← Quay lại trang sách

CONCHITA CONTRERAS

Senora Viuda de Contreras nhấc đầu dậy khỏi gối đầy cảnh giác. Tiếng chân bước trên hành lang lát gạch bên ngoài căn phòng để cửa mở đã đánh động bà. Âm thanh nghe ngập ngừng, như thể đôi chân không rõ nên giậm hẳn xuống sàn hay nên rón rén trên hai mũi chân.

“Có phải con đó không?” Bà gọi vọng ra.

Senora Viuda đang nằm dài trên một cái ghế bành để dưỡng bệnh. Dạo gần đây, người phụ nữ xinh đẹp và oai nghiêm này thường xuyên rơi vào tình trạng ấy. Cặp lông mày không nhổ, rậm và đen nhánh như hai vệt than, khiến khuôn mặt bà lúc nào cũng mang dáng vẻ thanh thản. Những đường ngang thẳng tắp luôn có công dụng vậy đấy. Mái tóc huyền hãy còn dày, mới chỉ bạc đi ở bên hai thái dương, nhìn hệt như lông đuôi một con gà giò, bóng loáng và được uốn thành những lọn cong nho nhỏ. Chiếc khăn tay tẩm nước hoa gấp gọn rồi đắp ngang trên trán là thứ duy nhất giúp bà chống chọi với cơn bệnh. Bà không phải hạng người sợ sệt bệnh tật và suốt ngày rên rỉ. Đau đớn là thứ mà mỗi người nên giữ riêng cho mình và chỉ chia sẻ với Chúa.

Sau khi nghe bà hỏi, bước chân kia quyết định giậm hẳn xuống sàn. Hoặc nói đúng hơn là bước tiếp theo giậm xuống, bước ban nãy là sự đã rồi. Thêm một vài bước hơi miễn cưỡng, và rồi một thiếu nữ xuất hiện bên ngưỡng cửa. Hầu hết các cô gái đều xuân sắc rực rỡ ở độ tuổi mười tám, với nàng thì điều đó lại càng đúng. Đến cả bộ tang phục tối màu phủ kín thân mình, thậm chí cả tấm mạng mỏng manh tựa làn khói cũng không thể làm lu mờ nhan sắc ấy. Nàng lặng lẽ đứng nhìn người phụ nữ hiền lành đang duỗi người trên ghế, người có khả năng nhận biết được những bước chân nhẹ nhàng nhất. Đôi khi, dường như bà còn nhìn thấu được cả những suy tư sâu kín nhất.

“Con làm mẹ tỉnh giấc à, mamacita (thưa mẹ)? Giờ mẹ đã thấy đỡ hơn chưa?”

Senora Viuda với sang chiếc bàn bên cạnh, xòe cái quạt xếp nhỏ đen bóng, bắt đầu phe phẩy. Hành động này không liên quan gì đến nhiệt độ căn phòng mà thật ra, nó là dấu hiệu cho thấy sắp diễn ra một màn tra hỏi. Một màn tra hỏi dông dài và kỹ lưỡng. Cặp lông mày vẫn thẳng đuột như thước kẻ.

“Ngồi xuống một phút đi, Conchita mia (Conchita của mẹ). Ra đây, ngồi cạnh mẹ nào.”

Conchita tiến về phía trước, dịch một cái ghế ra, đoan trang ngồi xuống mép ghế.

“Thế, đúng rồi.” Cái quạt tiếp tục phe phẩy nhẹ nhàng. Thiếu nữ dịch cả hai cổ chân xuống dưới gầm ghế.

“Nói mẹ nghe đi, hija (con gái).”

Một khoảng lặng xuất hiện, chỉ có cái quạt là vẫn còn chuyển động. “Con đang định ra nghĩa trang All Saints để thăm mộ ba đúng không?” Cuộc tra hỏi đã bắt đầu.

Nàng ngẩng lên khỏi mấy ngón tay nãy giờ cứ vặn vẹo. “Hôm nay là ngày đặt tên của ba[15]. Mình không nên để kệ nó trôi qua. Bởi vì mẹ bị ốm, con nghĩ là có thể mình sẽ…”

Senora Viuda gật đầu đầy nhân từ. “Một cô con gái ngoan ngoãn sẽ không lãng quên người ba đã mất của mình. Cô ấy sẽ thường xuyên thăm viếng người đã khuất và đặt hoa tươi lên ngôi mộ ấy. Như thế mới phải đạo.” Cái quạt đung đưa đều đều. “Lần chót con ra mộ ba là khi nào?”

“Tuần trước, hình như thế… con không nhớ chính xác. Tại sao mẹ lại hỏi vậy, mamacita (thưa mẹ)?”

“Mẹ chỉ đang băn khoăn thôi. Mẹ không hiểu tại sao tự nhiên con lại nhiệt tình thế, tình cảm thế và có thể nói là locura (điên rồ) đến thế.”

Cái quạt khép lại, chĩa thẳng lên trời, sau đó lại hạ xuống, xòe rộng và tiếp tục phe phẩy.

“Mẹ không thích chuyện này. Ở tuổi con, như thế là không ổn. Thế là trái tự nhiên. Đâu phải ba con mới rời xa chúng ta ngày hôm qua. Giờ đã là 5 năm rồi, cầu cho ông ấy được yên nghỉ. Hồi đó con mới chỉ mười ba và rất yêu quý ông ấy. Con đã đau khổ vô cùng. Bueno (Không sao cả). Thế rồi, đúng với bản chất người trẻ, mọi chuyện qua đi. Con lại giống mọi đứa con gái khác cùng trang lứa, thích đi coi cine (phim ảnh) vào chiều Chủ nhật, thỉnh thoảng mua một helado (que kem) từ hàng bánh kẹo, đại loại như thế.

“Giờ, bất chợt nỗi buồn đau bi thảm này xâm chiếm lấy con, khiến con gạt đi mọi mối quan tâm khác. Mẹ thấy con rầu rĩ hàng giờ liền, gần như phát điên. Con ra nghĩa trang All Saints bao lần cũng chưa thỏa, ở lại bao lâu vẫn không đủ. Con không ăn uống hay ngủ nghê được gì, không thể nghĩ được đến ai ngoài người đã khuất. Như thế thật không lành mạnh, thật quá sầu thảm.”

Cái quạt không ngừng lại dù chỉ một giây. Bài độc thoại ấy cứ tiếp diễn, mang một vẻ kiên quyết đầy dịu dàng, không tăng âm lượng, không đe dọa, không ra lệnh gì hết. Chỉ nêu ra sự thật mà thôi.

“Chuyện này phải ngừng lại ngay lập tức. Con không được ra nghĩa trang nữa. Làm thế là không bình thường. Mẹ không thể hiểu nổi. Ở độ tuổi này, con không nên nghĩ về thế giới bên kia liên miên như thế.”

Thiếu nữ nhìn mẹ với ánh mắt cầu khẩn như sắp rơi lệ đến nơi. “Chỉ một lần nữa thôi, madrecita (mẹ yêu). Chỉ nốt hôm nay thôi, sau đó con sẽ không đi thăm mộ nữa, nếu mẹ ra lệnh như vậy.”

“Được rồi, chỉ một lần nữa thôi. Vào ngày mai. Ngày mai, khi đã khỏe hơn, mẹ sẽ đích thân đưa con ra đó, nếu con nhất quyết muốn đi.”

Conchita trông có vẻ bối rối, gần như là hoảng sợ khi nghĩ đến lời đề nghị ấy. “Nhưng hôm nay là ngày đặt tên thánh của ba! Chỉ lần này thôi mà. Mẹ nhìn xem, con đã chuẩn bị sẵn sàng để lên đường rồi. Giờ đã hơn 4 rưỡi. Con có thể chạy ào đi rồi quay lại ngay. Chỉ thêm đúng lần này nữa thôi…”

Senora Viuda lắc đầu e ngại, hòa cùng điệu phất tay của cái quạt. “Chỉ cần quá một lần thôi là chuyện cũng trở nên tai hại rồi, con gái của mẹ à. Có khi lần này sẽ là giọt nước tràn ly đấy, biết đâu được? Đừng đi, hãy nghe mẹ đi con. Ban nãy mẹ vừa gặp phải một giấc mơ mà mẹ không thích chút nào.”

Thiếu nữ thoáng tỏ vẻ quan tâm. “Về con sao? Mẹ mơ thấy gì vậy ạ?”

“Chỉ đơn giản là mẹ nghe thấy giọng con gọi mẹ từ một nơi tối tăm nào đó, thế mà mẹ không tài nào đến được chỗ con.”

Nàng khúc khích cười xòa. “Chỉ vậy thôi ạ? Hồi ở trường, các nữ xơ toàn dặn bọn con là không được tin vào những thứ như thế.”

Senora Viuda không coi nhẹ tín ngưỡng, nhưng bà lẩm bẩm một câu nghe giống như “Các xơ có phải là những bà mẹ không?”

Bà tiếp tục phẩy quạt, vẫn chưa chịu ưng thuận. “Ở nhà đi con,” bà nài nỉ. “Ở nhà, bên trong bốn bức tường ấm cúng, nơi con thuộc về. Hãy đọc sách hay khâu vá, ngồi cạnh mấy chấn song cửa sổ, nhìn ra ngoài đường, mơ những giấc mộng của một thiếu nữ. Hoặc ra sân hiên sau nhà, ngồi đó tắm mình trong ánh ráng chiều, ngắm nghía hình bóng của mình trong làn nước, chải một kiểu tóc tân tiến ngớ ngẩn nào đó. Ở đây thì chuyện tệ nhất có thể xảy đến với con là gì? Chỉ là thời giờ như dài hơn thôi. Thời gian trôi đi quá chậm còn hơn là quá nhanh. Ngày mai chúng ta sẽ ra ngoài chơi, mua cho con thứ gì đó ở cửa hàng, nhấm nháp chút refresco (nước giải khát), ngồi ngắm đám đông túm tụm bên các bàn xung quanh…”

Bà thở dài. Ngay cả khi con gái chưa kịp đáp lời, bà đã nhận ra những gì mình nói chẳng có tác dụng gì hết.

“Nếu con thực sự mong mỏi thì cứ đi đi,” bà miễn cưỡng nhân nhượng. “Nhưng hôm nay sẽ là lần cuối cùng.”

Thế rồi khi thiếu nữ vừa mới dợm đứng dậy, lòng vui sướng vì đã được phóng thích, một động tác quạt khiến nàng phải đứng sững lại.

“Và mẹ muốn con hiểu một điều. Con không được ra đó cùng Rosita nữa.”

Conchita sững sờ. “Nhưng con không thể đi một mình được! Còn ai có thể…?”

“Mẹ không tin Rosita. Con bé ham vui đó chỉ lớn hơn con có vài tháng tuổi, không phải một người đồng hành thích hợp! Đáng ra mẹ phải cấm từ lâu rồi. Chẳng hiểu từ trước đến giờ mẹ nghĩ cái gì nữa. Nếu con muốn ra khỏi nhà, bác Marta sẽ đưa con đi.”

Nghe đến đây, một vẻ kinh hãi không giấu giếm nổi hiện lên trên gương mặt thiếu nữ. Trước khi nàng kịp đáp lời, có tiếng điện thoại vọng lại khe khẽ từ một căn phòng xa xăm nào đó.

“Rosita!” Bà chủ nhà gọi.

Sau một lúc chờ đợi mà xem chừng là người được gọi chỉ giả vờ chạy từ chỗ khác đến, một cô giúp việc trẻ tuổi ưa nhìn xuất hiện trước ngưỡng cửa, đầu đã quấn sẵn một tấm khăn choàng. Trước đó, ngoài hành lang không vang lên bất cứ tiếng bước chân nào.

“Sí, Senora? (Vâng, thưa bà?) ”

“Vừa nãy ai gọi điện đấy?”

“Hẳn nhân viên tổng đài đã nhầm lẫn. Lúc cháu nhấc ống nghe lên thì không thấy ai trả lời, chẳng có người nào ở đầu dây bên kia cả.”

Cặp lông mày nằm ngang của Senora Viuda hơi cong lên, sau đó lại duỗi ra.

“Thỉnh thoảng nhà mình vẫn hay nhận được mấy cuộc gọi như thế. Cháu cởi bỏ khăn choàng được rồi đấy, Rosita,” bà thờ ơ nói thêm, “cháu sẽ không phải ra ngoài đâu.”

Cô giúp việc đưa tay lên chiếc khăn, các ngón tay nấn ná trên mặt vải như thể đang hi vọng mệnh lệnh ấy sẽ được hủy bỏ. “Nhưng Senorita Conchita muốn cháu cùng với cô ấy đi…” Cô ta đáp, giọng hổn hển đến kỳ lạ.

“Gọi Dona Marta đi, bác ấy sẽ đi với Conchita thay cháu.”

Cặp mắt đen láy của cô ta nhìn chăm chăm vào gương mặt bà chủ, như thể chúng rất muốn nhìn sang một người khác trong phòng nhưng bị giữ cứng lại. Cô ta khẽ nhún đầu gối, “Sí, Senora (Vâng, thưa bà),” sau đó biến mất khỏi ngưỡng cửa.

Senora Viuda quay lại với con gái. Bấy giờ nàng ngồi như một con chiên đang sám hối, mắt cá chân thứ hai rút hẳn vào dưới ghế và nhập bọn với bên còn lại, cả hai tay đang bận rộn hết vần vò lại vuốt phẳng phần váy phía trên đầu gối. Cảm thấy ánh mắt của mẹ đang săm soi mình, thiếu nữ ngước lên qua cặp mi dài, xác nhận, rồi cụp mắt xuống.

Bà mẹ lại cất giọng nói nghiêm nghị đầy quyền uy mà hiền dịu đến lạ kỳ, “Lại đây một phút đi con gái.”

Conchita đứng dậy, bước sang bên cạnh cái ghế bành, ngồi xuống ngang tầm mắt mẹ. Cái quạt cuối cùng cũng đã ngưng phe phẩy. Suốt quãng thời gian còn lại của buổi tra hỏi, nó được đặt gọn sang một bên.

Senora đưa tay ra, mấy đầu ngón tay vươn về phía cằm con gái và nhẹ nhàng đỡ lấy nó. Bà ngờ vực nhìn thẳng vào mắt nàng.

Cặp mắt thiếu nữ không có lấy một chút xao động, chúng như những viên pha lê tinh khiết, do sự ngây thơ kết tinh lại mà thành.

“Con biết không, không phải mẹ sinh ra đã là một phụ nữ trung niên, một góa phụ như con thấy bây giờ. Mẹ cũng đã từng là một thiếu nữ trẻ trung và từ đó đến nay cũng chưa nhiều năm trôi qua đâu. Hijita de mi alma (Con gái yêu của mẹ), hãy khắc cốt ghi tâm điều này. Bất cứ việc gì con nghĩ trong đầu thì mẹ cũng từng nghĩ trước con rồi. Bất cứ việc gì con làm thì mẹ cũng từng làm trước con rồi. Cả bà ngoại hay bà cố của con cũng thế. Phụ nữ chẳng có gì mới hết. Mẹ biết hết, mẹ hiểu hết.”

“Biết gì vậy, madrecita (mẹ yêu)?” Câu hỏi được thở ra khẽ khàng đến mức gần như không nghe thấy gì hết.

Senora Viuda âu yếm hôn lên vầng trán con gái yêu như lệ thường, sau đó bà đặt lên môi nàng một nụ hôn còn trìu mến hơn.

“Con là một thiếu nữ ngọt ngào. Con như ánh dương buổi sớm trên bầu trời chiều ảm đạm của mẹ. Con sẽ chẳng bao giờ gây nên những việc không thể tha thứ nổi. Chỉ là trên đời có những chuyện ngay thẳng và có những chuyện sai trái. Con hãy còn non nớt, trong khi thế giới này thì già dặn rồi. Khi con trưởng thành hơn chút nữa, mẹ không muốn con phải xấu hổ lúc nhìn lại những năm tháng tuổi trẻ, mình đã hành xử dễ dãi và lố lăng thế nào. Nếu có ai đem lòng quyến luyến con thì người ấy cần đến nhà ta, theo đúng tập tục của chúng ta. Tốt hơn là một người do mẹ, chú Felipe, hay một người họ hàng lớn tuổi nào đó, giới thiệu với con.”

“Mamacita, con không hiểu ý mẹ…”

Senora Viuda phẩy tay một cách khoan dung. “Mẹ chưa nói gì hết. Chỉ là tâm can mẹ đang giãi bày với tâm can con thôi. Giờ hãy đi đi nếu lòng con đã dứt khoát, đi với bác Marta và nhớ về nhà ngay. Mặt trời sắp sửa lặn rồi, thế nên đừng có nhẩn nha…”

Mặc dù không hề nhảy bật dậy, nhưng chưa gì Conchita đã đến bên khung cửa đang rộng mở, hệt như vừa được giải phóng khỏi xiềng xích.

Khi ra tới ngưỡng cửa, nàng quay lại trong một khắc. “Madre mía (Mẹ của con), mẹ vừa bảo gì cơ?”

“Không có gì đâu. Con cứ đi đi.”

Điều Senora Viuda vừa mới thốt thành lời, phần nào là tự lẩm bẩm cho bản thân nghe, kèm theo một tiếng thở dài cam chịu, “Chẳng ích gì đâu. Từ thuở xa xưa đã như thế và mãi về sau cũng sẽ như vậy. Không ai có thể thay đổi thế giới.”

Ngoài hành lang, Conchita đi ngang qua chỗ Rosita. Hai người bước qua nhau như thể hoàn toàn không để ý đến sự hiện diện của nhau, hay ít nhất là họ đang cố gắng ra vẻ như thế. Cô tiểu thư thì thầm, “Mẹ sẽ cho bác Marta đi cùng em, em phải làm gì bây giờ?”

Cô giúp việc đưa tay trái ra sau và nắm lấy tay thiếu nữ lúc nàng đi ngang qua, như thể đang động viên tinh thần đối phương.

Conchita nhìn xuống. “Cái gì đây?”

“Đừng sợ, nó sẽ chỉ khiến bà ta trở nên lờ đà lờ đờ thôi.”

“Em phải làm ư? Em không làm được đâu!”

Cô giúp việc đưa cả hai tay ra phất lia lịa, quả quyết trấn an thiếu nữ.

“Nó sẽ không gây hại cho bác ấy chứ?” Conchita thì thào đầy áy náy.

“Chẳng có gì ghê gớm cả, chỉ là một loại thảo mộc mọc trên núi mà chị mua từ một tay người Ấn ở ngoài chợ. Chị đã tự dùng thử rồi. Nó chỉ khiến cho… Suỵt! Bà ta đến kìa.”

Họ lại tiếp tục di chuyển.

Một bà cô luống tuổi, tầm khoảng sáu mươi, đầu đội khăn sẵn sàng xuống phố, đang tiến vào hành lang.

“Con đã chuẩn bị xong chưa, bông hoa của bác? Con đã chào mẹ mình chưa?”

Sau đó bác ta nạt nộ đầy cáu kỉnh với Rosita, “Vào trong kia hầu hạ Senora đi, con nhỏ vô dụng! Có thể bà chủ sẽ cần nhờ mày làm việc gì đấy.”

Conchita lách qua chỗ bác ta. “Bác đợi cháu ở cửa nhé. Cháu quay về phòng đúng một giây thôi.”

Thiếu nữ dừng lại trước tấm gương trong phòng, bồn chồn ngắm nghía bản thân như thể muốn đảm bảo mình phải trông thật lộng lẫy để gây ấn tượng với người đang yên nghỉ trong nghĩa trang. Nàng mở tung một ngăn kéo, lôi một thỏi son từ chỗ giấu bí mật ra, vội vã quệt nó lên môi. Rồi nàng lại hạ tấm mạng xuống trước mặt, che khuất đi nét trang điểm mình vừa thực hiện, và nhanh chóng quay lại hành lang để gặp người đồng hành bây giờ.

Bác gái Marta đã gọi một xe ngựa đến trước cửa và ngồi đợi sẵn trong đó. Có vẻ bác ta thấy việc dùng xe chạy xăng tới nghĩa trang thật không đúng mực.

“Đến chợ hoa!” Bác ra lệnh cho ông đánh xe ngay khi thiếu nữ mảnh mai mang mạng che mặt đã leo lên ngồi cạnh mình.

10 phút sau, sau khi chạy qua một vài con phố hẹp móc nối quanh co, họ ra đến một khu chợ nhỏ nằm trước một nhà thờ khổng lồ sơn màu hồng đất, được thiết kế theo phong cách kiến trúc của thực dân Tây Ban Nha. Điểm nổi bật của nó là những bậc thềm rộng bằng đá đã mòn vẹt dẫn lên nhà thờ chính, trải kín toàn bộ chiều ngang của khu chợ. Ngoài một lối đi hẹp nằm chính giữa dẫn thẳng lên cổng nhà thờ, mấy bậc thềm thênh thang gần như chìm nghỉm dưới một thảm hoa đa sắc màu và liền mạch, chen giữa đó đây là một vài mái bạt. Phải nhìn thật kỹ thì mới thấy nó được chia thành các ô mua bán nhỏ, mỗi ô do một thương lái cai quản.

Một số người dựng quầy hàng di động, cột căng vải bạt hoặc chiếu rơm để ngăn ánh nắng mặt trời chiếu vào mấy món hàng dễ héo của mình. Những người không đủ tiền làm vậy thì chỉ đơn thuần ngồi xổm trong các khung vuông trống trên bậc thềm, hàng hóa bày biện khắp xung quanh, buộc lại thành bó hoặc cụm, cắm trong mấy bình đất sét chứa đầy nước.

Bầu không khí hăng hăng một thứ mùi khó tả, cấu thành từ dương xỉ, lá nát, cánh hoa và thân hoa bị bầm giập và giày xéo. Nồng đậm hơn tất cả là mùi mằn mặn kỳ quái bốc lên từ những phiến đá lát lâu đời thấm đẫm nước cả ngày mà không có thời gian khô đi. Thứ mùi này là sự pha trộn cân bằng giữa sức sống xanh tươi đang nở rộ và tình trạng héo rữa tù đọng. Nơi đây chính là chợ hoa, ngày nào cũng mở tại đúng vị trí này suốt hai trăm năm qua, từ lúc bình minh cho đến khi mặt trời xế bóng.

Đến chân bậc thềm, người hộ tống của Conchita chui ra khỏi xe rồi quay đầu lại hỏi, “Bác nên mua loại hoa nào?”

Thiếu nữ cũng xuống xe cùng bác ta. “Cháu sẽ đi cùng bác. Cháu muốn được tự tay lựa chọn.”

Marta dợm phản đối là không cần thiết phải làm như thế, rằng mình sẽ làm hộ nàng, nhưng Conchita đã vượt lên trước. Nàng chậm rãi bước dọc lối đi chính, nhìn ngó xung quanh, bị một tràng những tiếng mời chào inh tai, ngon ngọt, hoa mỹ và nịnh nọt ập đến từ cả hai bên đường, đeo bám theo nhịp bước chân. Thế rồi chúng lại thất vọng tắt ngấm đi sau lưng thiếu nữ ngay khi nàng ra khỏi tầm với, tiến vào ô bán hàng kế bên. Mấy bàn tay rướn về phía Conchita, nài nỉ níu áo váy nàng, tất cả đều bị Marta gạt phắt đi, đành phải hạ xuống.

“Ra đây nào, nina (cô gái), mấy bông hồng đang vẫy gọi em đó!”

“Nhìn này, chiquita (cô bé), hoa cẩm chướng đang van nài được mua đấy. Chỉ 10 centavito. Thôi thì 5 centavito đi. Cháu muốn giá nào cũng được. Chỉ cần mua chúng thôi, mua đi!”

Giờ đã muộn và chợ đã sắp hết phiên.

Marta dừng lại, “Chỗ hoa này được không, nina (cô gái)?”

Conchita liếc quanh, vẫn không ngừng leo tiếp. “Không, mình lên trên đỉnh này đi. Cháu luôn mua hoa từ quầy cuối.”

Thực tình mà nói, quầy hàng nàng vừa chỉ tay có ít chủng loại hơn nhiều gian hàng mà họ đã đi qua. Chủ quầy là một bà lão với gương mặt hằn nhiều nếp nhăn mảnh, trông như có ai đem màn chống muỗi ra vẽ lên mặt bà vậy.

“Cho cháu mấy bông này.” Conchita cầm lên một bông hồng bạch và đưa lên sát tấm mạng che mặt, hít vào một hơi khiến nó lõm nhẹ xuống.

“Sí (Vâng), thiên thần, si (được)!” Bà bán hàng lắp bắp đáp, vội vã gom hoa lại. “Hoa hồng trắng, vừa xinh mà lại vừa trẻ trung như cháu vậy.”

“Cả hoa dành dành nữa,” Conchita chỉ.

Marta chìa tay ra đón lấy mớ hoa không thắt dây. “Để bác cầm cho, chúng cào rách váy áo con mất.” Bác ta đưa cho bà lão một đồng xu, sau đó quay người lựa chân bước xuống bậc thềm trơn trượt.

Tuy nhiên, bà bán hàng vẫn chưa thấy thỏa mãn. “Nhìn này, một cụm hoa violet trắng cho cùng bộ. Chỉ còn mỗi chừng này thôi.”

Bà lão đặt một ngón tay lên cạnh mũi đầy ngụ ý mấy giây, mắt liếc về phía người hộ tống của thiếu nữ. “Bà giữ lại cho cháu cả ngày hôm nay rồi. Miễn phí! Bà sẽ tặng cháu miễn phí!” Bà lão kéo váy nàng hai lần, cứ như thể nó là một sợi dây chuông.

Thiếu nữ đỡ lấy chúng rồi theo chân người đồng hành của mình bước xuống thềm, ấp cụm hoa sát mặt. Chúng được bó lại bằng một thứ lá lớn. Trước khi quay vào trong xe, nàng đã kịp rút một mẩu giấy gấp nhỏ buộc quanh cuống hoa. Nàng mở nó ra bằng một bên tay, hạ thấp xuống khuất tầm mắt Marta và đọc nó trong lúc họ lắc lư băng qua các tuyến phố hẹp ngoắt ngoéo thất thường ra nghĩa trang.

Mẩu giấy chỉ ghi vài chữ. Một lời nhắn nhủ đã quá xưa cũ, chẳng nói lên điều gì hết, nhưng lại nói lên tất cả.

Tình yêu dịu ngọt của đời anh. Hôm nay em lại ra chỗ hẹn chứ? Anh sẽ đợi. Cả tuần nay anh đếm từng giờ rồi, kể từ lần gặp mặt trước. Tình yêu dịu ngọt của đời anh, hãy rủ lòng thương xót kẻ si tình này.

Bằng cách nào đó, Conchita đã xoay xở gập được mẩu giấy lại, luồn nó vào trong găng tay chỉ bằng một ngón cái. Thế rồi nàng lại ấp mặt vào cụm hoa violet. Như Senora Viuda đã nói, không ai có thể thay đổi thế giới.

Cỗ xe ngựa ra khỏi khu phố cổ với những con đường lát sỏi vòng vèo quanh co, nơi những gia đình danh giá và thủ cựu như nhà nàng cư ngụ. Họ đi vào một trong những khu bán ngoại ô mới, chỗ ở ưa thích của dân ngoại quốc và những người giàu thích phô trương, học đòi theo lối sống nước ngoài. Những người này thậm chí còn để cho con gái của mình ra khỏi nhà mà không có phụ nữ lớn tuổi đi kèm. Hai bác cháu băng qua khu này trên một con đường rải nhựa thẳng băng và rộng rãi, sau đó ra đến vùng đồng quê trống trải, rồi đi thêm một đoạn nữa. Sau đó, xa xa phía trước, một hàng bạch dương xanh thẫm mọc đều tăm tắp bắt đầu ló ra khỏi gò đất. Khi họ đã lên đến đỉnh gò, chúng như bật thẳng lên đằng sau dãy tường đá trải rộng hút tầm mắt, chập vào với con đường trước mặt.

Hàng cây đổi hướng và chạy men theo con đường một đoạn. All Saints nổi danh là nghĩa trang lớn nhất thành phố, nếu không phải là lớn nhất thế giới. Người ta đồn rằng nó đủ rộng để mai táng mọi thi hài trên đời cùng một lúc.

Bên kia đường, nhà cửa đã xuất hiện trở lại, được dựng lên nhằm phục vụ những người sống thường lũ lượt kéo ra đây trong những ngày Chủ nhật và một số dịp lễ để tỏ lòng thành kính với người quá cố. Có thể nhìn thấy một cửa hàng khắc bia mộ, trên sân ngổn ngang các loại tiểu quách trang trí, những bức tượng tiểu thiên sứ, thiên thần khóc thương, cùng với thánh giá. Ngoài ra, còn một gian hàng ăn uống và nhiều hàng quán khác. Chúng nằm rời rạc, cách nhau một khoảng xa, mang trên mình vẻ tiêu điều trống vắng chứ không nhộn nhịp đông đúc.

Xe đỗ lại bên cổng chính với cánh cửa đồng khổng lồ nằm dưới một vòm đá, hai vị khách lần lượt chui ra. “Quay lại đón chúng tôi sau nửa tiếng nữa, không hơn,” Marta nhắn với ông đánh xe.

Cỗ xe chầm chậm chuyển bánh và đi về đâu thì chỉ có ông đánh xe mới biết, có lẽ là quán rượu gần nhất tại ngã tư trước mặt. Trong lúc xe rời đi, Conchita chần chừ chừng một phút, ra chiều do dự.

“Bác Marta ơi, trước khi vào trong, mình ra cái quán bên kia đường và ngồi nghỉ một phút được không? Cháu đang khát lắm.”

Marta gắt gỏng phản đối, ép bẹp bó hoa xuống để có thể nhòm qua chúng và trông rõ mặt thiếu nữ, “Không, nina (cô gái). Sao mình làm thế được? Mẹ con bảo bác phải đưa con về nhà ngay. Nhìn kìa, mặt trời đã xuống thấp lắm rồi. Đêm sẽ buông trước khi chúng ta kịp về nhà mất.”

“Vào ngồi có mất bao lâu đâu?” Thiếu nữ nũng nịu.

“Chúng ta ra đây để thăm mộ ba con hay để giải khát?” Bác gái già bực bội nói, vẫn dứt khoát không chịu.

“Chỉ một tách trà bạc hà thôi. Bác thích trà bạc hà lắm mà. Giờ này ở nhà bác toàn uống thôi.”

Marta bắt đầu lung lay, hiển nhiên đang bị cám dỗ. Bác ta liếc sang bên kia đường, như thể đang ước đoán xem nếu ghé qua quán rồi quay lại thì sẽ mất bao lâu. “Nhưng vào viếng mộ trước rồi ghé quán nước sau chẳng phải sẽ hay hơn sao? Nghĩa trang đóng cửa mất.”

“Cháu sắp xỉu đến nơi rồi, bác Martita à. Tại sao bác không chiều cháu vậy?”

Người đồng hành của nàng lập tức lo lắng rối rít. “Ôi trời đất ơi, sao con không bảo sớm hơn? Chẳng hiểu bác nghĩ gì trong đầu nữa, cứ đứng đây tranh cãi mãi. Đi nào cưng, nắm lấy tay bác, chúng ta sẽ qua quán ngay.”

Họ nhích sang đường, tốc độ lề mề kinh khủng và nói thật thì chủ yếu là do bà bác mập mạp đưa tay đưa chân chậm chạp chứ không phải là do thiếu nữ mảnh khảnh yếu đuối gì cho cam. Bác Marta thậm chí còn tận tâm dặn dò nàng chớ có bước vội, “Đừng đi nhanh thế, linda (người đẹp). Con bị choáng bây giờ.”

Giờ này quán gần như vắng tanh. Một anh bồi bàn đang kẹp khay dưới cánh tay, ra đứng ân cần bên cửa, đợi xem họ quyết định ngồi đâu rồi mới tiếp tục bước đi. Trong dải sân lát gạch đất nung trước quán bày một dãy bàn sắt cao lêu khêu với mặt bàn bé tí, trông vô cùng thảm hại. Mỗi chiếc bàn bị vây kín bởi một đống ghế chân mảnh, nhiều hơn khoảng trống xung quanh bàn.

“Mình vào bên trong cho kín đáo đi,” Conchita nhã nhặn đề nghị.

Từ khoảng không sáng sủa bên ngoài, họ bước tiếp vào trong một vùng không gian tù mù như hang động, chứa đựng một biển bàn sắt khác. Chúng cũng mỏng manh hiu quạnh y hệt đồng loại ngoài sân. Một tấm biển bìa cứng ghi Có bia el sol được treo lỏng lẻo quệt vào đầu Marta khi bác ta bước bên dưới. Bà cáu kỉnh gạt nó sang bên.

Hai người ngồi đối diện nhau trong một quầy nhỏ sát tường, bác giám hộ cùng bó hoa ở một bên, thiếu nữ đi viếng mộ một bên.

Anh bồi bàn lại gần. “Buenos dias (Xin chào).”

“Buenos dias (Xin chào),” bác Marta làu bàu cụt ngủn, đúng kiểu chào hỏi thường thấy giữa những người làm công.

Conchita đợi đến khi anh ta đã rời đi rồi mới vén tấm mạng lên, phong thái đoan trang như một thiên thần.

Không gian xung quanh bắt đầu hiện lên rõ ràng hơn một chút khi mắt họ đã bắt đầu làm quen với nơi đây, mặc dù vẫn chỉ như đang nhìn qua làn nước xanh ngọc nơi đại dương sâu thẳm. Đồng thời khi ấy, ánh sáng bên ngoài cũng đang dịu xuống rất nhanh, mất dần độ chói lọi tương phản.

Họ ngồi đó một lúc. “Chúng ta sẽ không vào kịp mất,” Marta rên rỉ. “Thế là mình ra đây chỉ tổ tốn công vô ích.”

Bác ta dịch đầu và vai ra ngoài ghế để quan sát khu vực yên ắng phía sau quán, khum hai bàn tay lại và đập rầm rầm xuống bàn, phá vỡ sự im lặng thành từng mảnh vụn.

“Muchacho! (Chàng trai trẻ!) Bọn tôi đang vội!” Bác ta giục giã.

Anh bồi bàn chậm chạp quay lại, không thể nào đi nhanh hơn bởi trên cái khay đang mang là tách trà thơm ngào ngạt đầy đến miệng cùng cốc nước chanh.

Marta gục xuống tách trà. Lúc ngẩng lên, bác ta chép môi đầy khoan khoái. Conchita, bấy giờ đang ngồi quay mặt ra bên ngoài, tiếp tục quan sát con đường. Trông nàng giống như đang chủ tâm chờ đợi thứ gì đó đi ngang qua và hút lấy ánh mắt mình hơn là theo dõi một thứ đã khiến mình chú ý. Đột nhiên, nàng bật ra một tiếng cười khe khẽ, chĩa một ngón tay về phía cảnh vật ngoài kia.

“Bác nhìn mà xem! Vừa có một người đi ngang qua, nom buồn cười lắm. Không biết anh ta là ai nhỉ?”

Marta, khi ấy ngồi quay lưng với con đường, vội vã xoay người lại và cố gắng nhìn qua mép vách ngăn quầy phía sau.

Chốc sau, bác ta quay lại và nhún vai. “Bác chẳng thấy ai cả.”

Một gợn sóng nhỏ đang lan tỏa trong tách trà.

“Bác để hụt mất anh chàng rồi. Anh ta vừa mới đi ngang qua đây thôi.”

Marta nói, “Trông con tái lắm, nina (cô gái).”

Quả đúng là gương mặt Conchita đang tái lại. Nàng không quen lừa lọc thành viên trong nhà một cách trắng trợn như thế này. Nói đúng hơn, nàng không quen lừa bất kỳ người nào hết.

Một vài phút nữa trôi qua. Marta đặt tách trà rỗng xuống.

“Nào pequena (cô gái bé nhỏ), mình phải đi thôi.”

“Ngồi thêm một phút nữa đi bác. Trong này thoải mái quá. Cháu vẫn chưa uống xong cốc nước chanh.”

“Mặt trời sắp lặn đến nơi rồi. Chẳng mấy chốc mà trời sẽ tối sầm lại. Mình không thể lần mò trong bóng tối được đâu…”

“Trông bác có vẻ mệt mỏi thế nhỉ, bác Marta ơi.”

Như thể chỉ sau khi điều ấy được nhắc đến thì bác Marta mới nhận ra. “Đúng là bác mệt thật. Sáng nay bác đi lễ lúc 6 giờ.” Bác ta thở dài thườn thượt. “Cứ đến cái tuổi của bác thì…”

“Bác ngả đầu ra miếng lót da một phút đi,” thiếu nữ đề xuất.

“Làm vậy ngoài nơi công cộng trông không được hay lắm.”

“Ở đây làm gì có ai nữa.”

Đầu bác gái già dần dà tự ngửa ra phía sau, thế rồi bác ta sung sướng nhắm mắt lại và trút ra một hơi thở sâu đầy thư giãn. Bác giữ được thẳng đầu chỉ tầm một phút, sau đó thì nghiêng dần sang một bên cho đến khi chạm vào cái góc giữa bức tường và vách ngăn, dựa hẳn vào đó. Nhịp thở của bác ta bắt đầu trở nên khò khè hơn, đôi môi hơi hé mở.

Thiếu nữ im lặng ngồi thêm một lúc nữa. Từ từ dịch người ra ngoài mép ghế cho đến khi không còn bị cái bàn cản trở, nàng đứng hẳn dậy, vẫn không rời mắt khỏi gương mặt người đồng hành của mình. Giờ phần quai hàm nặng nề của bác ta đang lay động nhẹ theo từng nhịp thở.

Conchita cẩn thận thò tay xuống chỗ bó hoa bên cạnh bác Marta, đỡ chúng lên khuỷu tay, cẩn thận giữ chúng không gây sột soạt quá mức. Nàng ôm được gần hết, có điều vẫn để lọt mất một bông hồng bạch cuống dài, đành để mặc nó nằm lại. Loay hoay tìm cách nhặt bông hồng lên có khi sẽ khiến nàng làm rơi hết hoa trên tay.

Thiếu nữ lách người đi qua biển bàn ghế, lướt đi như một hồn ma vận đồ đen, bóng hình hằn trên ánh nắng đang dần tàn lụi bên ngoài. Sau khi đến lối ngang trống trải dẫn ra cửa trước, nàng ra dấu gọi anh bồi bàn về phía mình. Rồi nàng tiến thêm một bước, đồng thời đưa ngón tay lên môi nhắc anh ta im lặng.

“Sí, senorita? (Vâng, thưa cô?) ”

“Bác nodriza (bảo mẫu) nhà em đang rất mệt. Pobrecita (Thật tội nghiệp quá). Em sẽ để bác ấy nghỉ lại đây vài phút. Chừng nào em chưa quay lại thì anh đừng đánh thức bác ấy dậy nhé. Em chỉ sang bên kia đường thôi. Em sẽ quay lại đón bác ấy trong khoảng 15 phút nữa.”

“Tôi sẽ làm đúng như senorita yêu cầu,” anh ta kính cẩn thì thào. Hiển nhiên một thiếu nữ thanh lịch vận tang phục với một bó hoa lớn trên tay sẽ đi thăm viếng nghĩa trang, nào ai có thể nghi ngờ được điều gì?

Nàng di chuyển một cách đài các cho tới khi ra đến sân trước và đi về con đường bên kia. Cổng nghĩa trang ở cách đó khá xa, không hẳn nằm ngay đối diện quán nước. Chưa kể lúc bấy giờ, mặt trời đang dần khuất dạng trong một bể máu nơi chân trời đằng tây, trữ lượng thời gian mà Conchita phải xoay xở mới kiếm được đang trôi tuột đi như cát lọt qua kẽ tay, nàng bắt đầu rảo chân tăng tốc.

Mới đầu thì khó mà nhận ra. Nhưng chỉ một thoáng sau, thiếu nữ đã trở thành một bóng người hết sức kỳ khôi, nếu không muốn nói là bê bối, với mấy bông hoa nảy tưng tưng trên tay, đuôi mạng che mặt và tà váy bay phất ngược ra sau. Nàng cắm đầu cắm cổ phóng về phía cổng nghĩa trang, như thể người thân quá cố đang nôn nóng chờ đợi mình, như thể nàng muốn đến thật nhanh để tỏ lòng thành kính với họ. Một vài cái đầu ngoái lại ngạc nhiên khi nàng vọt qua.

Lúc gần đến cánh cổng vòm trang trí thì Conchita đã thở không ra hơi nữa, đôi chân bọc trong lụa đen của nàng guồng như búa giã, nhanh đến mức chúng như nhòe cả đi.

Khi con trưởng thành hơn chút nữa, mẹ không muốn con phải xấu hổ lúc nhìn lại những năm tháng tuổi trẻ, mình đã hành xử lố lăng thế nào.

Đã là tình yêu thì khuyên nhủ sao được!

Thiếu nữ vừa kịp nhớ ra mình cần giữ lịch sự cho phải phép. Nàng ép bản thân đi chậm lại, sải bước điềm đạm hơn, mặc dù vẫn còn di chuyển khá nhanh, khi băng qua giữa hai cánh cổng đồng nặng nề. Chúng dang rộng như một cặp cánh đang đón đợi, chờ được khép lại và ấp lấy nàng vào lòng. Là món quà do một nhân vật giàu có nào đó hiến tặng, đôi cánh cổng được khắc nổi rất xa hoa. Một bên cổng khắc dòng chữ: Cái chết hẳn phải là một đặc ân bởi nó bao trùm lên tất cả. Còn bên cổng đối diện là: Không ai là không được nó ban phước lành.

Conchita băng qua chúng mà không buồn liếc mắt lấy một lần. Người sống không có thời gian ngắm nghía cái chết, có cố thì họ cũng không tài nào thấy nó được.

Bên trong, cách cổng một quãng ngắn là một gian nhà nhỏ, không to hơn một chòi canh đá là bao, dùng làm chỗ trực cho ông gác cổng khi nghĩa trang còn mở. Ông ta đang đứng bên khung cửa hẹp mà nhìn ra ngoài thì bắt gặp nàng đi ngang qua. Ông gác đã cao tuổi, gương mặt phúc hậu, ngoại hình không có gì nổi bật. Theo cái cách ông ta phải nheo mắt ngờ vực nhìn Conchita, rõ là ông ta bị cận thị.

Thiếu nữ dừng lại rồi tiến vài bước về phía ông ta. “Trong khoảng nửa tiếng vừa rồi, ông có thấy chàng trai trẻ nào vào đây không ạ? Tóc sẫm màu, người gầy gầy và đi một mình?”

“Một cậu trai trẻ trông ưa nhìn ấy hả?” Ông ta hỏi.

“Ồ, anh ấy đẹp trai lắm!” Nàng nhiệt tình tán đồng, sung sướng liếc lên trời.

Ông gác khẽ mỉm cười với vẻ thấu hiểu. “Có, nina (cô gái), ông có thấy một người như vậy. Suốt 10 phút vừa rồi, cậu ta lượn ra cổng đến ba lần, ngóng trông ai đó, càng lúc càng trở nên bồn chồn, hỏi ông là có thấy… một cô gái trẻ vô cùng xinh đẹp, mặc đồ đen với mái tóc đen tuyền, đưa theo một cô hầu gái đi cùng không.”

Ánh mắt nàng buông xuống, sau đó lại nhanh chóng ngước lên.

“Nhưng anh ấy còn ở trong này không ạ? Anh ấy chưa rời đi phải không?” Nàng hỏi, giọng nghe nhẹ nhõm hẳn.

“Như ông biết thì cậu ta vẫn còn ở bên trong. Ông nhớ là chưa thấy cậu ta rời đi. Trừ khi cậu ta bỏ về trong lúc ông đi một vòng kiểm tra lần cuối.”

“Không đâu,” nàng cam đoan với vẻ cả quyết rất đáng yêu, “anh ấy chưa về đâu, anh ấy vẫn còn ở trong này. Cảm ơn ông nhé.”

Conchita quay lại và tiếp tục bước dọc con đường trung tâm vừa dài vừa rộng, trước khi nó bắt đầu tỏa thành vô số lối đi quanh co rải sỏi trắng. Chúng trông từa tựa như nhau và đã bắt đầu đong đầy chất tối của màn đêm, nhuốm sang sắc xanh lam.

“Đừng ở trong đấy lâu quá nhé, senorita,” ông gác cổng tử tế gọi với theo nàng. “Khi cháu nghe thấy tiếng còi thì tức là ông sắp đóng cửa. Cháu chỉ còn một hay hai phút nữa thôi.”

Thiếu nữ chỉ nghe lời nhắc nhở bằng một bên tai. Một dòng chảy vô hình mà ông gác không thể nhìn thấy đã cuốn lấy Conchita, lôi tuột nàng vào trong với lực kéo không thể nào cưỡng lại được. Không tiếng còi, cánh cổng hay lượng thời gian ít ỏi có thể làm suy yếu, ngăn cản hay can thiệp vào. Đây là khoảnh khắc tình yêu bừng nở, khoảnh khắc quý báu mà những kẻ si tình trân trọng, được ngóng đợi từ trước.

Nàng bước vội trên con đường ảm đạm, băng qua một miền đất rờn rợn đang nhanh chóng mờ đi trong ánh chạng vạng. Nơi đây vừa phi tự nhiên lại vắng bóng người, cứ như thể thuộc về một thế giới khác. Nó mang một vẻ khắc khổ cổ điển, một vẻ u sầu lạnh lẽo. Đó đây, những cây bách, cây bạch dương, cây liễu rủ được bố trí với chủ ý nghệ thuật, cây thì đứng lẻ, cây thì mọc theo lùm. Chúng được trồng ở những nơi người đã khuất an nghỉ. Chúng chạm vào cái chết, che chở và thậm chí còn hút lấy nguồn sống từ đó.

Rải rác bên dưới gốc cây, xen giữa mọi khe hở của những cành thấp là đà, trong mọi khoảng không giữa những thân cây, dọc mọi con đường và tại mọi góc quanh, là những cư dân vô hồn chết lặng, trắng lóa dưới những bóng tối lay động. Chúng như đang đợi một hiệu lệnh chiêu hồn từ sâu thẳm lòng đêm đang buông, để có thể trỗi dậy, tràn căng thứ sức sống quái dị. Chúng là những thiên thần đá, những bức tượng phượng hoàng và tượng điểu sư. Chúng là những băng ghế đá rải rác trên đường, dường như không phải nơi nghỉ chân lúc viếng mộ của người sống, mà để dành cho những bóng hình bí hiểm lặng lẽ lướt trên những con đường và lối ngõ lúc đêm khuya.

Và phủ lên tất cả là miếng vải liệm tím sắc do ánh sáng đang tắt dần, crepusculo (hoàng hôn). Bản thân cái từ ấy cũng mang chút hương vị chết chóc. Cái chết của ban ngày.

Trong miền tử địa này, tình yêu đang len lỏi bước đi dưới hình dạng của một thiếu nữ mười chín tuổi, nhiệt huyết tràn trề trong từng mạch đập, cặp mắt sáng long lanh, hơi thở gấp gáp, nhịp tim rộn rã. Conchita không chạy nữa. Giờ nàng đã vào đến nơi và đó mới là điều quan trọng. Dẫu sao thì nàng chỉ cần chờ thêm một hay hai phút nữa thôi, chạy trong nơi này thì thất lễ quá. Nhưng nàng vẫn hăng hái đưa chân thoăn thoắt, cứ ba hay bốn bước là lại thêm vào một bước đôi, không hẳn là chạy nhưng cũng gần như vậy.

Conchita ra đến một trục tròn nàng dùng làm dấu mốc riêng. Chính giữa trục là một bình thạch cao tuyết hoa, đặt trên một trán tường thanh mảnh tao nhã. Đây là thứ luôn giúp nàng xác định phương hướng.

Bốn lối đi tỏa ra từ trục tròn này. Con đường thiếu nữ băng qua từ nãy đến giờ tiếp tục dẫn sâu vào khu vực nghĩa trang nàng chưa bao giờ khám phá. Còn một con đường ngang giao thoa, phân nhánh thành hai lối đi khác. Vì đã có kinh nghiệm, nàng biết rẽ trái ở đây là sẽ ra nơi chôn cất của gia đình. Thế rồi khi quay lại, tất nhiên sẽ phải đi ngược hướng và rẽ sang bên phải, để quay lại đường chính dẫn ra cổng vào.

Giờ chỉ cần đi thêm một chút nữa thôi. Thiếu nữ lần theo con đường rải sỏi nhỏ bé và ngoằn ngoèo, với những cảnh quan xung quanh mà nàng chỉ nhớ mang máng. Đầu tiên nó dẫn xuống một vùng trũng trống trải không cây cối, một bãi cỏ giữa miền đất chết. Đáy vùng trũng giờ đã thẫm xanh màu bóng tối. Thế rồi con đường lại dẫn lên và lách qua một lùm cây dày đặc như một đường hầm. Ngay đằng sau chỗ này là điểm đến của nàng.

Trong những lần ghé thăm trước đây, nàng chưa bao giờ có cơ hội để ý đến những điều này, do luôn có Rosita ríu rít nói chuyện suốt chặng đường. Và trên quãng đường quay lại, khi ấy những bước chân sẽ từ tốn hơn, có một cánh tay rắn rỏi quàng quanh vòng eo thiếu nữ, giọng nói trầm ấm thủ thỉ vào tai nàng. Đây là lần đầu tiên Conchita một mình qua đây.

Cuối cùng thiếu nữ cũng đã đến nơi. Nàng ra đến hàng tường cây vuông vắn cao ngang đầu người, chạy men theo lối đi chừng một mét, đánh dấu khoanh đất mộ gia đình nhà nàng. Nàng rẽ vào bên trong qua một khoảng hở trên tường cây, lần ra chỗ tấm bia mới nhất trong số các bia mộ và tấm đá nơi đây, một cột tháp trắng bệch như xương, bên trên gắn một vòng hoa đồng, bao quanh một dòng chữ khắc đơn giản.

Don Rafael Contreras y galbo[20]

Mong linh hồn ông được yên nghỉ

Cột tháp nằm ở cuối khoanh đất. Những nấm mộ còn lại là các bà bác và những người nàng chưa gặp bao giờ. Tất nhiên anh ấy sẽ không đợi người yêu ở đây. Làm thế thì bậy quá. Họ có một chốn riêng… Nhưng trước tiên, Conchita cần bày tỏ lòng thành kính với người đã khuất trước. Nàng quỳ một bên gối xuống bên cạnh, kiên quyết tạm gạt bỏ mọi suy tư về ai đó ra khỏi tâm trí. Đầu cúi xuống, nàng rì rầm một lời câu nguyện ngắn, đồng thời cũng là một lời câu xin sự tha thứ.

“Ba ơi, hãy tha thứ cho con vì đã lừa dối mẹ như vậy. Bọn con không muốn thế đâu, nhưng cả hai đứa chỉ trẻ được có một lần thôi. Tuần này con sẽ đưa anh ấy về nhà ra mắt mẹ, con hứa đấy.”

Cuối cùng thiếu nữ cũng đứng lên, bỏ ra thêm mấy phút để xếp bó hoa mình mang theo quanh chân cột tháp, đi qua đi lại hết bên này đến bên kia để chỉnh trang cho đến khi nàng thấy ưng ý. Thế rồi nàng nhún gối, làm dấu thánh và rời khu mộ, lưu luyến nhìn lại sau lưng lần cuối. Người quá cố đã lo liệu xong và giờ đến phiên người sống.

Chỗ hẹn không ở quá xa, chỉ cần đi thêm một chút theo con đường cũ về phía bên trái. Nó là một giàn hiên pergola[21] nhỏ xây bằng đá hoa, một mái vòm tròn chống đỡ bởi các cây cột thanh mảnh, không có tường ngăn. Nó không thuộc về ai cả, đây là một công trình công cộng do ban quản lý nghĩa trang tự xây, giống như mấy băng ghế và bình thạch cao tuyết hoa đằng kia. Đây là nơi họ luôn hẹn hò. Giờ anh đang đợi nàng trong đó.

Khi chạy đến gần, Conchita sẽ thấy đốm lửa thuốc lá nôn nóng của anh bồn chồn dịch chuyển qua lại như một con đom đóm đỏ. Thật đáng tiếc, vì nàng đến muộn nên đôi bên sẽ chẳng ở bên nhau được lâu.

Lúc thiếu nữ thoáng thấy giàn hiên thì nó đã bắt đầu đánh mất đường nét và màu sắc trắng tinh trong ánh hoàng hôn, chỉ còn là một khối xanh xanh mơ hồ ló ra qua làn sương mờ ảo. Nhưng nàng không quan tâm nó trông ra sao, quan trọng là cái người chờ trong đó. Lúc quay mình chạy qua hai cây cột khắc rãnh, nàng khẽ reo vui đầy tinh nghịch. “Raul! Có phải anh tưởng em sẽ không…”

Giàn hiên trống huơ trống hoác.

Đi mất rồi! Anh đã bỏ mặc nàng, rời đi mà không buồn đợi! Không, không thể có chuyện đó, ông gác cổng đã nói vừa mới thấy anh xong. Nếu anh bỏ về sau đó thì hẳn ông ấy sẽ báo rằng nàng vừa mới đến nơi và anh sẽ quay lại tìm nàng.

Conchita ngẩn ra đó một lúc, không biết phải làm gì, đứng giữa phần sân trống vây quanh bởi ba băng ghế cong không lưng. Anh sẽ quay lại trong một phút thôi. Hẳn anh đã ra đến tận cổng để ngóng nàng lần cuối và chắc chắn ông gác cổng sẽ thông báo cho anh. Họ để lỡ nhau lúc nào đó, có khi trong lúc Conchita đang khuất sau tường cây chỗ khoanh đất mộ của gia đình, anh đã khẽ khàng băng qua bên ngoài. Anh không phát hiện ra người yêu ở trong đó, bởi nàng mặc toàn đồ đen mà lại đứng trong chỗ tối. Hoặc có thể anh đã ra cổng bằng lối tắt, không đi ngang qua chỗ nàng chút nào. Tốt nhất nàng nên đợi ở đây, nơi anh có thể đến tìm, nếu không họ sẽ lại hụt nhau thêm một lần nữa và không còn có cơ hội gặp mặt.

Đúng tối hôm nay! Thời gian đã ngắn ngủi thì chớ, chuyện này lại xảy ra! Conchita chán nản ngồi xuống một trong ba băng ghế. Ngay cả trong thứ ánh sáng âm u ngập tràn nơi đây, thiếu nữ vẫn lập tức nhận ra trên sàn có thứ gì đó. Một điếu thuốc hút dở nằm lăn lóc dưới chân nàng. Lại một điếu nữa. Có đến nửa tá đầu lọc thuốc lá vương vãi khắp nơi.

Nàng rón rén nhón điếu thuốc gần nhất lên, giơ nó ra trước mắt trong ánh sáng tù mù. Một phần tên thương hiệu chưa bị cháy mất: Exquisito. Nàng biết nhãn hiệu này, đây là thuốc của anh. Thiếu nữ mỉm cười thương cảm. Nàng có thể hình dung ra cảnh anh chàng tội nghiệp ấy đi tới đi lui, ruột nóng như lửa đốt vì phải chờ đợi.

Conchita tiếp tục giữ điếu thuốc thêm một lúc, quan sát nó. Nó là một phần của anh. Đây là tất cả những gì thuộc về anh mà nàng có thể nắm giữ trong vài phút tới, cho đến khi anh quay trở lại.

Nàng thì thầm với nó, “Hỡi điếu thuốc lá bé nhỏ, anh ấy có yêu ta không? Anh ấy có nhớ nhung khi ta vắng mặt không? Nói ta nghe, anh ấy hành xử thế nào? Anh ấy có thì thầm gọi tên ta khi ngậm ngươi trong miệng không? Hẳn ngươi sẽ biết, bởi ngươi từng ở rất gần bên anh.” Conchita trìu mến chạm một đầu ngón tay lên điếu thuốc. Nàng hãy còn rất trẻ.

Anh tốn quá nhiều thời gian để vòng lại từ cổng. Nhưng chắc chắn là sẽ quay lại. Ông gác cổng kiểu gì cũng sẽ nói là gặp Conchita rồi. Giờ đã ra đến đây mà nàng không chịu đợi thì đúng là ngớ ngẩn. Đây là nơi duy nhất họ không bị ai soi mói, được ở một mình bên nhau trong vài khoảnh khắc ngắn ngủi.

Mấy lần nàng đưa theo Rosita thì khác. Trạc tuổi cô chủ, Rosita thấu hiểu nàng, chị lại còn hỗ trợ và thông đồng với nàng nữa chứ. Có Rosita đi cùng, họ có thể nấn ná từ biệt nhau, thậm chí ở ngay ngoài cổng chính, trước mắt bàn dân thiên hạ. Chị giúp việc sẽ lịch sự đợi ở ngoài tầm tai nghe hay đi trước hai người, để họ tay trong tay, đầu ngả vào nhau trên đường đi ra xe. Nhưng giờ lại có bác Marta đi cùng! Mong là bác ấy ở yên chỗ cũ. Anh có thể đến bất cứ lúc nào.

Đúng là kỳ lạ. Chỉ cần gặp được một người, bất chợt cả thế giới trở nên khác hẳn. Conchita nhớ lần đầu tiên họ gặp nhau cách đây chưa lâu, mới chỉ một vài Chủ nhật trước mà thôi. Ấy thế mà giờ nàng không tài nào nhớ nổi trước khoảnh khắc đó, trước khi anh xuất hiện, cuộc đời mình như thế nào nữa.

Cuộc gặp gỡ định mệnh diễn ra vào một chiều Chủ nhật, ở rạp cine. Hôm đó mẹ nàng trở bệnh, còn bác Marta thì quá khắt khe và không muốn coi cine vào Chủ nhật, thế là Rosita đi cùng cô chủ. Nàng đã đặt trước ghế tại cine vào chiều Chủ nhật hàng tuần, thuê theo mùa và lần nào đến cũng ngồi đúng một chỗ. Chắc hẳn nhờ thế mà anh quen mặt nàng, mỗi lần đèn bật lên lúc nghỉ giải lao là lại ngắm nhìn nàng, ngắm từ rất lâu rồi. Và, phải, Conchita cũng đã để ý thấy anh, nhưng tất nhiên nàng không thể chằm chằm nhìn lại. Nàng chỉ có thể để hai đôi mắt giao nhau trong một khoảnh khắc ngắn ngủi.

Thế rồi chiều hôm đó, khi ra ngoài, họ bắt gặp một trận mưa xối xả đang tưới đẫm con phố. Hai chị em bất lực túm tụm bên dưới tán cây ven đường cùng với những khách bộ hành khác, không thể đi đâu, trong khi anh gác rạp cứ thổi còi huyền náo khắp dọc con phố…

Đúng lúc đó, từ một nơi xa xăm, âm thanh khó chịu kia lại chen vào suy nghĩ của thiếu nữ, càng khiến nàng nhớ về ngày hôm ấy, khiến ký ức hiện lên sống động hơn hẳn.

… Anh gác rạp cứ thổi còi huyên náo gọi xe ngựa, xe taxi và bất cứ phương tiện gì có bánh đến đưa khách về. Nhưng những người khác cứ đua nhau chen lên xe hết. Có trời mới biết nàng cùng Rosita sẽ mắc kẹt ở đó thêm bao lâu nữa nếu anh không bất chợt xuất hiện, mở đường cho họ rồi thản nhiên chiếm luôn một cái xe đang đỗ ở hè đường, không cần bận tâm đến…

Chợt Conchita đứng bật dậy, một cơn sốc muộn màng chạy khắp người. Âm thanh vừa nãy chính là tiếng còi của ông gác cổng! Nó đã hòa mình nhẹ nhàng vào dòng hồi tưởng của nàng!

Thiếu nữ chạy xuyên qua mấy cây cột, đứng im trên hai bậc tháp của giàn hiên, cứng người lắng nghe đầy hoảng sợ. Âm thanh kia lại vang lên một lần nữa, lanh lảnh trong bóng tối, cách xa muôn trùng dặm, xa đến mức nàng sẽ chẳng có cơ may chạy ra kịp. Thật là vô vọng! Đây là hồi còi cảnh báo thứ hai và cũng là cuối cùng. Sau đó thì… họ sẽ cứ thế đóng cửa mà không chờ đợi thêm nữa.

Chắc hẳn ông gác cổng đã để hụt nàng, giống như nàng và Raul đã để hụt nhau. Bởi vì trong một nơi rộng lớn cỡ này, hiển nhiên người ta sẽ không chỉ thổi còi ở mỗi khu vực cổng vào. Có thể trong lần đi kiểm tra và nhắc nhở những người trong nghĩa trang, ông ta đã không đến giàn hiên pergola, không hề hay biết rằng có người đang ở đây. Và Conchita vì mải mơ mộng đã không để ý thấy ánh đèn lập lòe xa xa, nếu như ông gác có dùng đèn; hay nhận ra ý nghĩa của nó. Hoặc có thể một ai đó mặc đồ tang giống nàng đã đi ra, khiến ông ta tưởng nhầm mà không buồn quay vào tìm nàng nữa. Dù sao thì ông ta cũng bị cận thị mà.

Thiếu nữ nhận ra tất cả những điều ấy chỉ trong một khoảnh khắc dừng chân đầy kinh hoàng trên bậc thang, trước cả khi tà váy phất phơ của nàng buông thõng bất động. Và như thể vậy vẫn chưa đủ, đến bây giờ nàng mới nhận ra rằng trong lúc ngồi đợi, trời đã tối mịt hoàn toàn. Đến cả thứ ánh sáng tàn dư của mặt trời cũng đã biến mất. Trên rặng cây phía tây chỉ còn sót lại một quầng đen hơi ngả lục, hệt như kim loại bị ôxy hóa, đánh dấu vị trí của mình. Những nơi khác thì rặt một màn đen, đen, đen. Đêm đã ngự trị và nàng đã nằm gọn trong cái bẫy nó giăng.

Conchita chạy trên con đường rải sỏi ngoằn ngoèo.

Nàng tin, cả đời mình chưa bao giờ chạy nhanh đến thế. Một cụm sỏi bay tung lên trước mũi bàn chân tí hon đang đạp mạnh, trông chẳng khác nào bọt biển. Băng qua đường hầm cây. Lao xuống bãi cỏ miền đất chết. Leo lên phía bên kia vùng trũng. Băng qua bức tường cây, nơi ba nàng cùng mấy bà bác đang yên nghỉ. Một tiếng khẩn cầu nức nở đầy bất lực bay ngược lại khi nàng chạy ngang qua, “Papacito! (Ba ơi!) ” Tiếng thút thít của một thiếu nữ đang sợ hãi, buột thốt ra trong lúc hộc tốc phóng qua khu mộ gia đình. Conchita cất tiếng gọi một người từng luôn bảo vệ nàng, nhưng giờ thì không thể nữa rồi.

Mấy ngọn cây trở nên vô hình trên nền trời đen. Nhưng nổi bật bên dưới tán lá là màu trắng của những bia mộ và tấm đá, tạo thành các bóng ma xám tờ mờ rải rác đó đây. Một thiên thần đứng kiễng trên một ngón chân, từ nơi phục kích chực chờ nhảy ra vồ lấy thiếu nữ, siết chặt cổ nàng với đôi tay xoắn xít, kéo ngã nàng xuống. Conchita rú lên, né dạt sang và suýt nữa thì lăn quay, sau đó nàng loạng choạng chạy tiếp.

Một ngọn gió như hơi thở dài của lớp đất xung quanh bốc lên, ẩm ướt và hăng hắc mùi của những thứ đã bị chôn vùi từ lâu. Nó không đứng im mà như đang đuổi theo Conchita, luồn lách qua các thân cây, vặn mình men theo con đường đằng sau thiếu nữ, ì èo rên rỉ, tìm cách bắt lấy nàng. Con đường dưới chân nàng là một dải băng xám, một miếng vải không rõ hình hài, trải dài trong đêm tối, như không bao giờ biết đến điểm dừng, không bao giờ chạm tới điểm kết thúc…

Conchita biết mình đang phát hoảng. Nàng cũng hiểu nếu không chế ngự được cơn hoảng hốt thì không đời nào toàn mạng ra được đến chỗ cánh cổng. Vừa lảo đảo chạy, với buồng ngực như nổ bung và sụm xuống theo từng nhịp thở, nàng vừa vật lộn tìm cách giành lại quyền kiểm soát bản thân.

Không sao đâu, Conchita, sẽ chẳng chuyện gì xảy ra đâu! Mọi chuyện sẽ ổn thôi, đừng có ngớ ngẩn. Chỉ chốc nữa thôi mình sẽ ra đến cái bình dấu mốc, sau đó mình sẽ rẽ trái, nhớ chứ? Thế rồi chỉ cần đi theo con đường trung tâm rộng lớn dẫn ra cổng, chuyện nhỏ ấy mà. Hô lên luôn đi, ngay từ đây, người ta sẽ nghe thấy tiếng mình, người ta sẽ đợi, người ta sẽ giữ cửa mở. Hô lên đi để người ta còn biết, đáng nhẽ ra ngay từ lúc mới nghe thấy tiếng còi là phải hô lên luôn rồi.

Thiếu nữ không nghĩ mình vẫn còn đủ hơi, nhưng bằng cách nào đó nàng vẫn gào lên được. Giọng gào nghe the thé, yếu ớt và đứt quãng, rung bần bật vì đôi chân không ngừng chạy.

“Ông gác ơi! Ông gác ơi, đợi đã! Cháu vẫn còn ở đây! Đừng đóng cửa vội! Đợi cháu ra đã…”

Thế rồi nàng không thể la thêm được nữa, trong phổi không còn đủ lực. Nàng tròng trành sang hai bên, chẳng đi theo một đường thẳng nữa. Còn đám sỏi phản trắc, bình thường dễ bước lên là thế, giờ cứ lăn tròn và trườn đi dưới chân, khiến nàng mất thăng bằng.

Cái bình! Ôi, đội ơn thánh thần, cuối cùng cũng ra đến chỗ cái bình! Nó đứng thẳng trước mặt nàng, cao hơn đầu người, nhìn như đang bơi trong màn đêm, không vật gì chống đỡ, cho đến khi cái bóng trắng nhờ nhờ của trán tường bên dưới hiện ra.

Sang trái nào, Conchita rối rít tự nhắc bản thân, sang trái, cẩn thận vào…

Thoạt tiên, nàng thậm chí còn không thể xác định được bên