Chương sáu VẬN DỤNG TRONG CHÍNH TRỊ QUÂN SỰ
Khi âm đến dương, dương là âm
Giả đến chỗ thật, thật cũng giả.
''Mưu'' chia thành âm mưu và dương mưu, không biết là bắt đầu từ niên đại nào, cũng không biết là xuất phát từ phát minh của người Trung Quốc hay là của người nước ngoài.
Cho đến ngày nay, từ «âm mưu» chắc chắn là mang ý chê bai rất lớn.
Khổng Tử, bậc thầy của nhân nghĩa ngàn thu, tấm gương về đạo làm người muôn đời của người Trung Quốc, từ trước đến nay đã không thích từ «âm» này. Ông đem «nữ nhân», «tiểu nhân», «gian tặc» đều qui về phạm trù thuộc «âm». Trung Quốc từ Khổng Tử về sau hơn hai ngàn năm nay, thanh danh của từ «âm» này càng xấu.
Song, Lão Tử lại rất suy tôn chữ «âm».
Trong «Đạo đức kinh», ông đã từng nhiều lần nhấn mạnh: «Dĩ âm khắc dương», «Dĩ nhu khắc cương», «Dĩ tĩnh chế động», «Thị nhược thủ thư» (Tỏ ra yếu đuối để giữ mình phái yếu) v.v...
Theo Lão Tử và Đạo gia, nhu, tĩnh, nhược, thư v.v... đều thuộc phạm trù của «âm». Từ đó ta thấy, «âm» thật ra không đáng xấu.
Theo triết học truyền thống Trung Quốc: «Nhất âm nhất dương vi chi đạo» (Một âm một dương tạo thành đạo).
«Âm» và «Dương» vốn không có cái gọi là chê khen, nên âm thì âm, nên dương thì dương.
Đạo lý này dẫn ra, về binh pháp chính là: đạo của văn võ, một bên căng một bên trùng. Khi làm học vấn, viết văn chương chính là văn đã xen kẽ, nhã tục cùng hài hòa.
Không có độc nhất vô song.
Không phải chỉ có người Trung Quốc giỏi vận dụng mưu lược – hoặc gọi là âm mưu, hoặc gọi là dương mưu – mà mọi người của các nước trên thế giới, bất kể chủng tộc như thế nào, bất kể lịch sử như thế nào cũng đều tinh thông lẽ này.
Ví như Napoléon, Coolidge, Kemal, Roosevelt, Marshall, Churchill, De Gaulle, Sukarno, Mitterrand, Nixon, Margaret Thatcher...
Những nhân vật này đã từng có ảnh hưởng đến thế giới, đều là những cao thủ vận dụng mánh khóe (sách lược).
Từ đó ta thấy, «mưu» không kể là âm hay dương, chỉ là lúc mới đầu đặt tên cho nó, đem nó gọi là «âm mưu», cho nên mới làm cho thanh danh của nó bị làm xấu.
Ở đây, chúng ta tạm thời không thảo luận vấn đề này. Nếu như nói «âm mưu» nghe không hay, vậy thì chúng ta sẽ dùng «âm mưu dương dụng» đề thảo luận vấn đề. Hoặc là nói, âm mưu dương mưu cũng đúng, cần biết chỉ có như thế mới có thể hoàn thành sự nghiệp lớn. Đặc biệt là trong hoạt động chính trị quân sự từ xưa đến nay, biểu hiện ra rất nổi bật.
Ở đây, có thể giới thiệu với các bạn đọc một số ví dụ nổi tiếng. Hoặc bạn thông qua sự tích của họ có thể học được một ít mưu mẹo làm cho mình thông minh hơn!
1. Trong phạm vi cai quản của mình
Tháng 7 năm 1888, Wilhelm II kế ngôi, năm đó mới 29 tuổi.
Trước đó, ông rất kính trọng lão thần Bismarck, chính là mấy tuần trước khi ông lên ngôi, ông còn dự bữa tiệc sinh nhật của Bismarck 73 tuổi, và trong lời chúc rượu khen ngợi nói: «Bismarck là người cầm cờ mà 46 triệu trái tim trung thành của nước Đức đang hướng về». «Thủ tướng cần phải lãnh đạo chúng tôi, chúng tôi sẽ đi theo ông». Nhưng Wilhelm II lên ngôi mới được một tháng, đã nói với mọi người xung quanh: «Ta giành cho cụ già đó 6 tháng hấp hối, sau đó tự ta chấp chính.»
Bismarck không muốn rút lui khỏi vũ đài chính trị, tháng 3 năm 1890 ông tuyên bố lại pháp lệnh của Nội các Preussen (Phổ) năm 1852, quy định vua và quan viên liên bang đi lại phải thông qua Thủ tướng. Ông còn tự ý tiếp kiến lãnh tụ Đảng trung ương. Wilhelm II hết sức bực mình.
Tối 14 tháng 3, Hoàng đế sai người mang đến đưa cho Bismarck một bức thứ tay, thông báo cho ông biết sáng hôm sau Hoàng đế sẽ đến chỗ Thủ tướng cùng bàn việc với ông. Khi thư tay đưa đến, Bismarck đã đi ngủ.
Cho nên, sáng sớm hôm sau khi Hoàng đế đến phủ Thủ tướng, ông vẫn còn đang nằm trong mơ. Ông vội vàng dậy mặc quần áo, lúng ta lúng túng. Lời trách hỏi của Hoàng đế đối với ông tuôn ra giống như súng liên thanh không ngớt, cuối cùng đòi ông phải thu hồi pháp lệnh của Nội các năm 1852.
Ngày 17 tháng 3, Wilhelm II sai người chuyển lời cho Bismarck, hoặc là thu hồi pháp lệnh của Nội các, hoặc là đưa ra đơn xin từ chức. Đến tối không thấy có hồi âm, Hoàng đế lại nhờ người đi hỏi, vì sao đơn xin từ chức vẫn không đưa vào cung?
Cuối cùng ngày 18 tháng 3, Bismarck đã đưa đến Hoàng đế đơn xin từ chức chính thức. Wilhelm II cuối cùng đã phế bỏ Bismarck.
Từ đó, ông đã sửa đổi chính sách của Bismarck từ chỗ chỉ chú trọng tranh bá ở đại lục châu Âu, sang chú trọng «chính sách thế giới», muốn xây dựng nước Đức thành «đế quốc thế giới», tích cực lao vào tranh đoạt phân chia lại thế giới.
Để xây đựng nước Đức thành một cường quốc công nghiệp và quân sự, ra sức mở rộng ra nước ngoài, ông ráo riết mở rộng hải quân, chỉ trong vòng vài năm đã trở thành cường quốc hải quân thứ hai chỉ đứng sau nước Anh tích cực việc chuẩn bị phát động đại chiến thế giới.
2. Quan tâm đến người cấp dưới
Trong lịch sử, người nguyên thủ quốc gia có thể đem hành vi chính trị của mình tách riêng hẳn với hành vi đời sống hàng ngày một cách hợp lý, họ giỏi trình diễn thân phận nguyên thủ trên vũ đài chính trị, cũng giỏi xuất hiện với thân phận của người bình thường trong cuộc sống, từ đó giành được sự mến phục, ủng hộ và kính trọng của những người bên dưới.
Sa hoàng Nga Peter I trong xử lý vấn đề chính trị rất cay nghiệt khắc khe; khi xét hỏi và phán quyết phạm nhân, Peter I khiến cho thủ đô của nước Nga như bị bao phủ trong mưa máu của việc giết hàng loạt trong một thời kỳ dài, nhưng Peter I trong cuộc sống đời thường lại biểu hiện ra một tính cách rất gần với người dân.
Khi vợ một người bạn của Peter I mất, Peter I đã viết thư cho người bạn này, khuyên ông ta bớt buồn, giữ gìn sức khỏe.
Khi mẹ của một người bạn khác mất, Peter I trong thư nói: «Nghe nói ông vì mẹ mất nên rất đau buồn. Vì Thượng đế, xin ông hãy bớt buồn, chú ý giữ gìn sức khỏe, bởi vì ông đã có tuổi rồi, hơn nữa từ lâu đã có bệnh».
Peter I hết sức quan tâm đối với các đại thần, quan viên và bạn bè của ông, có khi ông tỏ ra không yên tâm vì bệnh tim của một số người, có khi dặn dò ngự y cung đình chữa bệnh cho con trai của một người nào đó, có khi bày tỏ lời an ủi đối với quả phụ của một người bầy tôi v.v...
3. Ngồi không ngư ông đắc lợi
Trong đại chiến thế giới lần I, hai tập đoàn quân sự lớn ở châu Âu – các nước hiệp ước và các nước đồng minh đều phải trả giá rất nặng nề. Còn nước Mỹ ở bên bờ kia Đại Tây Dương thì vẫn ngồi ung dung trên đài câu cá.
Từ lúc mở đầu cuộc đại chiến, nước Mỹ đã tuyên bố trung lập, tổng thống Wilson cho rằng, bất cứ một bên giao chiến nào giành được toàn thắng đểu là không lợi đối với nước Mỹ, nước Mỹ thà bằng lòng để cho châu Âu phân chia thành hai tập đoàn không đội trời chung.
«Nếu như phía các nước hiệp ước thắng, có nghĩa là phần lớn lục địa châu Âu thuộc nước Nga thống trị, còn nước Đức thắng cuối cùng sẽ trở thành tai họa của chúng tôi.»
Điều diệu kỳ nhất là dưới danh nghĩa «trung lập», tiến hành mậu dịch với cả hai bên giao chiến, như thế, không những có thể kiếm được khoản lợi nhuận lớn, mà còn làm cho hai bên giao chiến bên nào cũng không có cách thắng được triệt để đối phương.
Đôi lúc hai tập đoàn quân sự lớn châu Âu cả hai đều bại và tổn thương, sẽ là lúc nước Mỹ «ngồi không ngư ông đắc lợi».
Đến năm 1917, Wilson nhìn thấy nước Đức sắp sửa không chống nổi, liền đưa quân sang châu Âu, để «dây máu ăn phần».
4. Giương đông kích tây
Năm 1789, Napoléon xuất thân đi đánh Ai Cập. Ông ta lo lắng sẽ bị hạm đội của nước Anh chặn đánh tại Địa Trung Hải, bèn lợi dụng đủ mọi thủ đoạn tung ra tình báo giả, nói Hạm đội Địa Trung Hải của nước Pháp sẽ tiến vào Đại Tây Dương, đổ bộ ở Ireland.
Năm 1787, quả thực đã có một Hạm đội Pháp mưu toan tiến sang Ireland, khiến cho người Anh bị một trận hoảng sợ.
Lần này, Nelson vị chỉ huy hạm đội Hải quân Anh sợ Napoléon có thể lén đến sân sau của họ thật, liền vội vàng điều động hạm đội đến Gibraltar, chuẩn bị chặn đánh Hạm đội Pháp khi đi qua eo biển.
Chính lúc này, Napoléon thừa cơ xuất phát từ quân cảng Toulon đưa Hạm đội đến thẳng Ai Cập. Nelson biết mình bị trúng kế, lập tức giương buồm đuổi theo, chưa phát hiện ra hình bóng Hạm đội Pháp, lại lạc đến thành Constantine, trong khi ấy hạm đội Pháp đã đổ bộ thành công lên cảng Alexandria, Ai Cập, tiến chiếm Ai Cập.
5. Tỏ ra giả để che thật
Ngày 9 tháng 11 năm 1789, Napoléon phát động chính biến tháng sương mù, thành lập chính quyền chấp chính do Napoléon đứng đầu. Mùa xuân năm sau, quân đội các nước đồng minh chống Pháp của châu Âu, từ mấy hướng khác nhau tiến công vào nước Pháp.
10 vạn đại quân của Áo áp sát biên giới Pháp, đã uy hiếp nghiêm trọng nhất đối với nước Pháp. Napoléon biết chắc rằng, nếu dùng lực lượng của mình thì rất khó chống lại được Đồng minh, thế là ông ta đã đạo diễn một trò «giả ẩn thật».
Một mặt, Napoléon bí mật nhanh chóng xây dựng một quân đoàn dự bị có thực lực hùng hậu.
Mặc khác, ông ta cho bộ máy tuyên truyền hoạt động, thổi phồng mình là đã tổ chức và xây dựng một đội quân dự bị lớn mạnh, đội quân của ông ta sẽ tập kết tại một địa điểm nào đó, và quyết định tự mình duyệt binh.
Các nước đồng mình chống Pháp xôn xao cử hàng loạt gián điệp đến chỗ gọi là hiện trường duyệt binh để thu thập tình báo thực lực tác chiến của quân đội dự bị.
Kết quả họ nhìn thấy là mấy đoàn tân binh vừa mới chiêu mộ về. Lưa thưa, trang phục không chỉnh tề, trang bị chẳng có gì, phần nhiều là những người già yếu bệnh tật.
Các nước đồng minh châu Âu cho rằng Napoléon đang hư trương thanh thế, nhằm tăng thêm lòng dũng cảm cho nước Pháp, mục đích cuối cùng chẳng qua là mong cho quân đội Áo nghe tin đã khiếp đảm, không dám tiến công vào đất nước Pháp nữa.
Thế là quân Áo liền chia quân đi xuống phía Nam, một cánh quân nhanh chóng bao vây và tấn công thành Genova lúc đó vẫn do nước Pháp khống chế, một cánh quân khác tích cực chuẩn bị tiến công vào đất Pháp.
Đúng lúc các tướng soái quân Áo đang đầy tham vọng xâm lược, Napoléon đột nhiên tự mình dẫn đầu mấy vạn đại quân dũng mãnh, đi vòng qua Thụy Sĩ, vượt qua hai đèo Saint Bernard lớn, nhỏ của dãy núi Alps, đột nhiên xuất hiện ở phía sau quân Áo một cách bất ngờ, giống như quân từ trên trời xuống, quân Áo đột ngột không kịp đề phòng, đã nhanh chóng tan rã. Napoléon nhân cơ hội tốt thừa thắng tiến lên, sát miền Nam nước Áo, buộc Hoàng đế Áo phải ký hòa ước. Chỉ một hành động mưu lược Napoléon đã đập tan Đồng minh chống Pháp.
6. Cơ động thần tốc
Goethe nói: «Napoléon một đời giống như một vị thần có bước chân lớn, đi từ chiến dịch này đến chiến dịch khác, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác». Hegel ca ngợi Napoléon là «thế giới linh hồn cưỡi trên lưng ngựa».
Napoléon cho rằng sự vận động chính xác và nhanh chóng của một đội quân lớn là thủ đoạn quan trọng xác định hình thế có lợi và bảo đảm chắc chắn lực lượng ưu thế của chiến dịch.
Những chiến dịch Napoléon chỉ huy, thường lấy ít thắng nhiều, một trong những nguyên nhân quan trọng đó là nhanh chóng cổ động di chuyển quân đội. Napoléon có câu danh ngôn: «Hành quân chính là chiến tranh».
Chiến dịch Ulm năm 1805, Napoléon chủ yếu đã dựa vào hành quân cổ động và thần tốc để giành thắng.
Trước lúc này, Napoléon đang ở doanh trại Boulogne (Bulônhơ) tập kết đại quân chuẩn bị tiến công nước Anh.
Khi ông tin chắc rằng kế hoạch này không thể thực hiện, mà lại đang đối mặt với cục diện Liên quân chống Pháp trên đại lục đang tập kết, sắp tiến công vào ông, bèn thay đổi phương diện tác chiến, hạ lệnh cho 17 vạn đại quân dùng tốc độ hành quân nhanh chóng đúng hạn phải đến được vùng Reims (Rems).
Sau khi chiến đấu kết thúc, binh sĩ của Napoléon đồng thanh ca ngợi thắng lợi của trận chiến đấu này: «Hoàng đế đã phát minh ra một phương pháp tác chiến mới, cái ông lợi dụng là đôi chân của chúng ta mà không phải là lưỡi lê của chúng ta».
Chiến dịch Marengo năm 1800, Napoléon dẫn đại quân vượt qua đường hẻm Saint Bernard hiểm yếu của dãy núi Alps, đột nhiên ở phía sau quân địch một cách bất ngờ, vừa mở đầu liền đã xác lập được ưu thế và quyền chủ động của chiến dịch.
Thống soái quân địch là Melaz cho rằng sự hiểm yếu của dãy núi Alps có thể tạo thành phòng tuyến thiên nhiên, Napoléon lại cho rằng, chỉ cần cho sơn dương (dê rừng) có thể bước tới, thì quân đội sẽ có cách đi qua.
Napoléon cho rằng, muốn thực hiện cơ động nhanh chóng, quân đội phải khắc phục được tất cả mọi khó khăn, mà yếu tố đầu tiên của binh sĩ là chịu đựng được mọi mệt mỏi và cực khổ một cách bền bỉ bất khuất.
7. Đan xen và vu hồi
Napoléon nhấn mạnh rằng, tại địa điểm và thời gian nhất định tập trung binh lực trong cùng một thời gian, cùng một địa điểm chiếm ưu thế hơn quân địch tiến hành chiến đấu, «phía quân đông ắt giành thắng». Giai đoạn I chiến dịch Italia, quân đội của Napoléon và Liên quân là 3 vạn, quân địch 8 vạn; về tổng thể là ở thế kém.
Khi chiến tranh bắt đầu, Napoléon cầm quân thông qua đan xen và vũ hồi, dùng hành động quân sự nhanh chóng và liên tục đã giáng những đòn liên tiếp cho quân địch, mỗi lần đều tạo nên ưu thế của phía mình và kém thế của phía địch.
Hành động quân sự xuất sắc của Napoléon giữa hai cánh quân địch lần lượt đang uy hiếp thủ đô Iurino và Milano của họ, gần như bắt quân địch mỗi bên phải tự rút để giữ thủ đô của mình, phân tách liên quân.
Tiếp đó, Napoléon liền tập trung binh lực chiếm ưu thế lần lượt tiến hành bao vây và tiêu diệt quân địch. Do đó trong vòng một tháng, đã kết thúc một cách thắng lợi chiến dịch Italia thuộc giai đoạn I.
8. Tiến công giành thắng lợi
Để tiêu diệt sinh lực của quân địch, giành được thắng lợi của chiến dịch và chiến đấu, Napoléon chủ yếu dùng phương thức chiến đấu chủ động mà tiên quyết để tiến công.
Engels cho rằng, giống như Alexandros, Hanibal và Caesar, Napoléon cũng là một thống soái đặc biệt thích tấn công.
Napoléon cũng cho rằng cách nghĩ của ông ta giống như Friedrich, một người luôn ra tay tấn công trước. Khi ông còn là một sĩ quan trẻ đã để lộ tài hoa ở chiến dịch Toulon (Tulông) đã nhận định phàm là những người ở lại trong chiến hào, nhất định có thể bị đánh bại. Ông coi đó là một điều công lý trong nghệ thuật chiến tranh.
Chúng ta hãy xem mấy chục chiến dịch Napoléon một đời chỉ huy, ngoài chiến dịch Leipzig năm 1813 là phòng ngừa thuần túy ra, còn lại hầu như đều là đánh tấn công. Napoléon cho rằng, kiên quyết tấn công phải nên đánh nhanh thắng nhanh, vì thế cần phải có tinh thần dám mạo hiểm và quyết làm đến cùng. Chiến dịch Austerlitz lừng danh chính là một ví dụ điển hình.
Napoléon rất giỏi vận dụng đội quân dự bị. Ông đã chỉ ra rõ ràng rằng, toàn bộ nghệ thuật chiến tranh chính là sau phòng ngự hợp lý mà thận trọng thì tiếp theo nó là tấn công chớp nhoáng và táo bạo.
Trong chiến dịch Toulon, sau hai ngày nã pháo dữ dội, quân đội của những người phái Cộng hòa mà Napoléon cũng ở trong đó mở đợt tấn công mãnh liệt vào căn cứ Toulon của những người phái Bảo hoàng chiếm giữ, qua chiến đấu ác liệt, những người phái Cộng hòa thấy sắp thất bài đến nơi. Trong giờ phút then chốt này, Napoléon đã dẫn đội quân dự bị xông lên, từ đó giành được thắng lợi.
Chiến dịch Eckmuhl năm 1809, đứng trước sự tấn công của hơn 6 vạn quân chủ lực của quân Áo đối với nước Pháp, Napoléon ra lệnh cho Nguyên soái Davout đang ở thế yếu, lợi dụng địa hình có lợi, tiến hành phòng ngự tích cực và đã ngăn chặn thành công cuộc tấn công của quân địch. Napoléon đồng thời dẫn 4 vạn quân nhanh chóng kịp đến nơi đó, với sự phối hợp của Davout đã phản công mạnh mẽ vào quân Áo, kết quả giành được toàn thắng.
9. Lợi dụng độ khác biệt tương phản
Trong cuộc vận động bầu cử năm 1840, người ứng cử Tổng thống của Đảng Whigs (tiền thân của Đảng Cộng hòa) là William Harrison. Để hạ thấp ông ta, một nhà báo của tờ báo Đảng Dân chủ chế giễu nói: «CDho ông ta một thùng rượu táo loại mạnh, phát cho ông ta mỗi năm 2.000 USD tiền lương, tôi bảo đảm rằng, ông ta sẽ một đời ngồi bên cạnh chiếc lò sưởi trong ngôi nhà gỗ nhỏ của ông để học triết học đạo đức».
Để phản kích đối phương đảng Whigs đã mất rất nhiều tâm sức mãi mới đưa ra được một «tương kế tựu kế». Trên tác phẩm của mình họ viết, in ra hình đầu của Harrison và một thùng rượu, một ngôi nhà gỗ nhỏ, có ý làm nổi bật Harrison là một người chất phác đơn thuần, một người bình thường ngồi trong một ngôi nhà gỗ nhỏ uống rượu táo loại mạnh. Đồng thời còn công kích người ứng cử của Đảng Dân chủ là Van Buren «kiểu quý tộc», nói ông ta uể oải ở trong phủ Tổng thống, dùng loại nước hoa cổ lỗ nhẹ nhàng lau các ngón tay, đang nhấp rượu sâm banh từ trong bộ làm lạnh bằng bạc rót vào trong chiếc ly chạm hoa nhập khẩu.
Kết quả là cuộc sống bình dân giản dị, chất phác của Harrison vừa khéo hình thành dự đối lập rõ ràng dứt khoát với vẻ hào nhoáng bề ngoài xa xỉ đến tột độ của Van Buren, cuối cùng giúp cho Đảng Whigs đã giành thắng trong cuộc vận động tranh cử lần này.
10. Lợi dụng chỗ trống
Ngày 4 tháng 3 năm 1841, Harrison tuyên thệ nhậm chức Tổng thống Mỹ, tại lễ nhậm chức ông bị cảm lạnh sau chuyển bệnh viêm phổi, nhậm chức được một tháng sau thì tạ thế. Văn phòng Quốc vụ khanh thông báo cho Phó Tổng thống Tyler mời ông thừa hành chức vụ Tổng thống.
Lúc đó, hiến pháp của nước Mỹ chỉ quy định: «Nếu khi Tổng thống bị miễn chức, chết, từ chức hoặc mất năng lực điều hành quyền lực và trách nhiệm của Tổng thống, thì chức vụ Tổng thống nên do Phó Tổng thống thực hiện».
Còn về lúc đó Phó Tổng thống là chính thức kế nhiệm làm Tổng thống, hay là với thân phận Phó Tổng thống thực hành chức quyền của Tổng thống, hiến pháp thật ra chưa nói rõ ràng.
Tyler không biết là xuất phát từ cố ý hay vô ý, ông ta tuyên bố mình chính thức kế nhiệm Tổng thống Mỹ. Khi đó, dư luận Mỹ chỉ trích Tyler cố tình giải thích sai Hiến pháp.
Nhưng, do điều khoản có liên quan của Hiến pháp mơ hồ, Quốc hội đối với Tyler tuyên bố kế nhiệm Tổng thống chưa đưa ra ý kiến khác nhau, thế là việc làm này của Tyler trở thành hành vi hợp pháp.
Về sau, nước Mỹ lại có 7 vị Tổng thống chết trong nhiệm kỳ, Phó Tổng thống đều lấy Tyler làm ví dụ kế nhiệm Tổng thống. Lệ này kéo dài suốt hơn 120 năm, mãi đến bản dự án sửa đổi Hiến pháp năm 1967, điều khoản thứ 25 mới quy định rõ bằng lời văn: «Nếu khi Tổng thống miễn chức, qua đời hoặc từ chức, do Phó Tổng thống kế nhiệm Tổng thống».
11. Tỏ ra là người chất phác
Khi Lincoln và Douglas tranh cử Tổng thống, Douglas tỏ ra rất tin tưởng, tưởng như nhất thiên hạ. Ông ta đã thuê một con tàu hào nhoáng, và đặt một cỗ súng trên toa cuối cùng, đến mỗi ga sẽ bắn súng chào và cử nhạc.
Sau đó, ông ngồi trên chiếc xe 6 ngựa kéo đi đến trung tâm thành phố, thị trấn phát biểu diễn thuyết. Ở phía trước có những chàng trai vạm vỡ cưỡi tuấn mã mở đường, Douglas hò hét: «Tôi muốn Lincoln, người quê mùa này ngửi thử mùi quý tộc của tôi».
Lincoln không có tài riêng, ông mua vé ngồi tàu, đến mỗi ga, ngồi trên chiếc xe ngựa kéo vẫn dùng cày ruộng mượn từ các bạn.
Trong diễn thuyết, ông thường nói: «Thượng nghị sĩ Douglas là người nổi tiếng thế giới, là một nhân vật lớn, ông ta có tiền cũng có thế, có khuôn mặt tròn tròn, béo đẫy, đã từng giữ các chức quan hệ bưu điện, đất đai, nội các, ngoại giao v.v... Ngược lại, không có ai cho rằng tôi có thể làm Tổng thống. Có người viết thư cho tôi, hỏi tôi có bao nhiêu tài sản. Tôi chỉ có một người vợ và một đứa con trai, đều là của không đáng giá. Ngoài ra, còn thuê một gian văn phòng vừa cũ, vừa nát, trong phòng chỉ có một chiếc bàn giá trị 2,50 USD; 3 chiếc ghế giá trị 1,00 USD. Ở góc tường, còn có một giá sách lớn, sách trên giá đáng được mỗi người đọc. Tôi, bản thân vừa nghèo vừa gầy, mặt rất dài, không thể béo đẫy, thực tế tôi chẳng có gì đáng dựa, duy nhất đáng dựa là các bạn».
Diễn thuyết của Lincoln giành được cảm tình của đông đảo dân chúng, hình tượng người vô sản của ông đã giành được đồng tình và ủng hộ của đông đảo cử tri.
Đối với người yếu, người ta đều sinh ra tâm lý bảo vệ, ủng hộ và yêu mến mạnh mẽ.
Lincoln dùng bộ mặt hoàn toàn mới cùng hít thở vận mệnh chung với dân chúng, tự nhiên chiếm được ưu thế tuyệt đối về đạo nghĩa so với Douglas sặc mùi quý tộc và hùng hổ hăm dọa người.
Cuối cùng, Lincoln tự xưng là khó mà làm được Tổng thống thì đã làm Tổng thống, còn Douglas mang niềm tin tất thắng, khinh rẻ, không thèm quan tâm đến Lincoln thì đã thua cuộc.
12. Đôla thay thế súng đạn
Tháng 11 năm 1908, William Howard Taft người thuộc Đảng Cộng hòa được bầu làm Tổng thống Mỹ thứ 27. Khi đó, các nước Anh, Đức, Pháp là ba nước chủ yếu xuất khẩu tài chính tiền vốn, những người này có hàng loạt đầu tư ở nước ngoài thu được khoảng lợi nhuận lớn. Nước Mỹ là nước đế quốc mới nổi dậy, bức thiết cần vốn xuất khẩu.
Do đó, năm 1912 Taft chính thức lấy «ngoại giao đồng đôla» làm chính sách bành trướng đối ngoài của ông. Taft giải thích nói, «ngoại giao đồng vàng» chính là «lấy đồng Đôla thay thế súng đạn», mở rộng thương vụ đối ngoại của Mỹ, chính phủ Mỹ «Dốc toàn lực ủng hộ tất cả xí nghiệp hợp pháp và hữu ích của Mỹ kiều ở nước ngoài».
Ông còn tuyên bố, sự thâm nhập kinh tế của Mỹ là «một loại viện trợ đặc biệt và lực lượng ổn định» đối với các nước không phát triển.
Tư bản Mỹ vừa bắt đầu đã ùa vào châu Mỹ Latinh, đến năm 1913, tổng kim ngạch đầu tư ở đó của Mỹ đã đạt đến 12.000 tỷ USD.
Đến năm 1914, đầu tư của Mỹ ở Trung Quốc đạt đến 59,29 triệu USD. Chính là dưới khẩu hiệu viện trợ này, Mỹ đã tăng cường khống chế đối với những nước có quan hệ với Mỹ.
13. Lấy cúi lụy để cầu phát triển
Sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất kết thúc, nước Đức vì thua trận nên rơi vào cảnh khó khăn mặc người xâu xé.
Tháng 6 năm 1920, Stresemann nhận nhiệm vụ trước nguy nan, đứng ra nhận chức Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao của Quốc hội, từ năm 1923 đến năm 1929 làm Bộ trưởng Ngoại giao, ở giữa chừng còn từng đảm nhiệm Thủ tướng. Đứng trước thời cuộc, ông tỉnh táo nhận thức được, nước Đức bị ràng buộc bởi «Hiệp ước Versailles» (Véc xây), không có khả năng dùng chính sách tranh giành cứng rắn đối với các nước thắng trận, trong mấy năm hoạt động ngoại giao dần dần hình thành mưu lược ngoại giao «dùng thế lực của một nước chống lại thế lực của một nước khác».
Phương châm cụ thể là, lợi dụng đầy đủ các mâu thuẫn giữa các cường quốc sau chiến tranh và giữa họ với Liên Xô, dùng cúi lụy để cầu phát triển, lấy thoái làm tiến, tìm được sự sinh tồn và phát triển trong việc cân bằng hai loại mâu thuẫn này, giành được lợi ích lớn nhất của nước Đức.
Khi đó Anh, Pháp đối lập gay gắt với Liên Xô là tình thế cơ bản của cục diện chính trị ở châu Âu, nước Đức quyết định lợi dụng mâu thuẫn này cắt đứt sư phụ thuộc đối với các cường quốc phương Tây.
Năm 1922, nước Đức ký kết với Liên Xô «Hiệp ước Rabaro» với mục đích xây dựng quan hệ hữu nghị bình đẳng, năm 1925 ký kết với Liên Xô «Hiệp định mậu dịch», năm sau lại ký «Hiệp ước hữu nghị trung lập Đức - Xô».
Anh và Pháp hết sức kinh sợ, phút chốc điều chỉnh chính sách đối với Đức, bức thiết hy vọng dùng địa vị bình đẳng làm cái mồi để lôi kéo nước Đức gia nhập Liên minh Quốc tế, ngăn chặn Đức – Xô nhích gần nhau. Stresemann lấy việc hữu nghị với Liên Xô để làm Anh, Pháp kinh sợ, vừa không ký kết liên minh với Liên Xô, cũng không làm đội đột kích của Pháp, việc mưu cầu là địa vị và lợi ích của mình.
Như thế, nước Đức không những gia nhập Liên minh Quốc tế, mà còn được hưởng địa vị nước thường trực Liên minh Quốc tế.
Stresemann còn lợi dụng sự bất đồng về chính sách đối với nước Đức của Anh – Mỹ với Pháp ép buộc Pháp tiếp nhận «kế hoạch Dawes» lấy việc nâng đỡ nước Đức phục hưng kinh tế làm hạt nhân do Mỹ đề ra. Kinh tế nước Đức đã thực hiện cất cánh với tốc độ nhanh, đã đặt nền móng vững chắc trở thành cường quốc quân sự sau này.
14. Lợi dụng thu thập con tem
Trong các Tổng thống Mỹ chỉ có Franklin D. Roosevelt (Tổng thống nhiệm kỳ thứ 32) thích chơi tem. Ông không những thích thu thập tem, mà còn đem việc thu thập tem làm thủ đoạn giành được nhiều phiếu bầu khi tranh cử tổng thống.
Danh vọng của Roosevelt trong giới thu thập tem rất cao, do đó đã giành được một lượng lớn phiếu bầu của những người thích chơi tem. Tem của ông chủ yếu bắt nguồn từ Quốc vụ viện của nước Mỹ.
Trong nhiều năm, phòng thu phát của Quốc vụ viện Mỹ theo thường lệ đem những con tem dán trên phong bì thư phân phát cho con cái của các nhân viên công tác tại Quốc vụ viện, về sau Roosevelt ra lệnh, tất cả thư tín gửi cho Quốc vụ viện cần phải đưa đến văn phòng của ông trước, để ông chọn lựa, ông sẽ chỉnh lý và phân loại.
Một lần, khi bộ tham mưu của ông mô phỏng cách đánh phản kích của Mỹ đối với Nhật Bản, nêu lên địa điểm phản kích tại quần đảo Solomon, một viên sĩ quan quay mô hình Quả đất lớn (địa cầu) đặt bên bàn làm việc của Roosevelt đến vị trí của quân đảo Solomon nói: «Thưa Tổng thống, xin báo cáo với Tổng thống về vị trí của quần đảo Solomon ở chỗ nào». «Không cần», Roosevelt trả lời. «Đừng quên tôi là một người thu thập tem».
15. Im hơi lặng tiếng
Tháng 5 năm 1940, Churchill ra nhận chức Thủ tướng nước Anh thời chiến, là một người thuộc phái cứng rắn nổi tiếng chủ trương khống chế Hitler xâm lược. Do sự dung túng và nhượng bộ của Thủ tướng Chamberlain đứng đầu phái hòa hoãn đối với Hitler, làm cho Hitler «được đàng chân lân đàng đầu», nước Pháp đã tan rã nhanh chóng.
Lúc này, dư luận xã hội của nước Anh tán thành Churchill đứng ra lập Nội các, nhưng đảng viên Đảng Bảo thủ không hoan nghênh Churchill, do vậy bản thân Churchill không thể để lộ tài năng cũng như không thể để lộ quá mức ý đồ ham muốn ngôi Thủ tướng của ông.
Churchill từng nhiều lần tuyên bố trước mọi người, trong thời kỳ chiến tranh ông muốn ra làm chính trị để phục vụ tổ quốc trong điều kiện bất kỳ ai đảm nhận thủ tướng.
Khi Thủ tướng Chamberlain tuyên bố trước các nhân vật tai to mặt lớn thuộc Đảng Bảo thủ, kiến nghị Halifax ra nhậm chức Thủ tướng mới thay ông ta từ chức, Churchill vẫn giữ im lặng. Mà dư luận xã hội lúc đó lại yêu cầu cấp bách Churchill ra nhậm chức Thủ tướng, Halifax biết rõ hướng của lòng dân, bày tỏ mình không thích hợp làm Thủ tướng. Quốc vương Anh buộc phải giao quyền cho Churchill tổ chức Chính phủ mới.
16. Ký kết hiến chương
Từ ngày 9-12 tháng 8 năm 1941, Tổng thống Mỹ Roosevelt và Thủ tướng Anh Churchill ngồi trên chiến hạm đã bí mật tiến hành gặp nhau bàn chiến sự lần thứ nhất trên mặt biển bán đảo Akinsa thuộc Newfoundland.
Nước Mỹ lúc đó còn chưa chính thức cuốn vào chiến tranh, đang tiến hành đàm phán bí mật với Nhật Bản, thì chiến tranh Xô – Đức đã xảy ra được hơn 1 tháng, không ai biết được Liên Xô rút cuộc có thể giữ vững được bao lâu.
Trong tình huống này, hai bên Anh – Mỹ đã ký kết «Hiến chương Đại Tây Dương nổi tiếng». Hiến chương này trình bày tôn chỉ hòa bình của hai nước, tuyên bố hai nước đều không có ý bành trướng lãnh thổ, tôn trọng quyền lợi của nhân dân các nước tự lựa chọn hình thức chính phủ của mình, và mong muốn nhìn thấy các dân tộc có chủ quyền và tự trị.
Khôi phục chủ quyền và tự trị của nó; hai nước hy vọng nhân dân các nước trên thế giới hữu nghị hợp tác, thực hiện tiêu chuẩn lãnh đạo và bảo đảm xã hội công bằng, được hưởng tự do, khỏi phải sợ hãi, khỏi phải thiếu thốn, và tự do vận chuyển trên biển, phản đối sử dụng vũ lực v.v...
Thoạt nhìn, hiến chương này hiện ra rất trừu tượng, không thực thi. Có người đã bình luận «Hiến chương Đại Tây Dương» là một con voi to, nó giống như một cái cây, giống như một bức tường, một sợi thừng, cứ như một người mù đang sờ vào từng bộ phận trên mình nó».
Cái mà Roosevelt lúc đó cần, chính là một thứ chính sách ảo khó nắm được, về sau sẽ có thể căn cứ sự thay đổi của tình hình và nhu cầu lợi ích của nước Mỹ, làm cho những nguyên tắc này cụ thể hóa hơn.
17. Lợi dụng cảnh tượng giả
Ngày 7 tháng 12 năm 1941, Nhật Bản bắt đầu tập kích bất thình lình Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) giành được thành công chưa từng có, chỉ có một hành động đã phá tan lực lượng hải quân của Mỹ trên Thái Bình Dương.
Hành động quân sự quy mô lớn như thế của Nhật Bản rất khó tránh khỏi con mắt của cơ quan tình báo Mỹ. Nhưng hàng loạt động tác giả trước trận đánh của Nhật Bản cũng đã làm được việc không sơ hở chút nào.
Một năm trước khi chuẩn bị chiến tranh Nhật Bản đã tiến hành đàm phán với Mỹ, người Mỹ còn cho là thực sự Nhật Bản không dám đánh nước Mỹ.
Để tạo nên cảnh tượng giả như hải quân Nhật Bản chưa rời hải phận Nhật Bản, Tư lệnh Hạm đội liên hợp Nhật Bản – Yamamoto yêu cầu bộ phận tình báo tung tin tình báo giả, tạo nên ấn tượng Nhật Bản đang chuẩn bị tiến hành chiến tranh với Liên Xô. Để làm được như thật có sự việc đó, Nhật Bản đã đem đội quân Quan Đông ở Đông Bắc Trung Quốc tăng từ 11 sư đoàn lên đến 29 sư đoàn.
Trước sau ngày 15 tháng 11, khi chiến hạm chở máy bay rời căn cứ huấn luyện cùng với các chiến hạm đi theo đến chỗ tập kết bí mật để làm cho việc thay đổi này không gây nên sự chú ý của gián điệp Mỹ, Yamamoto ra lệnh đưa mấy trăm chiếc máy bay tương tự vào đậu tại căn cứ huấn luyện, và vẫn bình thường giữ thông tin vô tuyến tới tấp giữa Bộ tư lệnh Hạm đội liên hợp với các căn cứ huấn luyện.
Không những thế, Yamamoto còn đặc biệt chú ý phái một chiếc tàu làm bia đến phía quần đảo Tây Nam, thu phát điện báo giả mô phỏng hoạt động của binh lính hàng không mẫu hạm. Lính hải quân ở lại trên biển của Nhật Bản và không quân đóng trên bờ của quần đảo Kyusyu cũng tiến hành hàng loạt thông tin vô tuyến giả, về tổng thể đã hình thành cảnh tượng giả khiến người ta thấy đúng là Hạm đội Nhật Bản chưa rời lãnh hải Nhật Bản.
Mấy ngày trước sự kiện Trân Châu Cảng, Chính phủ Nhật Bản đặc biệt tổ chức mấy trăm học viên của trường Hải quân đổi đai mũ mang dòng chữ «Hải quân đế quốc Đại Nhật Bản» và đi dạo chơi các khu phố Tokyo.
Liền ba ngày, những học viên này được phép hoạt động tự do, còn các tòa báo nhân cơ hội đã phái đi không ít tin tức, ám chỉ các thủy binh này là thuộc binh lính chủ lực Hạm đội liên hợp Nhật Bản. Lúc đó, sĩ quan Hải quân Mỹ đóng ở Nhật Bản tin tưởng cho là thật, báo cáo với cấp trên nói: Nhật Bản trong thời kỳ sắp tới không thể có hành động tập kích, bởi vì trong thành phố Tokyo có hàng ngàn hàng vạn binh lính và sĩ quan hải quân đang nhàn tản đi tìm thú vui.
Dưới sự che đậy của hàng loạt cảnh tượng giả, đội quân tập kích Trân Châu Cảng của Nhật Bản bắt đầu bí mật tập kết. Các chiến hạm rời khỏi cảng thời gian xen kẽ nhau, với đường chạy khác nhau, lặng lẽ chạy về đảo Takushukamaru vịnh Tankan ở phương Bắc hẻo lánh, giữa các chiến hạm thực hiện bí mật vô tuyến nghiêm ngặt.
Ngày 22 tháng 11 đã hoàn thành việc tập kết, ngày 26 tháng 11 trước tảng sáng theo giờ đã định tàu khởi hành. 7 giờ 40 phút ngày 7 tháng 12, lượt máy bay đầu tiên bắt đầu ném bom, quân Mỹ còn đang ngủ say, có sĩ quan trực ban còn cho là máy bay của mình đang diễn tập, kết quả Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ hầu như tất cả đều bị chìm nghỉm. Hai quân Nhật Bản phút chốc giành được quyền chủ động của chiến trường Thái Bình Dương, làm cho nó trở nên có ưu thế của Hải quân đối với việc cướp đoạt châu Á.
18. Lợi dụng mức độ nổi tiếng
De Gaulle do kiên trì cuộc đấu tranh chống phát xít, sau khi chiến tranh chống phát xít thắng lợi đã được nhậm chức Chủ tịch Chính phủ lâm thời Pháp, về sau lại được mời làm Thủ tướng và Tổng thống.
Eisenhower có thể thắng đối thủ tranh cử, ra nhậm chức Tổng thống nước Mỹ thuận lợi, một nhân tố quan trọng trong đó là trong thời kỳ Đại chiến thế giới lần thứ II, ông đã từng đảm nhận chức Tư lệnh tối cao Liên quân châu Âu, được đông đảo nhân dân Mỹ xem là anh hùng chống phát xít.
Còn Peron của Argentina trong cuộc tổng tuyển cử toàn quốc, ông sở dĩ có thể hạ bệ nguyên Tổng thống Farayl để mình thay thế cũng là do khi ông làm Bộ trưởng Bộ lao động đã áp dụng lập trường chống Mỹ và đủ mọi biện pháp làm tăng phúc lợi lao động, từ đó giành được sự ủng hộ của công nhân và các tầng lớp xã hội.
Về sau, những người nắm quyền Chính phủ đem ông bỏ tù, công nhân đã tổ chức một cuộc biểu tình thị uy quy mô lớn, buộc nhà cầm quyền phải thả ông.
Qua đó danh vọng của Peron ở Argentina đã đạt đến trình độ chưa từng có, cuối cùng chỉ sau mấy tháng, nhân dân đã đẩy ông lên ngôi Tổng thống. Mitsugi Takeo Nhật Bản ra nhậm chức Thủ tướng là dựa vào thanh danh «liêm khiết» của ông trong dân chúng.
Lúc đó, chính quyền Tanaka Kadoei vì bị chỉ trích là chính quyền tiền bạc nên bị đổ, ý dân trong xã hội nghiêng về sự «liêm khiết» của Mitsugi Takeo, nên có ấn tượng tốt. Thế là, ông ta đã dễ dàng giành quyền cao từ trong tay Tanaka Kadoei.
19. Cuộc tiến quân vào muối ăn
Gandhi được gọi là «Mahatma», trong cuộc đấu tranh lãnh đạo nhân dân Ấn Độ thoát khỏi chủ nghĩa thực dân Anh, ông đã sáng tạo một phương thức đặc biệt, tức triển khai phong trào phi bạo lực, bất hợp tác.
Gandhi cho rằng, Ấn Độ phải độc lập, nhưng các cuộc đấu tranh vũ trang dân tộc từ trước đến nay lại bị nước Anh đế quốc trấn áp tàn bạo.
Do vậy, ông chủ trương cuộc đấu tranh chống Anh chỉ có thể dùng phương thức đấu tranh hòa bình. Gọi là «phi bạo lực» tức là không dùng vũ lực. Nội dung «không hợp tác» bao gồm: Người Ấn Độ từ chối công chức và tước vị của bọn thực dân Anh ban tặng, không tham gia bất cứ cuộc mít tinh nào của chính phủ thực dân. Không tiếp nhận giáo dục của nước Anh, dẫn con cái từ các trường công lập về, tự lập ra các trường tư để thay thế. Không mua hàng của Anh, tự mình dệt vải lụa, sử dụng vào trong nước. Người Ấn Độ không gửi tiền vào «Ngân hàng Anh quốc», không mua công trái của nước Anh v.v...
Năm 1930, nhà đương cục thực dân Anh đã định ra «Luật chuyên doanh muối ăn», khống chế nghiêm ngặt việc sản xuất muối ăn, tùy tiện nâng cao giá muối ăn và thuế muối, gây nên bất mãn rất lớn của nhân dân Ấn Độ.
Tháng 3 năm đó, Gandhi hơn 60 tuổi, mình để trần đã dẫn dắt các tín đồ «phong trào phi bạo lực, bất hợp tác» của ông, đến một «Tu đạo viện» thuộc thành Ahmadabad phía Tây Bắc Ấn Độ, trước cửa viện nhìn về hướng biển lớn Tây Nam, giơ chiếc gậy trúc trong tay lên tuyên thệ: «Trừ phi nhà đương cục thực dân Anh sửa đổi Luật chuyên doanh muối ăn, Ấn Độ giành được tự do, bằng không thì, chúng ta quyết không về nơi đây nữa!».
Họ suốt ngày đêm lặn lội đường xa, trải qua muôn vàn gian khổ, đi bộ đến bờ biển, dùng nước biển để nấu muối. Mỗi khi đến một thôn trang, họ đều mở đại hội quần chúng, kêu gọi người dân trong thôn tham gia «phong trào phi bạo động bất hợp tác».
Nhiều nhà báo các nước bám theo để phỏng vấn, đem các ảnh chụp và tin tức phát khắp thế giới. Gandhi đã đi bộ liền 24 ngày mới đến được thôn trang Dandi bên bờ biển. Lúc này, đội ngũ đi theo ông đã có hàng ngàn người. Ngay đêm hôm đó hộ tuyệt thực để cầu nguyện.
Trưa ngày hôm sau, Gandhi liền dẫn nhiều tín đồ ra bờ biển tắm, sau đó bắt đầu dùng nước biển nấu muối. Họ không sợ gió thổi nắng thiêu, lưng mỏi chân đau, kiên trì suốt ba tuần lễ liền. Các tờ báo đã đưa tin rộng rãi cuộc «tiến quân vào muối ăn» của Gandhi, các miền duyên hải toàn Ấn Độ cũng đều triển khai phong trào tự chế muối ăn.
Đồng thời với việc này, thành phố và nông thôn các nơi khắp cả nước tiến hành biểu tình thị uy, bãi công, bãi khóa, một cuộc đấu tranh phát triển mạnh mẽ. Cuộc đấu tranh phi bạo lực, không hợp tác này của Gandhi, tuy gặp phải sự trấn áp của nhà đương cục thực dân Anh, nhưng cuộc đấu tranh nổ ra liên tiếp đã thức tỉnh dân chúng, cuối cùng đã buộc nhà đương cuộc thực dân Anh chuyển giao chính quyền một cách hòa bình vào tháng 6 năm 1947.
20. Luật «Chính phủ nhị nguyên»
Tháng 7 năm 1918, để duy trì sự thống trị thực dân đối với Ấn Độ, Chính phủ Anh đã đưa ra quyết định, ở Ấn Độ thực hành «Chính phủ nhị nguyên» trong một số tỉnh, nghĩa là: trong cơ quan chính phủ địa phương, một số bộ ngành hành chính không quan trọng lắm như: Y tế bảo vệ sức khỏe, Giáo dục quốc dân v.v... giao cho người Ấn Độ do Hội nghị lập pháp bầu ra đảm nhiệm chức bộ trưởng, còn các bộ quan trọng như Cảnh sát, Tư pháp, Tài chính vẫn do Tổng đốc tỉnh bổ nhiệm người Anh làm bộ trưởng, Hội nghị lập pháp các tỉnh thì hoàn toàn theo lệnh Tổng đốc tỉnh do người Anh đảm nhận.
Người Anh hy vọng dùng việc đó để lung lạc các nhân vật tầng lớp trên của Ấn Độ, tạo nên một ấn tượng trả chính quyền cho Ấn Độ, lấy việc đó để hòa hoãn mâu thuẫn với Ấn Độ, làm yếu phong trào giải phóng dân tộc đang ngày càng cao trong đất nước Ấn Độ.
Sự thật chứng tỏ phương thức thống trị kiểu «nhị nguyên» này quả thực đã gây được tác dụng nhất định.
21. Thả lỏng những việc không quan trọng
Năm 1924, Coolidge là người ứng cử Tổng thống của Đảng Cộng hòa, trúng cử Tổng thống Mỹ liên nhiệm. Triết học chính trị của ông là «Chính phủ ít quản những việc không quan trọng là chính phủ tốt nhất», ông theo đuổi «chủ nghĩa chính phủ nhỏ», ông tán tụng chính phủ Liên bang phải «quản lý theo tự nhiên» (vô vi nhi trị), sự việc quản càng ít càng tốt. Nếu như việc không thể không quản được thì chỉ có thể thông qua pháp lệnh với số lượng cố gắng ít mà tính linh động cố gắng nhiều, dành cho việc phục vụ xã hội ở giới hạn thấp nhất.
Ông cho rằng, nếu như đem quyền lực và sự nghiệp xã hội giao cho giới doanh nghiệp nhiều hơn thì có thể «quốc thái dân an, thiên hạ thái bình».
Vì vậy, ông còn tán tụng thuyết «tự trị địa phương» và «cá nhân trên hết». Ông nói: «Một xã hội sẽ có thể gặp nguy hiểm càng lớn, nếu như nó không phải là đem càng nhiều quyền lực lưu đến cho xã hội (cơ sở), để cho họ gánh vác trách nhiệm giải quyết mọi vấn đề. Nếu như đem quyền lực giao cho chính phủ trung ương, có nhiều vấn đề chính phủ trung ương có điều kiện tìm hiểu đầy đủ và có thể đảm nhận việc xử lý một cách thoải mái.
Tập tục địa phương của nước Mỹ rất mạnh mẽ như thế, chủng tộc và tín ngưỡng là phức tạp như thế, lực lượng của Chính phủ Liên bang trên thực tế lại là mỏng manh như thế, do đó biện pháp hữu hiệu có thể áp dụng là cực kỳ có hạn.
Do đó, cách làm sáng suốt nhất là gắng hết khả năng đem càng nhiều nhân lực, vật lực và tiền của chia nhỏ cho nhà đương cục địa phương, để họ gánh vác bớt trách nhiệm để tập trung giải quyết vấn đề của mình».
Đối với các xí nghiệp lớn, ông nhấn mạnh buông tay không quản là «nguyên tắc cơ bản nhất», Chính phủ Liên bang không nên dùng chính trị để tấn công kinh tế, nguy cơ kinh tế và tranh chấp thợ và chủ có thể do quy luật kinh tế và việc tự điều chỉnh của xí nghiệp giải quyết.
Ông bày tỏ chính phủ không nên phản đối các trust (tơ-rớt), bởi vì như thế sẽ trở thành một sự xâm phạm đối với tài sản cá nhân. Ông cổ vũ chính phủ Mỹ cần phải bớt thu thuế và giảm bớt chi tiêu, để tránh tổn hại tài sản của cá nhân.
Trong nhiệm kỳ ông đã phê chuẩn một số pháp lệnh khuyến khích tư nhân đầu tư đối với công nghiệp mới, trong đó bao gồm giảm thuế suất thuế lợi tức. Trong thời kỳ Coolidge chấp chính, kinh tế nước Mỹ đã phát triển nhanh chóng. Lịch sử gọi là sự «Phồn vinh Coolidge».
22. Chí công vô tư
Người lập công dựng nước, Tổng thống nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ – nước Cộng hòa của giai cấp tư sản đầu tiên khu vực Trung Đông là Kemal được nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ tôn xưng là Quốc phụ (Atatiirk).
Ông được hưởng sự tôn kính cao cả như thế trong nhân dân cả nước là có liên quan chặt chẽ với việc ông không dùng quyền để mưu việc riêng, là người chí công vô tư.
Kemal chấp chính 15 năm, không hề để lại kỷ lục lạm dụng quyền lực, làm theo cảm tình cá nhân trái pháp luật.
Ông rất chú ý những lời nói việc làm gây áp lực người thân và nhân viên của mình, rất khó chịu đối với ý đồ của vợ là Latifer can thiệp vào công việc chính trị của quốc gia, việc này đã trở thành nguyên nhân chủ yếu họ ly hôn nhau. Một thư ký làm việc bên cạnh ông cả thời gian dài chỉ vì nhận quà biếu mà bị cách chức.
Ông chán ghét việc a dua nịnh hót của những người xung quanh, có một lần khi đi thăm các địa phương, một vị thị trưởng chỉ biết nịnh hót chiêu đãi ông, Kemal cuối cùng không chịu nổi liền lớn tiếng quở trách nói: «Hãy nhìn lên mặt thánh Ala, ngồi xuống! Ông là một người đứng hầu, hay là thị trưởng của thành phố này?».
23. Tôn trọng ý dân
Tổng thống dựng nước Thổ Nhĩ Kỳ – Kemal trong thời gian chấp chính, mỗi khi có điều kiện và sức khỏe ông đều đi đến các nơi ở ngoài thủ đô để thị sát, tìm hiểu tình hình nhân dân. Ông nhấn mạnh mọi người phải nói thật lòng, phải báo cáo cả những điều vui, và cả những điều lo lắng.
Trong cuộc tuyển cử thị chính năm 1930, Đảng Phản đối, Đảng Tự do từng giành được một vài thắng lợi, thành viên của họ ở địa phương cá biệt có người thậm chí được bầu làm thị trưởng.
Không lâu Đảng Tự do giải tán, đối với những người lấy thân phận đảng viên Đảng Tự do trúng cử làm thế nào? Kemal khi thị sát tại một thành phố cảng ở Hắc Hải, thị trưởng thành phố này vốn là người Đảng Tự do không có mặt tại buổi đón tiếp.
Sau khi Kemal phát hiện ra liền cho mời ông ta đến, thẳng thắn và chân thành nói: «Ông là người do nhân dân chọn bầu ra, cần phải tiếp tục làm tốt chức thị trưởng của ông, không nên phụ lòng tín nhiệm của nhân dân!».
24. Lợi dụng phu nhân
Roosevelt trước khi nhậm chức tổng thống, tháng 5 năm 1933, đã từng xảy ra một sự kiện 2,5 vạn quân nhân đưa thỉnh nguyện đòi cải thiện đãi ngộ sinh hoạt, Tổng thống đương thời Herbert C. Hoover đã phái quân đội đi trấn áp tàn khốc.
Sau khi Roosevelt chấp chính, Washington lại xuất hiện đoàn thỉnh nguyện của quân nhân giải ngũ, họ quyết tâm không đạt được mục đích không thôi, thậm chí đòi trả nợ máu.
Roosevelt phái trợ thủ của mình là Louis House cùng đi với phu nhân Tổng thống là Eleanor đến thăm nơi trú quân của các quân nhân giải ngũ.
Eleanor một mình xuống xe, trong nước bùn đến mắt cá chân bà đi tới chỗ những người quân nhân giải ngũ. Các quân nhân giai ngũ rất cảm động, vội vàng cử hai người đến dìu Tổng thống phu nhân lại.
Eleanor lắng nghe yêu cầu của họ, thăm hỏi nỗi đau khổ của họ, còn cùng ca hát với họ. Thế là một vấn đề vô cũng bó tay đã giải quyết một cách thuận lợi.
Roosevelt vừa thay đổi cách làm theo thói quen, đã cảm hóa quân nhân giải ngũ, làm cho sự kiện lắng hẳn xuống.
25. Lợi dụng nhà báo
Năm 1933, Roosevelt nhậm chức Tổng thống Mỹ, ông lên nắm chính quyền vừa lúc gặp ngay nguy cơ suy thoái kinh tế lớn của Mỹ, tâm trạng dân chúng ảm đạm cần phải khích lệ động viên.
Ông lợi dụng tối đa công cụ tuyên truyền, ngoài việc định kỳ thông qua phát thanh, vào các buổi «Nói chuyện bên lò sưởi» cho mọi người cảm giác thân thiết, ông còn giữ quan hệ tốt với giới báo chí, tận dụng mọi khả năng làm ảnh hưởng dư luận, để giới báo chí phục vụ cho việc thực hiện mục tiêu chính trị của mình.
Trong buổi chiêu đãi các nhà báo, ông dùng cách nói đùa dí dỏm và gọi thẳng tên từng người với thái độ bình dị gần gũi nhằm truyền cảm mạnh mẽ đến họ. Do đó nhà báo rất vui vẻ với những trận cười vang lên trong buổi tiệc.
Roosevelt không những dành cho nhà báo thu tập tin tức thuận tiện, ông còn thông qua việc xây dựng quan hệ tốt với nhà báo, giành được sự đồng tình và ủng hộ của họ, từ đó thông qua nhà báo để hướng dẫn dư luận tốt hơn, từ đó giành được lòng người ủng hộ và yêu mến chính phủ.
26. Nói chuyện bên lò sưởi
Con đường hữu hiệu nối thông với nhân dân cả nước của Roosevelt khi đang trị vì chính là buổi phát thanh «Nói chuyện bên lò sưởi» của ông.
Tiết mục nói chuyện khác với bình thường này, trước tiên là do giám đốc cơ quan đại diện của Công ty phát thanh Columbia tại Washington là Beacher buột miệng nói ra.
Lúc đó, ba công ty Phát thanh lớn của nước Mỹ lắp đặt thiết bị phát âm ở ngay trước lò sưởi trên tường trong phòng tiếp khách nước ngoài ở Nhà trắng, Roosevelt nói với các nhân viên làm việc ở bộ phận này, rằng ông mong muốn các bài nói thân thiết hơn một chút, sẽ giống như những chuyện thường trong nhà và với hàng xóm. Trước khi diễn thuyết không cần xen vào những lời phô trương kiểu cách. Becher liền nói, thế thì gọi là «nói chuyện bên lò sưởi» là được. Roosevelt gật đầu tỏ vẻ vừa ý, từ đó trở thành tên gọi chính thức.
«Nói chuyện bên lò sưởi» của Roosevelt khác thường vừa không thuyết giáo khô cứng, cũng không thanh minh biện bạch, nó giống như ngồi kề nhau tâm sự với bạn thân. Những lời nói năng có duyên dễ nghe đó của ông làm cho trong lòng người nghe dấy lên niềm tin, dần dần loại bỏ được tâm tư tình cảm xa lạ, làm nguồn động viên tư tưởng hiệu quả rất tốt cho việc nước Mỹ tham chiến sau này.
27. Dùng nhân tài vượt khung
Trước Đại chiến thế giới lần thứ II, chế độ dùng người của quân đội Mỹ rất chú trọng lai lịch, hiện tượng căn cứ vào lai lịch để xếp cấp bậc rất nghiêm trọng.
Lúc đó, tuổi trung bình của thượng úy đạt tới 43 tuổi, còn có trung úy 47 tuổi.
Do lai lịch là căn cứ duy nhất để thăng chức đã kìm hãm hàng loạt sĩ quan trẻ có tài, khiến cho tinh thần binh lính không phấn khởi. Đứng trước nguy cơ chiến tranh, Chính phủ Mỹ quyết tâm cải cách chế độ thăng chức bất hợp lý đó của quân đội, đề chỉnh đốn đội ngũ sĩ quan.
Tổng thống Roosevelt đã phá khung dùng Chuẩn tướng Lục quân Marshall có tinh thần cải cách đảm nhiệm Tổng tham mưu trưởng quân đội Mỹ.
Việc đầu tiên sau khi Marshall lên nhậm chức là thực hành chế độ sĩ quan mới, áp dụng các biện pháp quyết đoán, loại bỏ chế độ cũ lấy lai lịch làm tiêu chuẩn dùng người. Thông qua chế độ dùng người mới, một lần đã phá khung đề bạt 4.088 sĩ quan trẻ, trong đó có Eisenhower, Clark và Paton sau này trở thành những tướng lĩnh nổi tiếng.
Eisenhower chỉ trong thời gian 4 năm, đã từ một Thiếu tướng tham mưu, trở thành Thượng tướng 5 sao thuộc quân hàm cao nhất của quân đội Mỹ, thống soái 3 triệu quân Mỹ.
Paton là Tư lệnh quân Mỹ một mình đảm đương một chiến trường tác chiến tại châu Phi, làm cho quân Đức nghe tiếng đã khiếp đảm, cả đến danh tướng quân Đức là Rommel có tên gọi là «con cáo sa mạc» cũng bị thua trận dưới tay của ông ta.
Chiến tích vẻ vang của những người này, đều phản ánh sự tài giỏi về việc dùng người của Marshall. Do chiến công nổi bật của Marshall, năm 1943 Quốc hội Mỹ dự định phong cho ông ta quân hàm cao nhất trước nay chưa từng có trong lịch sử nước Mỹ – Nguyên soái Lục quân, nhưng Marshall không đồng ý. Để tỏ lòng kính trọng đối với công lao và nhân cách c?