, con bé biết chắc là vậy. Giác quan của con người luôn có khả năng xác nhận âm thanh của chính mình. Kia không phải tiếng động của một bàn chân mang giày, mà nghe giống như một thứ có lót đệm hay để chân trần, cẩu thả đạp xuống nền đất. Một âm thanh lai tạp giữa tiếng xào xạc của lá rơi và tiếng vỗ tay hết sức mềm mại. Một âm thanh nho nhỏ, một âm thanh xa vắng. Ấy nhưng nó lại là một âm thanh hãi hùng đến vô tận, đang phình to ra và đè nén lên con tim cùng khối óc con bé.

Teresa suýt thì buông rơi túi than nhỏ, vừa kịp siết chặt nắm tay ngay khi quai túi bắt đầu tuột dần. Con bé muốn đồng thời làm hai việc đối nghịch nhau. Đôi chân chỉ muốn đứng im, chôn cứng tại chỗ, cho đôi tai có cơ hội lắng nghe thêm lần nữa, xác nhận cho thật chắc chắn, phân tách tiếng động kia khỏi những âm thanh bản thân đang tạo nên. Nhưng cơn hoảng loạn không cho phép Teresa làm thế. Đứng im đồng nghĩa với cái chết. Con bé muốn quăng túi than vướng víu này đi, lập tức cắm đầu chạy hộc tốc nốt quãng đường từ đây về đến cửa nhà. Một lần nữa, cơn hoảng loạn lại ngăn cấm Teresa, ghìm con bé lại trong tốc độ vẫn đi nãy giờ. Giả vờ lờ nỗi sợ đang xâm chiếm là bản năng tránh né nguy hiểm từ bao đời. Cứ tiếp tục rảo bước như cũ và cuộc tấn công sẽ trì hoãn lại, dù là vài tích tắc. Bỏ chạy, hay tìm cách bỏ chạy, chỉ khiến rủi ro xảy ra sớm hơn mà thôi.

Teresa tiếp tục tiến về phía trước như một cái máy, không còn biết chân mình đang làm gì nữa, để mặc cho chúng tự vận hành. Tai con bé căng hết lên để bắt lấy mọi tiếng động…

Nó lại xuất hiện, ở sát phía sau và nhẹ nhàng hơn hẳn, ngược đời làm sao. Một tiếng động vô thanh, lời thì thầm của mấy phiến đá lát, khẽ khàng đến mức nếu Teresa trót bỏ qua lần đầu tiên, con bé sẽ chẳng bao giờ nghe thấy nó lần nữa, ngay vừa rồi.

Giờ lại thêm một tác nhân bên ngoài công kích Teresa, tác động vào một giác quan khác. Một cảm giác gai gai, như đang bị nhìn chằm chằm từ đằng sau, như thể có thứ gì đang lén lút theo đuôi con bé không ngừng. Tựa như bị sởn gai ốc, cảm giác ấy từ từ loang ra khắp nơi, đầu tiên là sau gáy, sau đó chạy dọc khắp chiều dài xương sống. Teresa chẳng thể loại bỏ cũng không thể kìm hãm nó. Con bé biết có một cặp mắt đang dõi theo mình, nhận thức được thứ gì đang theo đuôi mình đầy chủ đích.

Đúng lúc ấy, mái trần đen của đường hầm một lần nữa lui lại, Teresa bước ra không gian trống trải. Nhưng giờ điều ấy chỉ là vô nghĩa, bởi vì nỗi kinh hoàng đã không còn ranh giới, không còn bị giới hạn ở trong đường hầm mà đã bắt đầu dịch chuyển. Nó đuổi theo con bé vào vùng trời rộng mở.

Bàn chân tê dại của Teresa dần trở nên lóng ngóng, cơ bắp bắt đầu từ chối phối hợp với nhau, dù chúng vẫn tiếp tục đưa chủ nhân đi thêm một vài mét nữa để lên làn đường thấp. Con bé biết đôi chân không còn trụ được lâu. Chúng đang bước chậm, chúng đang dần dừng lại, chúng đã ngưng bước. Teresa đứng sững lại, người run lẩy bẩy. Một thứ xung động đập liên hồi từ sâu bên trong cơ thể, như một cơn sốt rét.

Teresa cần phải nhìn, con bé cần phải biết, linh hồn đang căng vì sợ hãi của con bé không thể chịu nổi nữa. Các cơ cổ bắt đầu giật mạnh, kéo Teresa ngoái lại phía sau, nơi tọa lạc cái miệng hầm chết chóc con bé vừa mới chui ra. Trong lúc làm vậy, trước khi hành động ấy hoàn tất, túi than dần trượt ra khỏi đôi bàn tay đang chết lặng, chuẩn bị đổ ụp xuống bên chân con bé, báo hiệu một thảm họa sắp xảy đến.

Teresa bị mắc kẹt ngay tại chỗ, bị giữ chắc lấy, như một chú chim non kẹt cứng trong vòng siết của con trăn. Con bé không thể nhúc nhích thêm một bước nào nữa, cho đến khi ngoái hẳn ra sau, thực hiện xong vòng quay đầy chết chóc, chứng kiến miệng hầm đen ngòm sắp sửa nhả ra một thứ quái vật hung tợn.

Cơn điên tiết của mẹ Teresa đang dần dâng cao, tỉ lệ nghịch với hơi nhiệt ngày một tàn lụi bên trong brasero của bà. Khi quạt mãi mà không thấy tro than ửng đỏ thêm chút nào, lửa giận của bà đã lên đến cực điểm.

Bà cúi xuống, khéo léo hà hơi, đồng thời cố gắng gạt bỏ lớp tro trắng trên cùng để dọn chỗ cho mấy tia nhiệt bên dưới. Đến cả cách này cũng thất bại. Ngọn lửa của bà, tâm điểm cuộc sống hàng ngày của bà, đã rời bỏ dương gian.

Bà đứng thẳng người dậy, vung tay lên trời, sau đó lại buông thõng chúng xuống.

“Hết rồi,” bà nói đầy thê lương. Để tắt lửa là một tội lỗi không thể tha thứ được. Bất cứ người phụ nữ nào để chuyện ấy xảy ra… Ôi, bà thừa biết những người khác sẽ bình phẩm và đánh giá ra sao về mình.

“Sao mẹ không bỏ thêm rơm vào cho đến khi chị ấy quay lại?” Thằng nhóc ngồi trong góc nhà gợi ý.

“Rơm cơ đấy! Rơm có phải than không? Nó cháy được bao lâu? Nó bừng lên rồi cháy hết luôn và làm khói bốc đầy nhà. Mà đằng nào thì ở đây cũng làm gì có rơm.”

Bà nhấc cây chổi lên, dứ dứ đầy đe dọa về hướng cánh cửa. “Tất cả là tại cái con ranh ấy. Nếu nó chịu đi ngay từ khi tao mới bảo… À, đến tận bây giờ nó đã vác mặt về chưa? Nhìn xem nó lề mề thế nào! Xem trên đường nó la cà thế nào kìa! Đến ốc sên còn về trước cả nó!”

Bà hơi chỉnh lại cái nồi đất đặt trên brasero. “Lúc về nhà thì ông ấy sẽ thấy cảnh gì? Một mụ vợ đến hâm nóng đồ ăn cho mình cũng không thể làm nổi. Thật là một mụ đàn bà nhục nhã!”

Thằng nhóc ngồi im re quan sát mẹ, hai tay chống lên má, môi nhếch lên thành một nụ cười.

Bà lia thêm mấy đường chổi nữa. “Ôi, rồi tao sẽ cho nó lãnh đủ! Tao sẽ quất gãy đôi cái palo (chổi) này lên lưng nó. Nó sẽ ê ẩm suốt cả ngày mai…”

Chợt, có thứ gì đó nện lên cửa. Nghe như thể vừa có một loạt bước chân chạy dồn dập, đến tận phút chót mới vang lên rõ ràng, bỗng dưng kết thúc bằng một cú đâm sầm vào cửa. Một tiếng hét lách vào bên trong, y như một lưỡi dao xẻ đứt mọi đường may, cả bên trên bên dưới lẫn hai bên. Sau đó đến lượt lời lẽ vọng vào, nghe vừa kích động vừa nghẹn ngào, tựa như khuôn miệng thốt ra những từ ấy đang áp hẳn vào lớp gỗ.

“Mamacita (Mẹ ơi), cho con vào! Trời ơi, nếu mẹ còn thương con thì cho con vào đi!”

Giọng nói co giật liên tục làm cho câu từ ríu hết vào với nhau.

Senora Delgado đã đợi khoảnh khắc này từ nãy đến giờ, mặc dù không biết cảnh tuợng sẽ chính xác đến vậy. Bà khoanh tay sát người và hí hửng hất đầu trước màn trả thù cay nghiệt đã trì hoãn bấy lâu.

“Giờ con ranh ấy mới chịu về nhà đấy hả? Cuối cùng nó cũng chịu chạy, sau khi đã quá muộn, sau khi ngọn lửa của tao đã tắt mất và mọi sự đã rồi!” Bà nhái cái giọng tắc nghẹt bên ngoài. “Mamacita, cho con vào! Trời ơi, nếu mẹ còn thương con thì cho con vào đi!”

Sợ bóng tối à? Sợ chính cái bóng của bản thân à? Nó sẽ cứ ở ngoài đó. Để xem nó chịu được không. Lần sau nó sẽ biết khôn mà đi nhanh hơn..

Có tiếng móng tay cào lên gỗ đầy tuyệt vọng. Giọng nói trở nên điên dại, mất kiểm soát, gần như không thể hiểu nổi, chỉ là một tràng lắp bắp lộn xộn phải đoán mới hiểu nghĩa nổi.

“Ay, madrecita de mi alma (Ôi, lạy Chúa tôi), nó đang đến, nó đang đến gần, con thấy nó đến từ bên bờ tường… Nó đến gần rồi, nó đến gần rồi…!”

Senora Delgado nạt một tiếng đầy quyền uy, khiến thằng bé đang rón rén đi vòng quanh căn phòng về phía cánh cửa phải đứng sững lại. “Pedro! Tránh xa cửa ra!”

Bà tiếp tục nhái giọng con bé. “Phải rồi, nó đang đến gần, đúng không? Láo toét! Mentiras! (Dối trá!) Con ranh, tưởng mấy lời dối trá ấy sẽ giúp mày thoát tội à. Mày tưởng tao tin có thứ gì ngoài đó hả? Có càng tốt, tao chỉ cầu cho nó có thật thôi! Nó sẽ dạy cho mày biết lần sau phải nghe lời mẹ.”

Một tiếng rú đau đớn cùng cực vang lên, bao kích động bật tung khỏi buồng phổi, khiến cho mọi tiếng gào la từ nãy đến giờ trở nên vặt vãnh hẳn. Vừa hòa lẫn vào với tiếng kêu vừa xóa nhòa nó đi, cuối cùng bóp nghẹt lấy nó, là một cú va dữ dội đến mức toàn bộ cánh cửa rung động từ trên xuống dưới, đoạn giữa oằn vào rồi bật trở về trạng thái cứng đơ như cũ. Khó mà tin nổi lại có ai lấy thân mình làm được như thế mà xương cốt trong người vẫn còn lành lặn. Bụi thạch cao bay túa lên ở hai bên thành cửa.

Bản mặt cười cợt của thằng nhóc biến sắc, nó khàn giọng thốt lên. “Carajo, mama! (Chết tiệt, mẹ ơi!) Chị ấy không đùa đâu.”

Người đàn bà kia cũng lập tức thay đổi thái độ hệt như thằng nhóc, bấy giờ mới lao tấm thân mập lùn của mình về phía trước.

“Đợi chút, Teresa,” bà rối rít gọi. “Mẹ đến đây, mẹ đây rồi, để mẹ mở…”

Bà tuyệt vọng cào vào thanh chốt cửa. “Chờ một chút thôi, con yêu. Mi querida (Con yêu của mẹ), chỉ một chút nữa thôi. Mẹ con đây rồi, để mẹ cho con vào.”

Thanh chốt không nhúc nhích. Nó đã bị kẹt mất rồi. Đã lâu không ai dùng đến nó. Hoặc bề mặt của nó đã bị gỉ sét, làm nó thô nhám quá mức, hoặc cú va chạm vừa rồi đã bẻ cong nó. Nó tắc cứng bên trong cái hốc. Bà tiếp tục giằng nó ra trong tuyệt vọng, khẽ xoay mình lại tỏ vẻ bất lực, sau đó quay về đằng trước. Bà áp mạnh một bàn tay lên phần gỗ phía trên thanh chốt, trong khi tay còn lại thì cố gắng vặn lùi nó.

“Pedro, Pedro, ngón tay mày nhỏ hơn…”

Trước tình thế nguy ngập, bản chất nam tính tiềm ẩn trong bên trong thằng bé lập tức trỗi dậy. Một người đàn ông, dù trẻ hay già, to con hay bé nhỏ, sinh ra là để đảm đương những chuyện như vậy, giải quyết các khủng hoảng bất chợt, những công việc cần đến sức vóc. Còn các chuyện khác là phần của đám đàn bà con gái.

“Một hòn đá… thứ gì để đập then cài… Để con, con xử được! Mẹ né ra đi…”

Có một viên gạch đang nằm trên sàn buồng trong, chẳng ai nhớ đã mang vào để làm gì. Thằng bé vớ lấy nó và chạy ra ngoài. Một nện, hai nện, ba nện, cái then ngang bướng giật ngược ra sau.

Đã một phút trôi qua kể từ khi tiếng gào thảm thiết tắt ngấm và cú lao điên dại đập vào cánh cửa, đến tận bây giờ họ mới có thời gian để nhận ra điều ấy. Bên kia cánh cửa là một sự tĩnh lặng vô cùng.

Trong tích tắc chững lại sau đó, bà thấy mắt thằng bé trợn tròn nhìn xuống sàn nhà. Một cái lưỡi đỏ đang luồn bên dưới khe cửa, liếm vào bàn chân trần của thằng bé. Một vũng dịch lỏng lênh láng có kích thước và hình dạng giống hệt đầu lưỡi con người. Ngay khi họ vừa trông thấy, nó đã bắt đầu loang rộng, dài ra, lấp loáng một cách bất thường.

Thằng bé giật ngược cánh cửa vào trong trước khi tiếng hét đang dần tích tụ trong lòng bà mẹ kịp bật ra khỏi miệng. Pedro lập tức nhảy vọt lại như thể vừa bị thứ gì cắn phải.

Bên ngoài, tưởng như có ai vừa ném túi bụi từng cục bùn đỏ, cho đến khi chúng bám dính với nhau để tạo thành một đụn nhoe nhoét đùn vào cửa. Trộn trong đó là mấy miếng vải, mấy mẩu tóc và thậm chí còn cả mấy mẩu san hô tí hon, nứt ra từ một sợi dây chuyền.

Cái khối kia trượt xuống, rã nát khắp ngạch cửa.

Ngày hôm sau, Manning đến diện kiến cô gái trẻ tại nhà xác, hoặc Caja de los Cadáveres (Hộp đựng xác) theo cách gọi của những người hay phải qua lại chỗ này, trước khi thân nhân đến nhận thi thể về. Anh đi cùng một thanh tra cảnh sát tên là Robles, người từng mắc nợ Manning bởi đã có lần anh kiếm cho ông ta mấy tấm vé vào xem buổi biểu diễn của Kiki Walker.

“Nếu anh cứ khăng khăng muốn xem thì cũng được, anh bạn ạ…” Robles cảnh báo trước. “Nhưng tôi khuyên anh đừng nên làm thế, trừ khi anh thuộc loại thần kinh thép. Chắc chắn anh sẽ còn mơ về cảnh tượng ấy suốt vài tuần nữa đấy. Nếu người nhà cô gái không đủ tiền chi trả, giới chức trách cũng nên đưa thi hài đi hỏa thiêu.” Ông ta nói với nhân viên trực, “Mở cái khoang này ra!”

Robles đứng sang một bên để người đi cùng không bị vướng tầm nhìn. “Dễ sợ thật đấy, phải không?”

Anh chàng người Mỹ quan sát thi thể không chút nao núng, mặt hơi tái đi một chút, nhưng chỉ vậy thôi. Anh gật đầu, trông như bị hớp hồn.

“Đủ rồi đấy!” Robles bảo người nhân viên.

Ông ta quay sang Manning, lộ rõ ý định sẽ lên lớp anh một trận. “Vậy là anh thấy được trò phô trương ngớ ngẩn của mình gây hậu quả thế nào rồi đấy. Một người đã phải bỏ mạng. Có khi đây chưa phải nạn nhân cuối cùng trước khi mọi chuyện chấm dứt đâu. Sinh vật kia vẫn chưa bị bắt lại.”

Manning không trả lời. Anh còn đang dán mắt xuống sàn xi măng, nhưng ánh nhìn mang vẻ bối rối nhiều hơn là ăn năn.

“Tất nhiên, xét trên phương diện pháp lý thì anh không phải chịu trách nhiệm,” Robles nói tiếp. “Vì anh không tiên liệu được việc này, cũng không cố ý để nó xảy ra, nên chúng tôi không thể trừng phạt anh vì tội này được. Nhưng xét trên phạm trù đạo đức thì tất cả là lỗi của anh. Chính vì anh mà cô gái trẻ này mới thiệt mạng. Thế nên tôi mới dễ dàng chấp nhận đề nghị đưa anh xuống dưới này, để anh được tận mắt chứng kiến thi thể. Có thể nó sẽ dạy cho anh một bài học.”

“Tôi xin xuống dưới này không phải vì ăn năn hối lỗi,” Manning lặng lẽ đáp. “Mà cũng chẳng phải vì tính tò mò bệnh hoạn. Ông hiểu nhầm tôi rồi. Chuyện là… à, kể từ lúc nghe tin, tôi cứ bị một cảm giác bất an đeo bám, không tài nào rũ bỏ được.”

“Anh thấy thế là đúng rồi,” Robles nghiêm nghị nói.

“Không, ông vẫn không hiểu ý tôi.” Anh bối rối đưa một tay lên vuốt tóc. “Ông có chắc là sinh vật kia, như cách ông gọi nó, là thủ phạm không?”

Ban đầu Robles nhìn anh đầy kinh ngạc, sau đó chuyển sang một vẻ mặt gần như là khinh miệt. “Anh định bảo nó không phải là thủ phạm sao? Ha, anh vừa mới chứng kiến tận mắt đấy thôi. Ngoài bộ móng vuốt của con quái thú ấy ra, còn thứ gì có thể gây nên những thương tích kinh khủng như thế? Cô gái bị cào xé tả tơi. Không, riêng chuyện đó thì chúng tôi không nghi ngờ gì cả, bởi còn gì để mà nghi ngờ nữa chứ? Tôi có thể đưa anh qua phòng thí nghiệm của cảnh sát, để anh nói chuyện với nhân viên ở đó. Họ phát hiện được trên thi thể cô gái mấy mẩu lông tơ giũ ra từ thân mình con vật. Hiện bọn tôi vẫn đang lưu giữ chúng. Anh còn đòi hỏi gì hơn thế nữa?”

“Không gì cả,” Manning thừa nhận, mắt cụp xuống. “Tôi không đòi hỏi gì cả. Nhưng tại sao tôi cứ có cái cảm giác không thỏa mãn…?” Anh bỏ dở câu nói.

“Cô gái… Con báo có tìm cách…?” Manning ấp úng hỏi ngay sau đó.

Không chút chần chừ, Robles nói nốt hộ anh với chất giọng tỉnh rụi của một điều tra viên chuyên nghiệp. “Anh đang định hỏi là cô gái có bị ăn thịt không à? Không. Không rõ liệu chúng có ăn thịt người hay không? Tôi không hiểu lắm về loài báo, phải hỏi ông quản lý sở thú mới biết được. Nhưng dẫu sao thì vẫn có lý do để con vật không làm như thế. Chuyện xảy ra ngay bên ngoài cửa nhà, mẹ cùng em trai cô gái nghe thấy rất rõ, họ liền chạy vội ra. Hẳn con quái thú đã bị dọa chạy mất trước khi nó kịp… hoàn tất mục đích của mình, nếu nó thực sự định làm thế, như tôi vừa nói.”

“Thế có ai trông thấy nó chưa?” vẫn chưa vừa lòng, Manning bèn hỏi tiếp. “Đó là điều tôi muốn biết. Nếu chuyện này xảy ra ngay trước cửa nhà cô gái và có nhiều nhà khác xung quanh, có ai tận mắt trông thấy nó không? Đáng ra phải có người ngó ra ngay khi cô gái hét lên.”

“Ồ, hoặc có ai tận mắt trông thấy, hoặc nó không tồn tại, phải vậy không? Đây là một lý luận rất liều lĩnh khi thực hiện điều tra, anh có nghĩ vậy không? Quanh đấy toàn những căn nhà ổ chuột của đám người nghèo, anh biết chúng như thế nào rồi đấy. Mấy túp lều lụp xụp với một hai căn phòng, hầu hết không có cửa sổ, chỉ một cửa ra vào trước nhà. Đến lúc họ bắt đầu rụt rè thò đầu ra ngoài thì chuyện đã kết thúc. Vài người nhận là có nhìn ra, đúng lúc thấy một hình bóng đen thui lẩn vào góc quanh cuối ngõ. Khả năng họ thấy thật, hoặc cũng không thấy. Chuyện ấy khác gì đâu chứ?”

“Không phải tôi nghi ngờ việc con báo đã tấn công cô gái,” Manning lưỡng lự nói. “Tôi không có giả thuyết gì về vụ này cả. Tôi không phải là một thám tử, chỉ là một đại diện truyền thông vừa thất nghiệp. Có điều… chỉ là… tôi vẫn cứ có cảm giác quái lạ, như ban nãy tôi đã nhắc đến, rằng vụ này không đơn giản như vẻ ngoài.”

“Không đơn giản như vẻ ngoài? Nó còn phức tạp đến đâu được nữa?” Robles đáp trả. “Nó còn cần phức tạp đến thế nào anh mới vừa lòng?”

Manning lúng túng bóp phần da sau gáy. “Bản thân tôi cũng không biết. Tôi không tài nào giải thích được. Nhưng thật tình mà nói, ông không thấy chuyện kỳ lạ, thậm chí gần như là phi thường, khi một sinh vật hoang dã, một loài thú rừng to lớn và dễ thấy như con báo này, lại có thể ẩn náu trong một thành phố lớn vậy suốt từng ấy thời gian mà không bị phát hiện và hoàn toàn thoát khỏi tầm mắt người dân? Đây không phải là một ngôi làng tọa lạc trên đồi và ngay sát rừng rậm. Đây là thành phố lớn thứ ba Nam Mỹ. Hiển nhiên là nó không rời thành phố rồi quay trở lại đây. Nó đã ở đây suốt từ lúc đó đến giờ. Nhưng ở đâu? Trốn kiểu gì?”

Robles mím môi đồng tình phần nào và gật đầu, “Đây là chuyện chưa từng có tiền lệ, cũng là chuyện không thể tin nổi, nhưng… không thể phủ nhận là nó đã xảy ra, đúng không? Con vật vẫn chưa bị bắt lại, xác nó vẫn chưa được tìm thấy. Thế tức là nó vẫn còn sống. Thế là đủ hợp lý rồi. Anh bạn có nghĩ thế không, hở Manning?”

“Nhưng con báo náu ở đâu, nó trốn đi đâu vào ban ngày, nó tìm chỗ trú ngụ ở đâu cơ chứ? Hãy nhớ là nơi này được xây dựng hoàn toàn từ đá. Nhựa đường, đá cuội, vỉa hè xi măng, nhà xây bằng đá. Ở đây không có cây cối ngoại trừ khu Bosque, một vài quảng trường nhỏ và công viên. Con báo đi đâu được cơ chứ? Hàng ngàn người bao vây lấy nó suốt ngày đêm. Người ta thấy nó chạy vào Callejon de las Sombras (Hẻm Tối) vào lúc 6 giờ trong một buổi chiều nọ, với một đám đông bám theo sát nút. Bùm! Nó biến mất. Kể từ đó không ai thấy tăm tích con vật đâu. Nó không chui ra đầu hẻm bên kia. Cảnh sát và sở cứu hỏa đã lùng sục từ đầu đến đuôi mọi căn nhà bên trong ngõ hẻm đó vẫn không thấy bóng dáng nó đâu. Giờ thì đến lượt cô gái trẻ măng này bị xé xác ở tận khu lao động Barranca, cách đó nửa thành phố. Sao nó mò được ra đó mà không bị ai phát hiện?”

Robles chỉ có thể đáp lại thế này, “Đúng là sự việc thật đáng kinh ngạc. Chẳng ai dám chắc được chuyện gì đã xảy ra? Có thể con vật lách xuống một miệng cống và bò trong đường ống thoát nước chạy ngầm bên dưới thành phố. Trong phần lớn đường ống, nước không đủ sâu để làm nó chết chìm. Còn lời đề xuất lố bịch của một người đứng xem vào cái đêm nó biến mất, có khi cũng không lố bịch đến vậy. Biết đâu con báo lại chẳng trốn vào sau một chiếc xe tải hay xe chở hàng nào đó đỗ ở Callejon, rồi người tài xế ngây thơ lái xe đi. Đến bến đỗ tiếp theo, nó lại chui tọt ra ngoài mà không bị ai phát hiện.”

“Ôi trời ơi!” Manning nôn nóng vung tay. “Giờ tôi sẽ nói thế này. Đây là vấn đề mới nhé: Con báo sống dựa vào cái gì trong vòng mấy ngày mấy đêm vừa qua? Nó kiếm đồ ăn và quan trọng hơn cả là nước uống ở đâu?”

“Mấy con vật hiền lành hơn, chẳng hạn như lũ chó mèo hoang, kiếm đồ ăn thức uống ở đâu? Từ các bãi rác, từ các vũng nước, từ các mép sông.”

“Ừ, nhưng người ta có trông thấy chúng.”

“Làm sao mà chúng ta biết được rằng con vật chưa bị người khác bắt gặp? Có thể hơn một lần, do đứng cách xa hay núp trong bóng tối, nó bị nhầm thành là một con chó đen to lớn nào đó? Còn những cách khác cho nó xoay xở kiếm ăn, những cách chúng ta không cần bàn luận quá sâu. Chó mèo vô chủ, thằn lằn leo lên leo xuống mấy bức tường nứt, chuột dưới ống cống…”

Manning vô thức quay đầu đi trong một thoáng. Thế rồi anh quay lại, tiếp tục hỏi, “Tại sao trong lần thứ hai này, ta lại không thể dễ dàng theo dấu và gần như dồn con báo vào chân tường như lần đầu? Tại sao các ông vẫn để sổng mất nó? Bộ vuốt, đệm chân, lớp lông quanh bụng con báo hẳn phải thấm đẫm máu sau một vụ tấn công như thế…”

“Đúng là ở gần hiện trường có vô số vết chân dính máu, thậm chí cả mấy dấu máu nhỏ. Tuy nhiên, chẳng vết nào trong số ấy dẫn đi xa được cả. Đất cát và bụi trên vỉa hè hẳn đã mau chóng khô lại và phủ kín bàn chân con vật. Sau đó lại có quá nhiều người đổ xô ra đi lại khắp nơi, xóa bỏ mọi thứ trước khi chúng tôi kịp ra đến nơi.”

“Cứ mỗi lần tôi đưa ý kiến phản bác, ông lại có sẵn một câu trả lời. Nhưng cho dù là vậy, ông vẫn chưa thể loại bỏ được hoàn toàn cảm giác không hài lòng của tôi. Trong ngôn ngữ mẹ đẻ, bọn tôi gọi đây là ‘linh cảm’. Có thứ gì đó không hợp lý. Toàn bộ vụ này có một điểm đáng ngờ cơ bản mà tôi không thể dễ dàng chấp nhận như người dân ở đây.”

Viên thanh tra mỉm cười chán nản, vỗ lên vai anh với vẻ thấu hiểu. “Thú thật đi, Manning! Có phải lương tâm anh đang cảm thấy tội lỗi? Anh thấy bản thân là nguyên nhân gián tiếp, tiếp tay cho con quỷ bốn chân này có dịp tác oai tác quái? Bởi thế nên anh cứ liên tục đưa ra các phản biện mơ hồ, nghi ngờ không đâu về những vấn đề đã rõ như ban ngày? Tất nhiên là thế! Anh muốn tin rằng con báo không phải là thủ phạm gây ra chuyện này để cho tâm trí được thanh thản. E là tôi không thể giúp anh vụ này được. Các ống nghiệm của chúng tôi, các thấu kính hiển vi mạnh mẽ của chúng tôi, các chất thuốc thử và phép phân tích của chúng tôi, tất cả đều đã vào cuộc và đưa ra các bằng chứng không thể chối cãi. Các báo cáo của chúng tôi được soạn thảo dựa trên đó và có thể minh chứng bằng những nghiên cứu khoa học dùng làm nền tảng. Chúng tôi không hề phỏng đoán khi nói nọ nói kia. Tất cả những điều mà anh nghĩ ra, chúng tôi cũng đã nghĩ đến rồi. Không phải lo, chúng đã được cân nhắc và… loại bỏ. Kết quả chúng tôi tìm được là: Teresa Delgado bị một con báo tấn công và cào chết bên ngoài cửa nhà mình trong ngõ hẻm Pasaje del Diablo, lúc 1 giờ 15 phút sáng thứ Năm, ngày 14 tháng Năm. Chẳng có gì cần phải thêm thắt nữa.”

“Trừ khi con báo lên tiếng,” Manning lạnh lùng nói.