← Quay lại trang sách

Chương sáu (tt)

35. Dùng người thích đáng

Hopkins là người tin cẩn, nhân vật hạt nhân của nhóm chuyên gia cố vấn, nhân vật «Quốc vụ khanh siêu cấp». Ông thường mang theo sứ mệnh quan trọng của Roosevelt đi thăm Liên Xô và nước Anh, theo Roosevelt tham gia hội nghị quốc tế.

Ông mặc dù không có hàm quan chính thức, nhưng quyền thế của ông chỉ đứng sau Roosevelt, đây cũng là một đặc điểm lớn của Roosevelt trong thuật dùng người.

Roosevelt muốn do mình trực tiếp nắm quyền ngoại giao, đã đem Hopkins và một số người lập thành một «bộ ngoại giao tư nhân», có thể triển khai hoạt động ngoại giao theo ý riêng mình.

Ngày 22 tháng 6 năm 1941, nước Đức phát động tấn công bất ngờ đối với Liên Xô, Roosevelt có ý liên doanh Liên Xô và nước Anh chống phát xít, nhưng lại không biết Liên Xô có thể chống lại cuộc tấn công của bọn phát xít được hay không, phải chăng có thể như người Đức nói: Liên Xô giống như một cánh cửa vỡ, vừa đạp đã đổ.

Do đó, Roosevelt liền cử Hopkins bí mật đến Liên Xô đưa cho «thượng phương bảo kiếm». Ông ta yêu cầu Stalin tín nhiệm Hopkins giống như tín nhiệm bản thân ông.

Hopkins lưu lại 3 ngày ở Liên Xô, hội kiến hai lần với Stalin, đã tiến hành hội đàm 7 tiếng đồng hồ. Khi bàn đến vấn đề cung ứng, Stalin nói rất cần pháo cao xạ, máy bay ném bom, xăng máy bay, nhất là rất cần nhôm chế tạo máy bay.

Việc đó khiến cho Hopkins cảm thấy được quyết tâm chống bọn Quốc xã của Stalin rất lớn, mà còn tràn ngập niềm tin. Ông báo cáo lại ngay với Roosevelt, đã nói ý kiến của mình, làm cho các nước phương Tây như Anh, Mỹ tăng cường mạnh mẽ lòng tin đối với Liên Xô, từ đó quyết định ra sức viện trợ Liên Xô.

36. Giữ một khoảng cách

De Gaulle cho rằng, làm một người nguyên thủ trong công việc và đời sống hàng ngày, cần phải giữ một khoảng cách nhất định với đồng nghiệp và cấp dưới của họ, làm cho những người đồng nghiệp và cấp dưới không có cách nào quen thuộc, gần gũi bản thân người nguyên thủ được, từ đó tự nhiên hình thành một hình tượng tâm lý nhân vật nguyên thủ cao hơn những người khác.

De Gaulle cho rằng, để làm được điều này, người nguyên thủ cần phải mang theo một cảm giác thần bí nào đó.

Ông nói: «Không có cảm giác thần bí thì không thể nói đến uy vọng, bởi vì đối với mọi người quá quen thuộc thì không thể sinh ra sự tôn kính. Tất cả mọi tôn giáo đều có bàn thờ, còn bất cứ ai trong con mắt người phục vụ bên cạnh họ đều không phải là một anh hùng. Do vậy, bất kể là vận trù quy hoạch hay là cử chỉ và xử lý mọi việc, đều cần có một số cái khiến người khác suy đoán không ra, khiến họ cảm thấy mê hoặc, kích động và gây nên sự hiếu kỳ tò mò của họ».

«Cảm giác thần bí» này của De Gaulle trên thực tế là ảnh hưởng còn rớt lại của phương pháp «thần thánh hóa nguyên thủ» và «sùng bái cá nhân» của rất nhiều nhân vật nguyên thủ đã từng dùng từ trước trong mấy ngàn năm trở lại đây.

37. Thực hành thuật cân bằng

Metternich đã từng nhận chức ngoại giao đại thần và Thủ tướng Áo trong 40 năm là một đại sứ ngoại giao về thế thăng bằng nổi tiếng.

Ông dựa vào sức phán đoán nhạy bén và tài ngoại giao xuất chúng của mình, dùng thủ đoạn ngoại giao đa biến đa bắt nối làm quen khéo léo giữa các nước lớn, chia rẽ lôi kéo, ra sức giữ «cân bằng thực lực» ở châu Âu, từ đó bảo vệ được lợi ích an toàn của nước Áo.

Năm 1809, nước Áo là nước thành viên chủ yếu của Liên minh chống Pháp bị nước Pháp đánh bại, phạt cắt đất bồi thường, thậm chí có nguy cơ mất nước.

Metternich một mặt dùng biện pháp liên hôn Hoàng gia để điều hòa quan hệ với nước Pháp, ông tự mình chắp mối se duyên cho cuộc hôn nhân của Marie Louise, công chúa nước Áo với Napoléon, từ đó đã hòa hoãn được tình thế nguy cấp của quốc gia.

Mặt khác, ông lại ngầm liên hệ với nước Nga Sa hoàng, một nước lớn ở phương Đông. Ông nhìn thấy nước Pháp và nước Nga Sa hoàng có xung đột lợi hại, liền áp dụng thủ đoạn hai mặt thúc đẩy cuộc tranh đấu Pháp – Nga, một mặt nói dối tích cực ủng hộ nước Pháp, cử ra hơn 3 vạn quân Áo; một mặt lại bí mật bảo đảm với nước Nga «cố gắng ủng hộ ít nhất cho nước Pháp, cố gắng tiến quân sang nước Nga ít nhất và phải cố hết khả năng tạo nên tổn hại ít nhất».

Như thế, nước Áo lấy lòng cả hai bên, tránh được sự xâm hại đến từ hai bên Pháp và Nga.

Năm 1812, Napoléon đi đánh Nga bị thất bại, nước Pháp đã suy yếu ghê gớm. Trong sự so sánh mạnh yếu của lực lượng quốc tế mới, Metternich lai bày ra kế mới.

Metternich cho rằng nước Pháp đã ngã một keo không dậy được nữa, nếu làm suy yếu nước Pháp sẽ có thể phá hoại cân bằng thực lực của đại lục và sẽ mở đường cho nước Nga xây dựng bá quyền.

Ông cho rằng thực lực của nước Pháp cần phải giữ trong giới hạn vừa có thể chống chọi được nước Nga, lại không dẫn đến hình thành uy hiếp quá lớn đối với nước Áo.

Để đạt được mục đích này lai không mắc lỗi với nước Anh và nước Nga, Metternich giả vờ nói là trung lập, đồng thời đi đến thỏa thuận mặc cả hậu trường với các nước Liên minh chống Pháp; do ông ta làm người điều đình giữa nước Pháp với Liên minh chống Pháp, tranh thủ đi đến thỏa hiệp; nếu như điều đình thất bại, nước Áo sẽ gia nhập Liên minh chống Pháp lần thứ 6.

Ngày 22 tháng 6 năm 1813, Metternich đích thân đến Paris, hết sức khuyên Napoléon thỏa hiệp, nhưng không thành công.

Thế là, nước Áo đã tham gia Liên minh chống Pháp, nhưng trong hàng loạt hoạt động quân sự về sau, nước Áo thật ra không đưa ra được cống hiến quan trọng nào.

Sau khi nước Pháp chiến bại, lực lượng của nước Nga và Preussen (nước Phổ) bắt đầu bành trướng, Metternich lôi kéo Anh, Pháp ký kết Đồng minh bí mật ba nước vào tháng 1 năm 1815, Nga và Phổ không thể không có chỗ thu lại bớt. Nhưng liên hợp Anh, Pháp đối kháng với Nga, Phổ cũng chỉ là kẻ quyền biến của Metternich.

Tháng 9 năm 1815, phong trào dân tộc châu Âu lên cao, Metternich lại dựng lên «Liên minh thần thánh» với Nga và Phổ, cùng chung trấn áp bão táp cách mạng chống lại chuyên chế phong kiến châu Âu. Trong nội bộ Liên minh, Metternich lo lắng sự bành trướng thế lực của Nga, lại trước sau lôi kéo nước Anh và nước Pháp vào Đồng minh. Nước Áo nhất thời đã trở thành trung tâm chính trị của xã hội châu Âu, dấn mình vào trong các nước mạnh châu Âu.

38. Biện chứng âm dương, dùng cả hai tay

Phép biện chứng là bản sắc vốn có của nền văn minh Trung Hoa, nó cũng thể hiện trong việc quản lý quốc gia và quản lý nhân sự. «Kinh Dịch» đã tràn đầy tư tưởng biện chứng âm dương. Cho đến ngày nay đọc lại vẫn lóe lên ánh sáng của trí tuệ.

Phép biện chứng vận dụng vào trong các lĩnh vực khác nhau, mỗi lĩnh vực đều có hình thức biểu hiện khác nhau. Trị quốc (quản lý đất nước) thì văn võ dùng song song; trị dân thì khoan (khoan dung) mãnh (mạnh mẽ) tương hỗ lẫn nhau; trị chính (chính sự) thì vương bá pha trộn; trị lễ thì cùng thi hành theo Nho pháp; trị pháp (pháp chế) thì thưởng phạt cùng phối hợp; trị quân (quân đội) thì nêu cao cả đức và uy; trị địch (kẻ thù) thì thả bắt đều phải tính toán; trị loạn thì nhúng vào nước sôi hoặc vỗ về an ủi đều dùng; trị đạo (trộm cướp) thì hình phạt và thủ đoạn đều cần đến; trị sự (quản lý công việc) thì cương nhu đều giúp lẫn nhau.

Thuật cương nhu dùng trong ngoại giao biểu hiện là văn võ song song. Văn và võ vốn xưa nay là hai cột trụ lớn trong quản lý đất nước làm cho dân chúng có cuộc sống an định (trị quốc an bang), không thể thiếu một trong hai cái được.

Văn trị võ công (thành tích văn hóa giáo dục và thành tựu về quân sự) bổ sung lẫn nhau, võ công tách khỏi văn trị, dốc hết binh lực đi gây chiến, bên ngoài mạnh bên trong yếu, quốc gia tất nhiên khó mà củng cố và giữ được lâu bền; văn trị tách khỏi võ công, thể chất yếu đuối, không chịu nổi một trận đánh, quốc gia sẽ mất bức thành che chắn.

Khổng Tử am hiểu sâu sắc lễ độ. Trước giờ phút hội minh Tề Lỗ, ông đã nêu ra tư tưởng: «Người có văn sự tất phải có võ sẵn, người có võ sự tất phải có văn sẵn», chủ trương văn võ không thể tách rời nhau, đã phản ánh những nhận xét thâm thúy quan hệ biện chứng của Khổng Tử đối với «văn trị võ công».

«Sử ký. Khổng Tử thế gia tập 17» đã miêu tả Khổng Tử thành một người toàn tài «văn có thể trị quốc, võ có thể an bang». Trong cuộc hội ngộ Tề Lỗ, Khổng Tử đã thi thố «văn tài võ lược», làm khuất phục nước Tề lớn mạnh, không những bảo vệ được vẻ tôn nghiêm của Lỗ hầu, còn buộc nước Tề phải trả lại phần lãnh thổ đã xâm chiếm, chỉ một hành động mà đã nâng cao được uy thế của nước Lỗ.

Trong thời gian Khổng Tử chấp chính nước Lỗ, nước Lỗ đang trong lúc nguy cơ dồn dập bốn bề rối ren. Khổng Tử văn võ dùng song song, một tay nắm lễ chế, khiến dân chúng chú trọng lễ nghĩa, biết liêm sĩ, duy trì và phát huy đạo trị quốc của Chu công; một tay nắm pháp chế, lập kỷ cương giết Thiếu Chính Mão, làm cho nước Lỗ một thời thái bình hưng thịnh.

Trong vấn đề quan hệ văn và võ, lịch sử nhân loại đã trải qua một quá trình phát triển từ phân ly đến hòa hợp rồi từ hòa hợp đến phân ly. Xã hội loài người ở thời kỳ mông muội, văn và võ không tài nào có thể phân chia, thủ lĩnh bộ lạc cầm đầu dân chúng sản xuất, săn bắt, tác chiến, thông thường đều là lãnh tụ trí dũng song toàn của bộ lạc đó.

Khi loài người bước vào xã hội văn minh, lấy chế độ tư hữu làm cơ sở, văn và võ dần dần phân ly. Quan văn không thạo võ, thậm chí coi thường võ; quan võ không thạo văn, thậm chí không biết một chữ, người toàn tài văn võ đều kiêm toàn thật sự, có học vấn cao siêu và bản lĩnh thật là hiếm hoi.

«Trị quốc an bang» như thế nào, giữa văn và võ ai quan trọng nhất, thường là quan văn dựa vào văn, quan võ dựa vào võ, bên nào cũng cho mình hơn, khó mà kết luận được. Đến nay, do văn hóa khoa học phát triển nhanh chóng, văn và võ có xu hướng hòa hợp trở lại, trở thành một bộ phận hữu cơ tạo nên bộ máy nhà nước. Xét về tố chất thành viên của bộ đội, có thể đem dũng, trí và học hòa thành một thể thống nhất hay không đã trở thành tiêu chỉ quan trong để xem xét tiêu chuẩn chỉ huy các cấp có đạt hay không.

Tóm lại, văn và võ là phân ly hay là hòa hợp, thường do thời đại khác nhau mà nhìn nhận khác nhau, xét về nghĩa rộng đều là phép mầu làm cho nước giàu quân mạnh không thể tách rời được. «Văn trị võ công» hai bên hợp với nhau càng tốt đẹp, là đặc điểm chung của thời kỳ toàn thịnh của các thời đại. Hơn hai ngàn năm trước, tư tưởng văn võ không tách rời nhau mà Khổng Tử chủ trương, đến nay vẫn lóe lên ánh sáng chân lý.

Trước khi làm một việc, người ta luôn có thể hỏi: «Cần phải trước lễ sau binh».

Trên thực tế việc này chính là vận dụng phép biện chứng. Lễ là nhu, binh là cương, cương nhu giúp lẫn nhau, mới có thể làm nên sự việc.

Ví như bạn là một người lao động, nếu như bạn suốt ngày lầm lầm sắc mặt, nghiêm túc với cấp dưới, như thế thì cấp dưới của bạn rất có thể do sợ bạn, mà không dám tiếp cận bạn, có một số kiến nghị và ý kiến rất hay, đều không thể nói với bạn, làm cho bạn trở thành cô độc. Dù cho bạn tài năng rất lớn, cũng không thể làm nên được thành tích kỳ diệu.

Nhưng, nếu bạn là một lãnh đạo, bình dị gần gũi người quá mức, suốt ngày gặp ai đều cười cười nói nói, không có một chút uy nghiêm, như thế, bạn có thể cũng không thành công một việc gì.

Bởi vì trong con mắt của cấp dưới, bạn không có một chút tôn nghiêm, mệnh lệnh và chỉ thị bạn ban ra cấp dưới sẽ tiếp nhận giống như trò chơi trẻ con, không được họ coi trọng.

Học được phép biện chứng, mới có thể trở thành lãnh đạo theo ý nghĩa chân chính tức là người lãnh đạo giỏi thì nhất định là phải ân uy đều đúng, cương nhu đều có.

Nên giết gà để dọa khỉ, cứ phải giết gà để cho khỉ xem; nên ba lần đến lều tranh thì ba lần phải đến lều tranh (ý nói đến cầu Gia Cát Lượng của Lưu Bị) - lãnh đạo phải chính là lãnh đạo.

39. Coi chừng cái tròng bày sẵn

Khéo léo bày ra cái tròng, tức là khéo léo bày ra mưu kế, làm cho đối phương bị lừa mắc vào tròng, xem hiện tượng làm bản chất, tin cho là thật, sau đó khuất phục đối phương. Đây là một phương pháp ly gián. Phương pháp khéo léo bày ra cái tròng cũng có rất nhiều.

Dưới đây nêu lên tóm tắt một số ví dụ trong lịch sử, để bạn đọc tham khảo.

1) Thuật lừa phỉnh

Cái gọi là lừa phỉnh, tức là nhân lúc quốc vương vui vẻ lừa phỉnh đối phương đến dâng lời can gián, làm cho quốc vương mất hứng sinh cáu giận. Thế là liền thừa cơ hội khôn khéo dùng tay nhà vua hãm hại đối phương.

Cuối thời nhà Tần, Triệu Cao vì mình giết người quá nhiều, sợ Lý Tư vạch ra, liền dùng kế lừa phỉnh. Triệu Cao nói với Lý Tư: «Hiện nay vùng Quan Đông trộm cướp nổi lên, mà Thiên tử không cử quân đi dẹp. Ngược lại đi xây dựng gấp gáp cung A Phòng. Thừa tướng vì sao không dâng lên một lời khuyên gián?». Lý Tư nói: «Thiên Tử không lên triều, ở trong cung kín, không gặp được Ngài».

Triệu Cao nói: «Không sao, đợi khi Thiên Tử có dịp thuận tiện, tôi sẽ bảo ông». Đợi khi Tần Nhị Thế vui vẻ, Triệu Cao liền sai người đến thông báo cho Lý Tư biết Thiên Tử đang rỗi rãi trong triều. Lý Tư liền vào cung dâng lời khuyên gián, mà còn lặp đi lặp lại nhiều lần. Tần Nhị Thế rất bực mình, Triệu Cao liền thừa cơ hội đó nói bịa đặt cha con Lý Tư thông đồng với bọn cướp, Tần Nhị Thế tin là thật, liền đem Lý Tư và cả gia tộc giết sạch.

2) Thuật dụ vạch tội

Cái gọi là dụ vạch tội, tức là trước được quốc vương đồng ý, phá lệ cũ bãi bỏ một biện pháp lớn nào đó, dụ đối thủ chính trị đến can thiệp vào, từ đó để đổi lấy sự đồng tình của quốc vương, đạt được mục đích công kích đối thủ chính trị.

Thời Hán Nguyên đế, Thạch Hiện để củng cố vị trí của mình, mật tấu riêng với Nguyên đế, kiến nghị để thuận tiện cho việc tâu trình nên mở cửa cung ban đêm, Nguyên đế ưng thuận.

Thạch Hiện mấy lần ra vào cửa cung về đêm khuya, liền có người nói với Nguyên đế, Nguyên đế lại chỉ đưa ra một cái cười. Thạch Hiện lại thừa cơ hội nói: «Bệ hạ sủng ái vi thần, quần thần đều rất ghen tỵ, giành mưu hãm hại, may nhờ Bệ hạ sáng suốt, không khiển trách nghiêm khắc. Từ nay về sau thần sẽ lui về chức cũ, để tránh có người nhìn lấm lét».

Nguyên đế nghe xong càng rủ lòng thương hại, từ đó nếu có tâu trình vạch tội Thạch Hiện, nhất luật không để ý nữa.

3) Thuật dụ gián

Dụ gián tức là đem gái đẹp tặng cho quốc vương nước thù địch làm vui, khiến cho ông ta chểnh mảng chính sự, từ đó các trung thần của ông ta sẽ tất nhiên bất bình bỏ đi, đạt được mục đích làm tan rã quân địch.

Tề hầu từ sau khi Khoái Giáp Cốc tạ thế, Yến Anh bị ốm chết, đang buồn vì trong triều thiếu người thì được biết Khổng Tử làm Tể tướng nước Lỗ, nước Lỗ hưng thịnh, cảm thấy lo lắng: «Nước Lỗ sau khi cường thịnh tất sẽ xưng bá chiếm đất, mà nước Tề lại là nước láng giềng của họ, họa binh đao e rằng đến nước Tề ta trước, làm thế nào bây giờ?».

Đại phu Lê Di liền hiến kế nói: «Thần nghe nói một nước sau khi quản lý yên ổn ắt sẽ sinh ra kiêu căng chủ quan. Xin đem những cô gái đẹp trang điểm lộng lẫy tặng cho Lỗ vương, khi Lỗ vương tiếp nhận nhất định sẽ chìm đắm trong nữ sắc, chểnh mảng công việc chính sự. Từ đó xa lánh Khổng Tử, Khổng Tử chịu không nổi, tất nhiên sẽ dời nước Lỗ đi sang nước khác. Nếu quả nhiên như thế thì chúa công sẽ có thể tha hồ kê cao gối mà nghỉ ngơi rồi». Tề hầu thực hiện kế của ông ta, Lỗ vương quả nhiên trúng kế, Khổng Tử dâng lời khuyên ngăn đều không nghe.

Khổng Tử không chịu nổi, buồn rầu thở dài, liền thay đổi trang phục đi khỏi nước Lỗ. Tử Lộ và Nhiễm Hữu cũng bỏ quan cùng đi theo Khổng Tử. Từ đó về sau, nước Lỗ lại bắt đầu suy sụp.

4) Thuật dụ xem xét

Dụ xem xét tức là biết nội tình của đối phương, nhưng lại không nói rõ ra, dụ làm cho người cầm quyền tự mình đi xem xét để biết, từ đó dẫn đến nghi ngờ. Khiến cho người cầm quyền không dùng đối phương, thậm chí làm hại thêm đối phương.

Thời Tống Nhân tông, Vương Tăng và Lã Di Giản làm Tể tướng, Thịnh Độ và Tống Thụ, Thái Tề cùng tham tri chính sự, ở đây Vương Tăng có quan hệ tốt với Thái Tề, Lã Di Giản có quan hệ tốt với Tống Thụ, duy nhất có Thịnh Độ là không được hai Tể tướng sủng ái.

Một hôm, hai ông Vương Tăng và Lã Di Giản đồng thời muốn từ chức Tể tướng, Nhân tông không biết rõ tình hình nội bộ, liền hỏi Thịnh Độ. Thịnh Độ nói: «Người tâm phúc của hai người ấy, kẻ hạ thần không rõ. Nhưng, xin Bệ hạ cứ hỏi hai người ấy có thể thay thế thì có thể biết nội tình của họ». Nhân tông hỏi hai Tể tướng Vương và Lã, Vương Tăng cử Thái Tề, Lã Di Giản tiến cử Tống Thụ.

Nhân tông liền đem bãi chức quan của cả bốn người này, duy nhất để lại Thịnh Độ và thăng chức của ông lên Khu mật viện tri sự.

5) Thuật phản vấn

Phản vấn tức là cố ý ngược với ý họ mà hỏi đối phương, làm cho bộ mặt chân thực của họ hoàn toàn lộ ra sau đó trừng trị họ.

Lưu Diệp giỏi ứng biến. Ngụy đế dự định tấn công nước Thục, triều thần trong ngoài đều nói không thể. Lưu Diệp khi cùng ở bên Hoàng đế thì nói có thể, nhưng khi cùng ở chỗ với triều thần thì lại nói không thể. Trung lãnh quân Dương Ký kiên quyết phản đối tấn công nước Thục, mỗi lần gặp Lưu Diệp, Lưu Diệp cũng nói không thể.

Không lâu, Dương Ký đi theo Hoàng đế vi hành tại đất Thiên Uyên, Hoàng đế lại nói đến việc tấn công nước Thục, Dương Ký vẫn phản đối. Hoàng đế không cho là đúng, nói: «Ông là một thư sinh, không hiểu việc dùng binh!». Dương Ký nói: «Bệ hạ nói rất đúng, nhưng Bệ hạ đề bạt thần trên lục quân, thần có lời tâm sự không dám nói ra. Ý kiến của thần không thể dùng, nhưng Thị trung Lưu Diệp lại cũng thường nói không thể tấn công Thục».

Hoàng đế nói: «Nhưng ông ta lại nói với quả nhân có thể tấn công». Dương Ký kiến nghị tìm Lưu Diệp lại để hỏi, Lưu Diệp sau khi đến lại không nói một lời. Sau đó, Lưu Diệp một mình gặp Hoàng thượng nói: «Tấn công Thục là mưu lược lớn, sau khi thần biết thường lo lắng mình tiết lộ trong lúc ngủ say, làm sao dám nói với người khác! Kế dùng binh, quý là ở chỗ biết giả vờ, việc quân chưa làm không thể tiết lộ. Mà bệ hạ lại đem nó nói toạc ra hết, thần e rằng nước Thục đã biết».

Hoàng đế liền cám ơn Lưu Diệp, Lưu Diệp lại quở trách Dương Ký nói: «Người câu cá khi câu được con cá to, phải thả lỏng tay để cho con cá bơi lội tung tăng, sau đó mới có thể dần dần kiềm chế nó, bắt được nó. Mà cái uy của ông vua, đâu chỉ vì một con cá to. Ông ta là một người bầy tôi thẳng thắn, song phương pháp làm không thích đáng, không thể không suy nghĩ kỹ được!».

Dương Ký cũng cám ơn Lưu Diệp. Đối với Lưu Diệp, thường giữ đặc điểm hai đầu, đã từng có người nói với Hoàng đế Lưu Diệp đối với Hoàng thượng không tận trung, lời nói và hành động của ông ta chỉ là để lấy lòng Hoàng thượng, đồng thời hiến kế nói, nếu không tin, có thể dùng ý ngược lại nói chuyện trực tiếp với Lưu Diệp để thử xem. Hoàng đế dùng cách phản vấn để thử, quả nhiên tìm ra sự xảo trá của Lưu Diệp, sau đó Hoàng đế đoạn giao với Lưu Diệp. Lưu Diệp do vậy đã phát điên, suốt ngày buồn rầu mà chết.

6) Thuật bày tròng

Bày tròng tức là muốn một cảnh tượng làm cho đối phương biểu diễn hành vi không hợp lý nào đó, từ đó gây nên phẫn nộ của người thứ ba, đạt được mục tiêu làm hại thêm đối phương.

Thời nhà Thương, mẹ kế của Hiếu Kỷ có nhiều mưu kế xảo quyệt, nhân lúc người chồng ngồi trên đài ngắm cảnh, đã hẹn con trai của chồng đi dạo chơi vườn hoa, bà ta liền giấu ong trong tay áo, gọi cho con trai của chồng đến kéo tay áo lên để bắt ong, hai người cứ lôi lôi kéo kéo.

Lúc này, bà ta liền cố ý làm ra bộ chân tay luống cuống, kinh sợ hoảng hốt, để cho người chồng ngồi trên đài từ xa xa nhìn thấy mà hiểu lầm, cho là con trai đang đùa chớt nhả mẹ kế. Người chồng trong cơn tức giận không hỏi rõ đầu đuôi, đã đánh con trai thậm tệ, buộc anh ta phải bỏ trốn đi nơi xa xôi.

Sủng phi của Hiến công nước Tấn thời Xuân Thu là Li Cơ hãm hại Thân Sinh cũng là dùng thủ đoạn này.

7) Thuật xung kích

Xung kích tức là nhân lúc A đang làm trò sai trái dụ B đến chỗ A chứng kiến, để A hận B gây nên mâu thuẫn.

Hạ Kim Quế trong «Hồng lâu mộng» nhân lúc Tiết Bàn cùng với Bảo Thiềm trò chuyện, sai Hương Lăng đi vào trong phòng lấy chiếc khăn mặt, Hương Lăng vừa đi vào thì bắt gặp, không tránh kịp, thẹn chín cả mặt. Tiết Bàn và Bảo Thiềm đều cho là Hương Lăng cố ý phá quấy, liền cùng đuổi đánh Hương Lăng.

8) Thuật nghiệm chứng

Nghiệm chứng tức là cố ý biểu hiện ra một hành vi, để đối phương bắt được, báo cho người khác biết, đôi khi người được phái đến nghiệm chứng, lại khôi phục lại trạng thái bình thường, chứng minh thật ra không có việc đó.

Thời Tam quốc, Tào Tháo thường bị người chú xoi mói rồi bị đánh bị chửi.

Một hôm, khi người chú đi đến chỗ ông, ông giả vờ bị ngất xỉu, người chú hoảng hốt lo sợ, chạy đi báo cho cha Tào Tháo biết. Nhưng đến khi cha Tào Tháo chạy vội đến, ông ta lại vui chơi như thường, không hề có một chút bệnh trạng nào. Người cha hỏi đây là duyên cớ làm sao. Tào Tháo liền nhân dịp tố khổ nói ông chú đã chia rẽ như thế nào, lâu này bị đánh là đều do vu khống. Cha ông rất tin không nghi ngờ gì nữa, từ đó bèn không tin lời ông chú nói nữa.

..........

Cố nhiên, các mánh khóe không chỉ có ngần ấy loại, những mánh khóe nổi tiếng xưa nay có hàng ngàn hàng vạn, khi người ta vận dụng nó cũng phải phân biệt vận dụng dành cho từng người, từng nơi và từng lúc.

Vận dụng mưu kế một cách đúng chỗ, có thể làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên phong phú, có thể làm cho sự nghiệp của chúng ta trở nên hưng vượng phát đạt.

- Chỉ cần ở chỗ có thiện ý là được.

40. Nhắm vào chỗ lớn, làm nên việc lớn

Sự việc trên đời đều là phức tạp.

Muốn làm nên việc lớn, các biến số gặp phải càng nhiều. Nhiều sự việc đều có đặc điểm không thể ngờ tới, có chỗ mạo hiểm không thể tránh. Không dám mạo hiểm, mọi việc cần hoàn toàn không có sai sót mới làm, bảo hiểm như thế thì chắc chắn, nhưng cũng có thể đã để mất cơ hội, việc có thể thành, có khả năng chỉ là những việc nhỏ.

Có câu nói là: «Nhát gan không thể làm tướng quân, sợ chết cũng phải gặp Diêm vương».

Những người làm nên việc, lập nên nghiệp, không thể không chú ý đến điều này. Hãy đem Gia Cát Lượng được mọi người tin phục nhất ra để xét, sẽ có những bài học đáng được tổng kết.

Gia Cát Lượng sau khi thu phục Mạnh Hoạch củng cố miền Tây Nam, bèn theo phương châm chiến lược đã định trong kế sách Long Trung, bắt đầu lên phía Bắc đánh Trung Nguyên. Đại quân đi đến Miện Dương, thám mã về báo, Đô đốc quân Ngụy là Hạ Hầu Mậu «điều quân mã các lộ Quan Đông đến để chống địch».

Lúc này danh tướng xuất thân từ nhà binh là Ngụy Diên nêu lên với Gia Cát Lượng một kiến nghị khiến người ta tỉnh ngộ:

«Hạ Hầu Mậu là công tử bột, nhu nhược vô mưu. Diên này muốn được 5 ngàn tinh binh, chọn đường ra Bao Trung, men theo phía Đông Tần Lĩnh, thẳng khe Tý Ngọ lao lên phía Bắc. Không đầy mười ngày có thể đến được Tràng An. Hạ Hầu Mậu nếu nghe tin thần đột nhiên đến, ắt sẽ bỏ thành nhằm về phía Hoàng Môn. Để Các chạy trốn. Thần sẽ từ phía Đông đánh vào, Thừa tướng có thể thúc đại quân từ đường Tà Cốc tiến lên: làm như thế thì từ Hàm Dương về phía Tây, chỉ một trận là có thể định được.»

Nhưng thật đáng tiếc, Gia Cát Lượng lại cho rằng chủ ý của Ngụy Diên «không phải là kế vẹn toàn», do đó đã cố chấp quyết định «từ Lũng Hữu chọn con đường lớn bằng phẳng, tiến quân đúng phép».

Lúc đó, quân Thục từ Hán Trung bắc tiến đến Trung Nguyên cần phải thông qua vài trăm dặm núi cao khe hiểm.

Vì điều kiện địa hình hạn chế, chỉ có hai hướng có thể dùng để chọn: một là ra Tần Lĩnh vào Quan Trung. Hướng này có ba đường tức là đường Tý Ngọ, đường Thảng Lạc và đường Bảo Tà. Ba đường này đều là khe dài đường hiểm, mang lại rất nhiều khó khăn cho hành động quân sự, đặc biệt là hành động binh đoàn lớn. Nói một cách tương đối, đường Tý Ngọ nằm phía Đông dãy Tần Lĩnh cách Tràng An gần nhất. Căn cứ giới thiệu của «Binh yếu địa chí», phía nam khe gọi là Ngọ, phía bắc khe gọi là Tý, bắt đầu từ Thạch Tuyền về phía Bắc đến phía nam Tràng An khoảng hơn một trăm dặm, chiều dài khe là 600 dặm.

Một hướng khác là từ Hán Trung qua Bình Dương quan, Võ Hưng, Kỳ Sơn đến Thiên Thủy. Đường tuy xa, nhưng tương đối bằng phẳng.

Kiến nghị của Ngụy Diên, đối với các mặt như tình hình địch, đường xa, phương án tác chiến, diễn biến chiến dịch, đều được phân tích tương đối sát hợp với thực tế, phải nói là tương đối có hiểu biết.

Giá như Gia Cát Lượng tiếp nhận và lấy đó làm tư tưởng chỉ đạo quân sự cho việc tiến lên phía bắc tác chiến, có thể sẽ thực hiện được mục đích chiếm đoạt Tràng An và thu phục Tam Tần một cách nhanh chóng.

Tính đúng đắn trong kiến nghị của Ngụy Diên, chủ yếu biểu hiện tại mấy mặt dưới đây.

Trước hết là tác chiến ở vùng núi rừng phải chú ý dùng «kỳ binh» (quân đánh úp), bao gồm hành động quân sự bất ngờ như tập kích đột ngột, phục kích. Đánh thắng bất ngờ về mặt chỉ huy quân sự là một quy tắc chung. Bất kể đồng bằng, miền núi hoặc sông ngòi, đầm hồ đều phải kiên trì dùng «kỳ binh» để giành thắng. Điều này tại vùng rừng núi lại càng quan trọng. Đó là do hạn chế của địa hình phức tạp, không có lợi cho đại binh đoàn triển khai tác chiến chính quy, mà thích hợp nhất cho cánh quân nhỏ, lực lượng tác chiến đặc chủng hoạt động. Còn cần phải nhìn thấy, đối với người tấn công để xét, núi cao đèo dốc vừa là trở ngại ảnh hưởng hành động quân sự. Những vị tướng thích đánh thắng bất ngờ, luôn thích dưới sự yểm hộ của bức màn chắn này xoáy vào chỗ sơ hở của địch, tạo nên sự chênh lệch thời gian và không gian khi đối phương tác chiến phòng thủ. Hán Trung và Tần Xuyên là do núi non trùng điệp của dải núi Tần Lĩnh ngăn cách, thích hợp cho «thủ» mà không cho «công». Quân Thục muốn lên phía Bắc đến Tần Xuyên nếu không dùng tập kích bất ngờ thì khó mà thắng được. Ngụy Diên chính là căn cứ tình hình thực tế này nêu lên kiến nghị tập kích bất ngờ tự mình «dẫn 5000 tinh binh», «men theo phía Đông Tần Lĩnh, thẳng khe Tý Ngọ lao lên phía Bắc». Nhưng Gia Cát Lượng lại từ chối không tiếp nhận kiến nghị đúng đắn này, ngược lại lại dùng cách đi vòng rất xa, từ Hán Trung đi về phía Tây, ra Kỳ Sơn dẫn 10 vạn quân tiến đánh «diễu hành vũ trang lớn» trong rừng rậm núi cao. Bày ra thế trận tác chiến chính quy này không những mục tiêu lớn, khó mà đạt được đánh bất ngờ, mà còn làm mệt mỏi quân tướng, tất nhiên tạo nên lực lượng hậu bị của mình không đủ.

Kiến nghị này của Ngụy Diên không chỉ là kế sách kỳ lạ, đồng thời còn là một mưu lược «kỳ chính» (đánh úp và chính quy, chính diện) đều dùng, cùng tỏa sáng. Trong binh pháp thời xưa, «kỳ» và «chính» là hai cách dùng binh trái ngược nhau nhưng hỗ trợ lẫn nhau, nếu như chỉ dùng một cách tất nhiên hình thành thế lẻ loi, cô đơn, chỉ có dùng cả hai cách song song mới có thể thu được hiệu quả hai bên phối hợp nhau càng tốt đẹp.

Tôn Tử nói: «Phàm chiến giả, dĩ chính hợp, dĩ kỳ thắng». Hợp nói ở đây là chỉ hội hợp, giao chiến. Ý của câu này là: Khi dùng binh tác chiến, đều là dùng «chính binh» hợp chiến, dùng «kỳ binh» giành thắng.

Năm 718 trước công nguyên, nước Trịnh tấn công nước Vệ, nước Yên xuất quân cứu viện, chiến đấu với quân Trịnh tại Bắc Chế (nay nằm trong huyện huỳnh tỉnh Hà Nam).

Quân Trịnh xếp sắp quân sĩ ở trước mặt quân Yên, ngoài ra dùng một bộ phận binh lực khác đánh úp sườn phía sau của nó. Khi quân Yên chỉ chú ý phòng bị phía trước, phía sau lưng lại bị tập kích bất ngờ của quân Trịnh, kết quả bị thua to.

Tương tự, trong kiến nghị của Ngụy Diên, một mặt nêu lên mình dẫn 5000 tinh binh từ khe Tý Ngọ đột kích quân Ngụy phòng ngự vùng trung tâm Tràng An, một mặt lại nhấn mạnh Thừa tướng có thể thúc đại quân từ đường Tà Cốc tiến lên, như thế sẽ hình thành thế tiến công «kỳ chính» phối hợp với nhau. Theo tư tưởng dùng binh của Tôn Tử về «kỳ chính», trong tình huống «kỳ chính» đều dùng song song với nhau, «chính binh» chủ yếu là thu hút kẻ địch biểu lộ ra trước địch, để ngụy trang tính đột nhiên của hành động «kỵ binh» (quân đánh úp).

Gia Cát Lượng trong «đối sách Long Trung» đã nêu lên việc chiếm đoạt Tần Xuyên làm phương hướng chủ yếu xuất kích chiến lược, thống nhất Hoa Hạ, không chút nghi ngờ là kinh nghiệm lịch sử noi gương Lưu Bang đem binh ra Quan Trung tranh đoạt thiên hạ với Hạng Võ.

Lúc bấy giờ, Đại tướng của Lưu Bang là Hàn Tín dùng kế «công khai sửa chữa đường sàn, ngấm ngầm vượt Trần Thương», từ Hán Trung đánh vào Quan Trung, một trận đã bình định được Tam Tần. Mục đích của việc «công khai sửa chữa đường sàn», chính là ở chỗ tỏ rõ tình thế ra trước địch, thu hút sự chú ý của quân địch, cũng coi như là một loại dùng «chính».

Còn khi kẻ địch tập trung chú ý vào con đường sàn cũ thông đến Quan Trung, thì Hàn Tín lại dẫn quân ngấm ngầm theo đường nhỏ vòng đến Trần Thương (nay là miền Đông huyện Bảo Kê tỉnh Thiểm Tây) gây nên cuộc tập kích bất ngờ, làm cho kẻ địch không kịp trở tay.

Cần phải thừa nhận, nếu không có việc «công khai sửa chữa đường sàn» là không thể giành được thế trận «ngấm ngầm vượt qua Trần Thương». Nguy Diên kien nghi Gia Cat Luong dan dai quân « tu Ta Coc tien ra», cung là co y thu hut suc chu y cua ke dich lai, de bao dam cho ông ta tu khe Ty Ngo bat ngo danh ra giành thang loi.

Nhung dang tiec là Gia Cat Luong lai xem kien nghi cua Nguy Diên là « ke nguy hiem », kiên tri dem quân ra Ky Son, tu do xây dung the danh ve mot phia.

Kiến nghị của Ngụy Diên, còn bao hàm quan hệ biện chứng kỳ với hiểm (bất ngờ với hiểm) và hiểm với di (hiểm và bình yên). Một bộ sử chiến tranh sinh động đã chứng tỏ, không có bất ngờ thì không nguy hiểm. Dùng binh bất ngờ bản thân đã mang ý nghĩa dám đảm nhận mạo hiểm, xông vào chỗ khó.

Song, phép biện chứng quân sự chính là như thế, chỗ cửa vào địa ngục cũng là cửa lớn đi tới thiên đường, trong nhiều trường hợp, những chỗ nguy hiểm kỳ thực cũng chính là chỗ không dự đoán của đối thủ, chính là «góc chết» trong tư duy phán đoán của tướng lĩnh phía địch.

Do đó, từ ý nghĩa này để xét, trong nguy hiểm lớn nhất, thường bao hàm nhân tố an toàn và thành công nhiều nhất; người ta cho rằng thời gian, địa điểm không thể giành thắng, những con đường bằng phẳng có thể đi tới thắng lợi.

Cái gọi là «trên chỗ vách đá cheo leo an toàn nhất» không phải là không có lý.

Bởi vì tại chỗ đối phương không ngờ đến rất có khả năng tránh được cạnh tranh, tránh được nguy hiểm.

Trong thương chiến hiện đại chúng ta nhìn thấy đã quá nhiều. Khổng Minh dùng binh luôn luôn cẩn thận, khi quyết định sách lược chỉ nhìn thấy mặt nguy hiểm trong kiến nghị của Ngụy Diên, lại bỏ qua một mặt khác trong nguy hiểm có bình yên, trong nguy hại có lợi.

Do đó cũng nói rõ một đạo lý, tướng soái quá cẩn thận mặc dù mọi chỗ suy nghĩ rất chu đáo, nhưng thường vì không dám mạo hiểm dấn thân nên khó mà sáng tạo được công tích phi thường.

Gia Cát Lượng sau lần ra Kỳ Sơn, mặc dù về chiến thuật giành được một số thắng lợi, nhưng do về tư tưởng chỉ đạo tác chiến chung áp dụng sách lược cẩn thận và bảo thủ, cho nên cuối cùng không giành được thành công lớn.

Ngoài ra, về tính đúng đắn của kiến nghị này của Ngụy Diên, vẫn có thể được phản chứng từ trong một đoạn lời của Tư Mã Ý.

Trong «Tam quốc diễn nghĩa» nói, về sau khi Tư Mã Ý đem quân đến chóng quân Thục, đã từng nói với tướng tiên phong Trương Cáp: «Gia Cát Lượng xưa nay cẩn thận, không dám tạo nên hành động tồi. Nếu là ta dùng binh, trước hết từ khe Tý Ngọ tiến quân đánh giành Tràng An, thì sớm được nhiều thời gian. Ông ta không phải là vô mưu, những sợ có sai sót không dám mạo hiểm».

Tác giả thông qua lời nói của Tư Mã Ý, một lần nữa nhắc đến do Gia Cát Lượng quá cẩn thận, đã tạo nên thất sách về chỉ đạo quân Thục tác chiến.

Ngụy Diên kiến nghị từ đường Tý Ngọ xuất quân đánh úp thẳng chiếm Tràng An, trong lịch sử đích thực có việc đó.

Trong sách «Ngụy lược» nói: «Hạ Hầu Mậu là An tây tướng quân, trấn giữ Tràng An. Gia Cát Lượng bàn kế với các thuộc hạ tại Nam Trịnh, Ngụy Diên nói: «Nghe nói Hạ Hầu Mậu còn trẻ, là con rể chúa thượng (con rể của Tào Tháo), nhát gan mà vô mưu. Nay giá như Diên dẫn năm ngàn tinh binh, kèm lương năm ngàn, đi thẳng từ Bao Trung ra, men theo phía Đông Tần Lĩnh, thẳng khe Tý Ngọ lên phía Bắc, không quá 10 ngày có thể đến Tràng An. Mậu nghe Diên đột nhiên đến, ắt sẽ lên thuyền chạy trốn. Trong Tràng An chỉ còn có Ngự sử và Kinh Triệu Thái thú thôi, lương thực của Hoành Môn, Để Các và dân sơ tán đầy đủ để ăn. So với việc tụ hợp ở phía Đông vẫn cần khoảng 20 ngày, còn Thừa tướng sẽ từ phía Tà Cốc đánh tới. Chắn chắn là đầy đủ mà lại đạt. Như vậy, thì chỉ một trận đã có thể bình định được cả vùng từ Hàm Dương về phía Tây». Gia Cát Lượng cho rằng việc này có phần nguy hại, không bằng đi theo đường bằng phẳng, có thể lấy được Lũng Hữu, hoàn toàn dành được mà lại không có gì lo lắng, cho nên không dùng kế của Diên». Có không ít nhà nghiên cứu lịch sử đều từ trong tác chiến Kỳ Sơn nhìn ra chỗ thiếu sót về cách dùng binh của Gia Cát Lượng – Mặc dù ông là người «đa mưu túc trí», tài thao lược đầy người. Nhưng về chỉ đạo dùng binh chỉ vì tính cách cẩn thận nên đã kiên trì sách lược bảo thủ.

Đối với việc này lời bình luận của Trần Thọ trong «Tam Quốc Chí» càng là thành khẩn chân thực: «(Lượng) là người chủ soái quân đội nhà Hán, nhưng dùng muu bất ngờ là không giỏi; xử lý việc liên quan đến con người giỏi về mưu lược dùng binh».

Tác giả của «Tam quốc diễn nghĩa» mặc dù muốn đem Khổng Minh miêu tả thành người hoàn mỹ, đặc biệt là về trí mưu thao lược, hòng dựng Gia Cất Lượng thành hóa thân của trí tuệ, nhưng giống như một số sự thực lịch sử quan trọng Gia Cát Lượng sau lần ra Kỳ Sơn không giành được tiến thủ gì cả như thế, cũng không thể làm trái ngược được.

Do đó, Khổng Minh dưới ngòi bút của La Quán Trung cũng tất nhiên là một hình tượng nhân vật cơ bản là tốt chỉ có khuyết điểm nhỏ thôi như một viên ngọc đẹp có vết nhỏ.

Muốn thành sự, đòi hỏi phải có đủ mọi tố chất, dám mạo hiểm là một trong những tố chất ắt không thể thiếu.

41. Giương cờ lớn, làm da hổ

«Kéo cờ lớn làm da hổ bao hàm ý mình hăm dọa người khác», câu nói này của Lỗ Tấn tiên sinh mọi người đều biết, chỗ này ý của nó bao hàm sự chê tránh là chủ yếu.

Thực ra, trong đấu tranh chính trị, trong đời sống xã hội, đây là một hiện tượng rất phổ biến, là thủ đoạn rất có hiệu quả. Đây cũng là vận dụng thuyết Tuân Tử gọi là «thiện giả vu vật dã».

Cách này cũng gọi là mượn danh giúp đỡ, tức là mạo danh dùng một loại cờ hiệu nào đó, để kêu gọi các lực lượng phản đối, khiến họ quy thuận về mình, từ đó tiến hành phân hóa và làm tan rã, đập tan từng bộ phận. Nhìn lại lịch sử, kẻ âm mưu khi lòng người chưa theo, lực lượng chưa đủ, phần nhiều đều dùng cách này, mượn oai người khác để làm mạnh mình, thực hiện âm mưu của mình.

1. Tôn vương

Thời Xuân thu – Chiến quốc, các chư hầu tranh bá, tranh chấp liên miên không ngừng, tai nạn chiến tranh dồn dập, nhân dân không được sống yên ổn.

Lúc đó, Chu Thiên tử quyền lực suy yếu không đủ sức thống trị, nhưng địa vị cao nhất của ông ta, thì ai cũng không dám công khai phản đối.

Không chỉ như vậy, một quốc quân mới lên ngôi, cũng phải được Chu Thiên tử thừa nhận. Tề Hoàn công dẫn đầu nêu lên khẩu hiệu «tôn vương».

Khẩu hiệu này và những hành động dưới khẩu hiệu này có tác dụng tích cực không nhỏ đối với nước Tề thôn tính các nước nhỏ yếu và mở rộng lãnh thổ.

Lại như cuối thời Đông – Hán, các «quần hùng» đánh lẫn nhau, tai họa chiến tranh không ngừng diễn ra, đặc điểm nổi bật của nó là dùng thiên tử làm chiêu bài, lấy danh nghĩa của thiên tử làm việc của mình, đem danh nghĩa của thiên tử làm công cụ thực hiện mục đích của mình.

Đổng Trác sau khi vào Lạc Dương không lâu, liền phế bỏ Thiếu đế, bức ép Hán Hiến đế để ra lệnh cho các nước chư hầu. Bởi vì lấy danh hiệu của Hán Hiến đế để ra lệnh, các nước chư hầu không dám không phục tùng.

Về sau, Tào Tháo lại lợi dụng tờ trình hữu danh vô thực này để ra lệnh cho các chư hầu, lịch sử gọi là ông ta «cưỡng ép thiên tử để lệnh cho chư hầu». Ông lại thông qua thủ đoạn nhất định buộc Hán Hiến đế phong cho ông là Đại tướng quân, ngôi vị trên các đại thần, không những địa vị của mình cao hơn tất cả mọi quan lại, mà hành động của mình cũng danh chính ngôn thuận, các đại thần mặc dù trong lòng có chỗ không phục, nhưng về hành động lại không dám làm khác, đành phải nghe theo sự điều khiển của ông.

Như vậy, Tào Tháo liền chiếm được ưu thế rất lớn về chính trị. Việc này đã có tác dụng rất quan trọng đối với việc sau này nắm được quyền lớn và dựng lên nước Ngụy.

2. Mượn danh nghĩa người khác

Trong đấu tranh, vay mượn một danh nghĩa nào đó, ra lệnh cho bốn phương, danh chính ngôn thuận, mượn danh nghĩa người khác để thực hành âm mưu của mình, từ đó đạt được mục đích của mình.

Thời Tây Hán, Giả Nghị, Tiều Thố và Chủ Phụ Yển chủ trương làm yếu quyền lực của các phiên trấn, Hán Cảnh đế đã nghe theo kiến nghị của họ, quả nhiên đã giảm bớt một số quyền lực của phiên trấn chư hầu. Các phiên trấn chư hầu bị tước bớt quyền lực này đều cảm thấy rất kinh động. Trong căm giận bất bình liền đem bực tức đổ lên đầu Tiều Thố.

Lúc đó, Ngô vương phát binh đi giết quan binh nhà Hán trước. Rất nhanh, sáu nước khác cũng tiếp tục cử binh tấn công nhà Hán. Bảy nước này cùng chung mưu phần đều tiến hành với danh nghĩa giết chết Tiều Thố.

Ngô vương Lưu Tỵ gửi thư cho các nước chư hầu, tức đã mượn danh nghĩa đó.

Trong thư gửi cho Hán Hiến đế, ông viết: «Ngày nay, Hán thất có một tên tặc thần, ông ta chính là Tiều Thố. Ông ta chẳng có công gì với chư hầu, và cử quan lại quản chế chư hầu, đây thật là điều sỉ nhục của các chư hầu. Đồng thời, Tiều Thố cũng không dùng lễ tiết của quân hầu để trọng thị những người ruột thịt họ Lưu, toàn dùng những kẻ gian trá, để tiện giết sạch công thần của các vị tiên đế ta, đây là uy hiếp lớn nhất đối với Hán thất ta. Hiện nay, Bệ hạ ốm đau nhiều, không thể kiểm tra đối với những tình huống cụ thể này, cần phải cử quân di trừng phạt Tiều Thố, bình định thiên hạ, xin Hoàng thượng hãy thẩm tra».

Khi Ngô Thừa tướng Viên Ang đến, Hán Cảnh đế hỏi đến việc liên quan 7 nước, nhưng Viên Ang nói: «Thưa Bệ hạ, xin hãy nghe thần nói, hai nước Ngô Sở đã từng cùng viết thư nói, tặc thần Tiều Thố xâm phạm lợi ích của các chư hầu, chiếm đoạt lãnh thổ của các chư hầu, do đó kích dậy hành động phản loạn của các chư hầu. Họ sở dĩ cùng hò hét khẩu hiệu giết Tiều Thố, mục đích chỉ ở chỗ thu hồi đất cũ mà thôi. Theo ý thần, nên lập tức chém Tiều Thố, khôi phục quyền lực cần có của bảy nước, trả lại lãnh thổ vốn có của họ, như thế, thì có thể tránh đổ máu mà đạt được mục đích loại bỏ chiến tranh».

Hán Cảnh đế quả thật đã nghe theo kiến nghị của Viên Ang giết chết Tiều Thố, lấy đó để tạ tội 7 nước.

Nhưng sau khi Tiều Thố bị giết, bảy nước không bãi binh, mà là từng bước ép chặt, có ý để thoán nghịch. Đến lúc này, Hán Cảnh đế mới biết đã mắc lừa, trong tình huống bất đắc dĩ, mới phái Chu Á Phu dẫn binh đi đánh dẹp.

Trải qua thời gian dài chinh chiến, liên quân bảy nước mới bị đánh bại, phản loạn mới dẹp xong. Nhưng Tiều Thố là người lo xa cho quốc gia, lại bị cướp đi tánh mạng, thực tế khiến người ta bất bình. Đây cũng nói lên kế «mượn danh nghĩa người khác» là một kế có sức mạnh.

3. Mượn lời người khác

Thời xưa có người mượn thiên tai, niệm thần chú mê tín để tạo ra dư luận, hoặc làm việc thoán nghịch. Hoặc ám chỉ đối địch chính trị để thực hành ý chí của mình. Để cướp ngôi, Vương Mãng đã từng sử dụng cách mượn lời người khác.

Vương Mãng sai người khác bịa ra một câu chuyện như sau: Nói Lã Hưng đình trưởng trong một đêm mơ thấy nhiều chiêm bao. Trong mơ, mang máng như có người nói với ông ta: «Ta là sứ giả nhà trời, trời bảo ta đến nói cho đình trưởng biết, Hoàng đế đang nhiếp chính phải là thiên tử, mà không phải bất cứ người nào khác. Nếu như không tin lời của ta, thì các ngươi có thể vào trong đình để xem thử, trong đình đã xuất hiện một cái giếng mới tinh».

Đình trưởng nửa tin nửa ngờ, chạy đến đình xem, quả nhiên có một giếng mới, sâu xuống dưới đất có đến trăm trượng.

Đình trưởng càng tin không chút nghi ngờ đối với sự việc này. Vương Mãng lại sai người vẽ một bức tranh bùa bằng đồng, ở trên viết 8 chữ «Thiên cáo đế phù, hiến giả phong hầu», sau đó đặt ở trước một tảng đá nơi dễ nhìn thấy.

Đồng thời, Vương Mãng còn sai người làm một tấm biển bằng đồng hai mặt, một bên viết «Thiên đế hành tỉ kim quỹ đồ», một bên khác viết «Xích đế tỉ mỗ truyền dữ Hoàng đế kim sách thư». «Mỗ giả» ở đây tức là Cao Hoàng đế. Viết Vương Mãng tức là Thiên tử, vẽ trên tranh cũng là Vương Mãng đang đội chiếc mũ Hoàng đế ngồi trên vị trí của Thiên tử, và định hiệu của thiên hạ gọi là «Tân».

Sau khi Vương Mãng thoán quyền thành công, định quốc hiệu chính là Tân. Vương Mãng cướp ngôi thành công cố nhiên có nhiều nhân tố, nhưng việc vận dụng thành công thủ đoạn mượn lời người khác của ông, không thể không nói là một mặt dư luận quan trọng của nó.

Thủ đoạn mượn lời người khác, trong lịch sử con có rất nhiều ví dụ.

Trọng hiện thực, «kẻ mượn lời người khác» cũng được vận dụng rộng rãi, nhất là trong việc tuyên truyền quảng cáo...

42. Liên hợp là để chống chọi

Người Trung Quốc chú trọng đạo đức nhân nghĩa, còn người Mỹ thì có một tín điều trong sự nghiệp: «Khi tôi không bằng anh, biện pháp tốt nhất là bước vào cửa của anh; khi tôi cảm thấy tôi có khả năng chiến thắng anh, thì nhất định thừa cờ đưa ra kế chống chọi với anh».

Trong «Hồng lâu mộng», Tào Tuyết Cần mượn miệng của Tiểu Hồng nói với mọi người: «Ngàn dặm dựng lều dài, thiên hạ không có bữa tiệc nào không tan».

Đúng thế, trên thế giới không có người bạn vĩnh cửu, chỉ có lợi ích vĩnh cửu.

Tất cả mọi cái người ta tranh cướp nhau, xét đến cùng đều là có liên quan với lợi ích của họ. Đây là chân lý của một nhà triết học vĩ đại đưa ra. Đừng mong muốn giải quyết bất cứ mọi vấn đề một cách chỉ khó nhọc một lần, an nhàn mãi mãi được.

Đã vậy, địch và bạn sẽ đều có thể nằm trong sự biến động không ngừng. Chỉ cần trước mặt có lợi đối với mình, thì không thể không tiến hành tranh giành nó, bạn bè tạm thời cũng là ban bè, cũng cần phải lợi dụng.

Có lúc biết rõ rằng sau này phải mỗi người đi một nẻo, thậm chí trở thành kẻ địch cũng phải liên hợp với họ.

Không nói cũng đủ hiểu, lúc này nhất định có đối thủ càng lớn mạnh nhiệm vụ càng quan trọng.

Ví như:

Thời kỳ cuối nhà Tùy, khởi nghĩa nông dân nổi lên rầm rộ, tất cả có đến vài trăm cánh quân khởi nghĩa, có tính chất đại biểu, ở vùng biên giới phía Bắc có Lý Quỹ, Tiết Cử, Lương Sư Đô, Quách Tử Hòa, Lưu Vũ Chu, Ly Khai Đạo; ở vùng lưu vực Hoàng Hà có Lý Uyên, Vương Thế Xung, Lý Mật, Đậu Kiến Đức, Mạnh Hải Công, Từ Viên Lang; ở vùng Giang Tây có Thẩm Pháp Hưng; Lâm Sĩ Hoằng, Tiêu Tiển; vùng giữa Giang Hoài có Đỗ Phục Uy, Lý Tử Thông, Vũ Văn Hóa. Giữa các đội quân khởi nghĩa nông dân với nhau đều có mưu toan tiêu diệt lực lượng lân cận mình, để làm lớn mạnh mình.

Trong các cuộc đấu tranh kịch liệt này, ai vận dụng chiến thuật chất lượng đúng đắn, đồng thời làm tốt công tác phân hóa chính trị, thì người đó sẽ chiếm ưu thế, từ đó giành được thắng lợi.

Trong chiến tranh thống nhất, cha con Lý Uyên chính là đã thực hành phân hóa làm tan rã đối với quân khởi nghĩa nông dân, đánh tan từng bộ phận, từ đó thống nhất thiên hạ, dựng nên chính quyền Lý Đường.

Lý Uyên vốn là Thái thú Thái Nguyên của nhà Tùy, xuất thân từ địa chủ quý tộc. Thừa cơ hội khởi nghĩa nông dân khắp nơi trong toàn quốc, ông ta đã lãnh đạo bộ phận khởi nghĩa ở Thái Nguyên, trước tiên nhận được sự hưởng ứng của các hào kiệt Sơn Tây, đã giành được nhiều sự ủng hộ của các nhân sĩ thuộc tầng lớn địa chủ, chỉ trong hai tuần đã triệu tập được hàng vạn quân đội và quyết kế tây tiến về Quan Trung.

Nhưng, hai vấn đề hiện thực bày ra trước mắt:

Một là tộc Đột Quyết lớn mạnh đã nhiều lần xâm chiếm Thái Nguyên, đây là một trở ngại lớn của việc Tây tiến.

Hai là Lý Uyên đã từng dẫn quân trấn áp khởi nghĩa nông dân.

Là địch thủ với nông dân, bây giờ nên đối xử với khởi nghĩa nông dân ra sao?

Trước tiên, Lý Uyên sai Lưu Văn Tinh đi Đột Quyết xưng thần với Đột Quyết, trong giới hạn lớn nhất tranh thủ được thỏa hiệp với Đột Quyết, để tránh đối kháng trực tiếp với Đột Quyết.

Đối xử với khởi nghĩa nông dân, Lý Uyên lại dùng thủ đoạn lôi kéo nhẹ nhàng, lập quan hệ hữu hảo với Lý Mật, đồng thời suy tôn Lý Mật làm chủ, mục đích của ông ta là bảo tồn mình trong kẽ trống của khởi nghĩa nông dân, để cầu phát triển mở rộng thêm một bước nữa.

Kế này quả nhiên đã sinh ra hiệu quả lý tưởng:

Một là, Lý Uyên tiến quân về phía Tây được Lý Mật ủng hộ, đồng thời làm cho quân của Lý Mật chặn đứng quân nhà Tùy ở phía Đông, tiện lợi cho mình Tây tiến.

Hai là, Đột Quyết bởi vì Lý Uyên xưng thần với họ, nên không tiến hành đề phòng quá nhiều, ngừng hẳn việc xâm phạm và quấy nhiễu đối với Thái Nguyên, từ đó làm cho Lý Uyên có thể tập trung binh lực tiến thẳng về phía Tây.

Ba là, sau khi Lý Uyên tiến vào Quan Trung, biên chế lại nhiều cánh quân khởi nghĩa, trong thời gian rất ngắn liền có được 9 vạn tinh binh, lực lượng quân sự đã tăng lên mạnh mẽ, tiếp tục Tây tiến và chiếm lĩnh Tràng An.

Sau khi tiến vào Quan Trung, các quần hùng Sơn Đông tranh giành lẫn nhau, tàn sát lẫn nhau.

Thế là, Lý Uyên liền vạch ra kế hoạch đánh lực lượng cắt cứ của một vùng Tây Bắc, để củng cố và mở rộng địa bàn thống trị.

Trước tiên đánh Tiết Cử chiếm cứ một vùng Lan Châu và Thiên Thủy. Tiết Cử thì mưu đồ liên hợp với Lương Sư Đô, đồng thời câu kết với Đột Quyết cùng chống lại Lý Uyên. Nhưng mưu đồ này thật ra chưa được thực hiện. Lý Uyên sai người dùng vàng lụa hậu hĩnh hối lộ Đột Quyết, tách rời liên minh giữa họ với nhau, và lợi dụng mâu thuận của Tiết Cử với Lý Quỹ, gửi thư kết thân thiện với Lý Quỹ, cô lập Tiết Cử, cuối cùng chỉ một trận đã tiêu diệt Tiết Cử.

Sau khi Tiết Cử đầu hàng, mũi nhọn của Lý Uyên liền chỉ vào Lý Quỹ cắt cứ một vùng Hà Tây Vũ Uy. Trước là kết thân với Thổ Cốc huy để cô lập Lý Quỹ, tiếp đó là lợi dụng mâu thuẫn nội bộ Lý Quỹ, lôi kéo An Tu Nhân và An Hưng Quý, sau cùng là phát động chính biến vào tháng 5 năm 619.

Kết quả là, thế lực Lý Quỹ bị tiêu diệt, Lý Uyên đã chiếm lấy Hà Tây.

Đúng lúc Lý Uyên tấn công Lý Quỹ, Lưu Vũ Chu lại câu kết với Đột Quyết tiến công Thái Nguyên vào tháng 3 năm 619, nhưng kết quả ngược lại Lý Uyên dã chiến thắng.

Thắng lợi này, chủ yếu do công của Lý Thế Dân giỏi dùng binh. Đương nhiên Lý Uyên sử dụng thủ đoạn có hiệu quả tách rời liên minh của họ cũng là nhân tố không thể xem thường.

Sau khi Đột Quyết bại trận, lại quay trở về cùng với quân Đường của Lý Uyên đánh Lưu Vũ Chu. Ảo tưởng phá diệt xong, Lưu Vũ Chu và Tống Kim Cương muốn chạy trốn thoát khỏi Đột Quyết, nhưng bị Đột Quyết bắt được, kết quả là Tống Kim Cương bị chém ngang lưng, Lưu Vũ Chu bị chém đầu, việc này đương nhiên là có lợi đối với Lý Đường (chính quyền Lý Đường).

Đến đây, sự uy hiếp sau lưng và phía sau sườn của Lý Đường về cơ bản được loại bỏ, hành động quân sự của tuyến Tây Bắc cũng tạm thời kết thúc, mũi nhọn tiến công của Lý Đường bèn quay sang vùng rộng lớn phía Đông.

Trong thời gian từ năm 618 Lý Mật thất bại đến khi quân Lý Đường đông tiến, tình hình chiến tranh nông dân nhà nước ở phía đông và phía nam đã có biến đổi rất lớn.

Trong quá trình thôn tính, đến đây chỉ còn lại ba lực lượng lớn nhất của Vương Thế Xung ở Sơn Đông, Đậu Kiến Đức ở Hà Nam, Đỗ Phục Uy ở phương Nam. Xét về lực lượng tổng hòa của 3 lực lượng này là mạnh hơn Lý Đường, nhưng bất kỳ một cánh nào của 3 nhóm quân này đều không đuổi kịp Lý Đường.

Nếu như ba lực lượng này thống nhất hành động đối phó với Lý Đường thì việc ai thắng ai thua rất khó đoán trước, nhưng trên thực tế giữa họ với nhau không những phân tán, mà còn ở trong trạng thái đối địch với Vương Thế Xung tiến công Lê Dương của Đậu Kiến Đức, Đậu Kiến Đức thì tiến công Ân Châu xua Vuong Thế Xung.

Trước khi Lý Đường còn chưa đông tiến, Lý Uyên đã sai người du thuyết đến phương đông lôi kéo các bộ phận cũ của Lý Mật và quân khởi nghĩa chống Tùy trước kia (như Vương Bạc).

Đặc biệt quan trọng là Đỗ Phục Uy của Giang Nam đã tiếp nhận phong hiệu của Lý Đường, hợp tác với Lý Đường, đồng thời năm 621 đã phái binh hiệp trợ với Lý Đường. Đây là một thắng lợi rất lớn về chính trị của Lý Đường. Cộng với La Nghệ của