Chương 5
Hercule Poirot nhìn qua cánh cổng nhỏ dẫn lối lên căn nhà có tên Ngọn Thông. Một ngôi nhà nhỏ xinh xắn, giản dị, và được thiết kế rất khéo, Ông khẽ thở dốc, thầm nghĩ cái tên này thật phù hợp. Ngôi nhà nằm trên đỉnh một ngọn đồi, và trên đỉnh đồi có trồng một cây thông tán thưa. Khu vườn của nó cũng nho nhỏ và được cắt tỉa gọn gàng. Giữa vườn, một người đàn ông đứng tuổi, dáng người bệ vệ đang nặng nhọc xách một chiếc xô sắt bước trên con đường.
Mái tóc của thanh tra Spence đã ngả hoa râm, không chỉ bạc ven hai thái dương như trước kia. Nhưng dáng người cao lớn của ông thì gần như vẫn không thay đổi. Spence dừng lại, nheo mắt nhìn vị khách đang đứng ngoài cổng. Hercule Poirot đứng yên chờ đợi.
“Chúa ơi,” thanh tra Spence reo lên. “Có phải là… không lẽ nào… nhưng đúng là ông rồi. Phải, đúng là ông rồi. Hercule Poirot, tôi không lầm vào đâu được.”
“Aha,” Hercule Poirot hài lòng đáp, “ông còn nhớ tôi. Thật quý hóa.”
“Bộ ria của ông không bớt rậm chút nào.”
Spence nói, đặt xô nước tưới cây xuống và chạy ra cổng.
“Đám cỏ quái quỷ,” ông nói. “Ngọn gió nào đưa ông đến đây thế này?”
“Cũng là ngọn gió đã đưa tôi đi rất nhiều nơi trong đời,” Hercule Poirot đáp, “và cũng là nguyên do khiến ông đến tìm tôi cách đây nhiều năm. Lại là một vụ án.”
“Tôi phát chán các vụ giết chóc rồi,” Spence ngao ngán. “Trừ khi là giết đám cỏ dại. Giờ tôi chỉ quan tâm đến kiểu vụ án đố thôi. Thủ tiêu cho được đám cỏ không dễ như ông nghĩ đâu, thể nào cũng sai sót ở đâu đó, thường là do thời tiết. Không được quá ẩm, không được quá khô và còn bao nhiêu thứ linh tinh khác. Sao ông biết đường tìm tôi?” Spence ca thán một tràng, tay vừa mở chốt cổng để Poirot bước vào.
“Ông từng gửi cho tôi một tấm thiệp Giáng sinh. Trên đó có ghi địa chỉ mới của ông.”
“À phải, đúng là tôi có ghi. Tính tôi cứ cổ hủ thế đấy. Tôi vẫn thích gửi thiệp Giáng sinh cho mấy người bạn vong niên.”
“Tôi rất trân trọng điều đó,” Poirot đáp.
“Giờ tôi đã thành ông già rồi,” Spence nói.
“Cả hai chúng ta đều già.”
“Tóc ông đâu có bạc nhiều,” Spence để ý.
“Tôi xử lý nó chỉ bằng một chai thuốc,” Hercule Poirot nói. “Ta đâu nhất thiết phải xuất hiện trước bàn dân thiên hạ với mái tóc đã ngả màu, trừ khi chính ông muốn thế.”
“Tôi thì không nghĩ tóc đen nhánh hợp với mình.”
“Tôi đồng tình, trông ông phong độ nhất với mái tóc hoa râm này.”
“Còn tôi thì lại chưa bao giờ nghĩ mình là người phong độ cả.”
“Tôi luôn thấy ông rất phong độ là đằng khác. Tại sao ông lại chuyển đến sống ở Woodleigh Common?”
“Chuyện là, giờ tôi đến đây chung sức với bà chị. Chị ấy mất chồng, con cái đã lập gia đình và sống ở nước ngoài hết cả, một đứa ở Úc và đứa còn lại ở Nam Phi. Nên tôi chuyển tới đây. Lương hưu thời buổi này chẳng là bao, nhưng chị em tôi sống khá là thoải mái. Nào qua đây ngồi.”
Dứt lời Spence dẫn lối sang một hiên nhỏ lắp khung kính, có kê một chiếc bàn và vài cái ghế ngồi.
Nắng thu đổ màu vàng dìu dịu xuống miền quê yên ả.
“Ông uống gì nhé?” Spence hỏi. “Nhà tôi không có mấy món xa xỉ đâu. Không có sirô lý chua đen hay sirô hoa hồng hay mấy thức uống kỳ lạ mà ông vẫn dùng. Bia nhé? Hay tôi nói Elspeth pha cho ông tách trà? Hay tôi làm cho ông một ly bia chanh hay Coca-Cola, hay một tách ca cao nếu ông muốn. Bà chị Elspeth của tôi nghiện uống ca cao lắm.”
“Ông thật tử tế. Tôi thì chỉ cần một ly bia pha chanh là được rồi.”
“Bia gừng pha cùng bia thường phải không? Chính là nó, đúng không?”
“Tất nhiên rồi.”
Spence vào trong nhà và nhanh chóng trở ra cùng hai ly thủy tinh lớn. “Tôi uống với ông.”
Nói đoạn Spence kéo ghế tới sát cạnh bàn và ngồi xuống, đặt hai chiếc ly trước mặt mình và Poirot.
“Giờ ta uống mừng vì cái gì nhỉ?” Spence hỏi, nâng ly bia. “Chúng ta sẽ không thể nói ‘Nâng ly vì tội ác’ được. Tôi phát ngán tội phạm rồi, và nếu như ông đang nói đến vụ mà tôi nghĩ, mà tôi đoán hẳn là vụ đó thôi, vì tôi nhớ dạo này ở quanh đây đâu còn vụ án mạng nào khác. Tôi đặc biệt không thích những vụ giết người kiểu này chút nào.”
“Phải, tôi cũng đoán ông không thích.”
“Vậy đúng là chúng ta đang nói đến vụ đứa bé bị nhận đầu vào trong xô nước?”
“Phải,” Poirot đáp, “tôi đang nói đến vụ án đó đấy.”
“Ông đến tìm tôi làm gì?” Spence nói. “Tôi giờ chẳng còn dính dáng đến cảnh sát nữa. Bao năm qua là quá đủ rồi.”
“Một lần làm cảnh sát, mãi mãi là cảnh sát.” Hercule Poirot nói. “Câu đó nghĩa là đằng sau lối suy nghĩ của người bình thường, ông sẽ luôn còn giữ con mắt quan sát của một cảnh sát. Tôi biết, chính tôi cũng vậy, cũng bắt đầu từ lực lượng cảnh sát hồi ở Bỉ.”
“Phải, đúng vậy. Giờ ông nhắc tôi mới nhớ. Thì có lẽ đó chỉ là suy nghĩ thiên kiến của cá nhân tôi, nhưng cũng đã lâu rồi tôi chẳng còn giữ liên lạc với lực lượng nữa.”
“Nhưng chắc ông có nghe người ta đồn qua lại chứ,” Poirot nói. “Ông cũng có bạn bè tán gẫu mà. Chắc hẳn ông có nghe người ta suy đoán hoặc nghi ngờ, hoặc kể lại với ông những điều họ biết.”
Spence thở dài.
“Thời buổi bây giờ biết nhiều quá sẽ chỉ gặp nhiều rắc rối mà thôi. Một tội ác đã xảy ra, một tội ác với công thức quen thuộc, và ông biết đấy, như thế tức là cảnh sát gần như chắc chắn ai có khả năng gây ra tội ác đó rồi. Họ không nói với báo giới nhưng họ hẳn đã thẩm vấn, và họ biết. Nhưng liệu họ có thể đi xa hơn thế hay không thì, phải nói là chuyện gì cũng có cái khó của nó.”
“Ý ông đang nói đến các bà vợ và những cô bạn gái của nạn nhân và những chuyện phức tạp liên quan?”
“Phải, đúng một phần. Tóm lại, có thể ai đó đã gặp phải một kẻ không ra gì. Vài ba năm trôi qua. Poirot ạ, tôi phải nói là, nhìn chung bây giờ càng ngày càng nhiều cô lấy nhầm chồng hơn các bà thời tôi.”
Hercule Poirot ngẫm nghĩ, tay vân vê ria mép.
“Phải, tôi thấy chắc là vậy. Tôi có cảm giác các cô gái trẻ trước nay luôn thích qua lại với những tay không ra gì, như ông nói, nhưng hồi xưa thì họ còn được bảo vệ.”
“Đúng thế. Ngày xưa các cô gái trẻ luôn có người giám sát. Các bà mẹ sẽ canh chừng con gái mình. Các bà các cô các chị cũng để mắt. Rồi lũ em trai em gái luôn nghe ngóng chuyện của họ. Rồi cha họ cũng không ngại tống cổ những tên đểu cáng ra khỏi cửa. Tất nhiên đôi khi vẫn có vài cô bỏ nhà theo những gã không ra gì ấy. Nhưng giờ thì các cô thậm chí còn chẳng cần làm thế. Mẹ thì không quan tâm xem con cái họ đang giao du với những kẻ nào, cha thì không được biết con mình đang quen ai, các anh em có biết thì cũng nghĩ ‘tại em mình ngu ngốc’. Nếu cha mẹ không chấp thuận, thì đôi trẻ vẫn có thể tự ra tòa và tìm cách đăng ký kết hôn được như thường, và rồi khi gã trai mà ai cũng biết là đểu cáng ấy bắt đầu bộc lộ mình đúng là một tên đểu cáng với tất cả mọi người, bao gồm cả cô vợ, thì rắc rối mới thực sự bắt đầu! Nhưng yêu thì vẫn là yêu, cô gái không muốn tin rằng chàng Henry của mình lại có những thói quen kinh khủng, những suy nghĩ tội ác, và những điều đáng sợ khác. Cô gái ấy sẵn sàng nói dối bao che cho anh ta, sẵn sàng thề độc vì anh ta và mọi thứ. Phải, thật khó khăn. Khó khăn cho chúng ta ấy. Mà, cũng chẳng hay ho gì nếu cứ nói ngày xưa mọi thứ tốt đẹp hơn. Có lẽ là chúng ta tưởng thế thôi. Dù sao thì, Poirot, sao ông lại vướng vào vụ này? Đây đâu phải địa hạt của ông, phải không? Cứ tưởng ông sống ở London mà. Hồi mới gặp tôi ông sống ở đó.”
“Tôi vẫn sống ở London mà. Tôi tham gia vụ này vì lời thỉnh cầu của một người bạn, bà Oliver, ông có nhớ bà Oliver?”
Spence ngẩng đầu lên, nhắm mắt lại, vẻ ngẫm nghĩ.
“Bà Oliver à? Chẳng biết tôi có nhớ không nữa.”
“Bà ấy viết sách. Truyện trinh thám, ông đã gặp bà ấy rồi, nếu ông còn nhớ hồi ông thuyết phục tôi điều tra vụ ám sát bà McGinty, ông không quên bà McGinty đấy chứ?”
“Ôi trời, tất nhiên là không. Nhưng cũng đã lâu rồi. Vụ đó ông đã giáng cho tôi một cú điếng người, Poirot ạ, hết sức kinh ngạc. Tôi đã nhờ ông giúp và ông đã không làm tôi thất vọng.”
“Tôi rất vinh dự - và hãnh diện - khi ông đến tìm tôi nhờ cố vấn,” Poirot đáp.
“Cũng phải nói là trong vụ đó đôi lúc tôi tưởng chừng vô vọng. Người đàn ông chúng ta cần phải giúp đỡ - hình như là cứu mạng ông ấy thì phải, cũng lâu rồi tôi không nhớ rõ - lại là người cực kỳ khó giúp đỡ. Ông ta là ví dụ điển hình cho cách sống không biết điều gì có lợi cho bản thân.”
“Ông ta cưới cô gái trẻ đó phải không nhỉ? Cô nàng điệu đàng ấy. Không phải cô gái thông minh có mái tóc bạch kim. Không biết hai người đó sau khi cưới nhau ra sao rồi. Ông có nghe ngóng được gì không?”
“Không,” Poirot đáp. “Tôi đoán có lẽ mọi thứ suôn sẻ với họ.”
“Chẳng hiểu cô ta thấy gì ở một người như vậy.”
“Khó mà biết được,” Poirot đáp, “nhưng cặp đôi đó đúng là sự sắp đặt tài tình của tạo hóa, khi một người đàn ông dù có kém hấp dẫn ra sao vẫn có nét lôi cuốn trong mắt một phụ nữ nào đó. Ta chỉ có thể mong họ kết hôn và sống hạnh phúc về sau thôi.”
“Chẳng biết có sống hạnh phúc nổi không nếu như họ phải ở cùng bà mẹ.”
“Không, quả thực là không,” Poirot nói thêm. “Hoặc với ông bố dượng.”
“Ối chà, chúng ta lại ngồi đây nói chuyện cũ nữa rồi.” Spence nói. “Cái gì qua thì cũng qua cả rồi. Tôi cứ nghĩ gã đàn ông đó, giờ không nhớ tên gã, nên kinh doanh dịch vụ tang lễ. Mặt mũi và điệu bộ rất hợp với cái nghề đó. Có khi đúng là hắn làm nghề đó cũng nên. Còn cô gái cũng có chút tiền, phải không nhỉ? Đúng rồi, gã ấy mà làm dịch vụ tang lễ thì hợp lắm. Tôi có thể tưởng tượng hắn, mặc nguyên bộ đồ đen, nhận đặt dịch vụ tổ chức tang lễ. Biết đâu hắn còn say mê cả việc chọn gỗ cây du hay cây tếch hay đại loại mấy cây mà họ vẫn dùng để đóng quan tài. Dẫu sao nếu làm mấy nghề bán bảo hiểm hay bất động sản thì ông ta sẽ không bao giờ khá nổi. Mà thôi, đừng cà kê chuyện cũ nữa.” Bỗng nhiên Spence reo lên. “Bà Oliver. Ariadne Oliver. Táo. Có phải vì thế mà bà ấy bị vướng vào vụ này không? Cô bé tội nghiệp đó chết vì bị dìm đầu vào trong một xô nước đầy táo đúng không nhỉ, tại một bữa tiệc? Có phải vì thế nên bà Oliver mới chú ý đến vụ này không?”
“Tôi không nghĩ bà ấy quan tâm đến vụ án chỉ vì đám táo đó,” Poirot đáp, “mà là do bà ấy đã có mặt tại bữa tiệc.”
“Ý ông là bà ấy sống ở đây sao?”
“Không, bà Oliver không sống ở đây. Bà ấy ghé ở chơi nhà bạn, một phụ nữ tên Butler.”
“Butler sao? Có, tôi có biết bà ấy. Nhà ở phía dưới chân đồi kia, gần nhà thờ. Góa bụa. Ông chồng trước làm phi công. Có một cô con gái. Cũng khá xinh xắn. Nói năng cư xử lễ độ. Bà Butler trông cũng vẫn còn khá lôi cuốn, ông có thấy thế không?”
“Tôi vẫn chưa có dịp gặp được bà ấy, nhưng có lẽ đúng vậy, tôi đoán hẳn bà ấy phải rất đẹp.”
“Mà sao ông lại quan tâm đến vụ này, Poirot? Ông đâu có ở đây lúc nó xảy ra, đúng không?”
“Không. Bà Oliver đến tìm tôi ở London. Bà ấy bị hoảng loạn, hết sức hoảng loạn. Bà ấy muốn tôi làm gì đó.”
Một nụ cười thoáng hiện trên gương mặt của thanh tra Spence.
“Tôi hiểu rồi, vẫn kịch bản cũ. Hồi xưa tôi cũng tìm đến ông khi muốn nhờ ông giúp.”
“Và giờ tôi đang làm ngược lại,” Poirot đáp. “Lần này là tôi đến tìm ông.”
“Vì ông muốn nhờ tôi làm điều gì đó sao? Tôi xin nói trước, tôi chẳng giúp gì được đâu.”
“Ồ, có đấy. Ông có thể cho tôi biết về tất cả mọi người. Những người sinh sống ở đây. Những người đã đến tham gia tiệc hôm ấy. Rồi cha mẹ của những cô bé cậu bé tham dự tiệc. Trường học, thầy cô, luật sư, bác sĩ. Ai đó trong buổi tiệc đã dụ dỗ một đứa bé quỳ xuống, và có lẽ còn cười lớn nữa khi nói: ‘Ta sẽ chỉ cho con cách cắn táo dễ nhất. Ta có mánh chơi trò này’. Và thế là kẻ đó - dù là đàn ông hay phụ nữ - đã đặt một tay lên đầu cô bé và nhấn xuống xô nước. Chắc cũng không phải vật lộn ồn ào gì nhiều với kiểu đó.”
“Một tội ác đáng kinh tởm,” Spence thốt lên. “Tôi đã nghĩ thế khi nghe chuyện, ông muốn biết gì nào? Tôi mới ở đây một năm thôi. Bà chị tôi thì lâu hơn - cỡ chừng hai ba năm. Dân cư khu này cũng không nhiều lắm, mà cũng không định cư lâu dài. Người đến rồi đi cũng nhiều. Chẳng hạn người chồng tìm được công việc ở Medchester hay Great Canning, hoặc một chỗ nào đó quanh đây, thì con cái họ sẽ học ở vùng này. Sau đó có thể người chồng thay đổi công việc và thế là cả gia đình sẽ chuyển đi theo. Dân cư ở đây không cố định. Cũng có vài người đã sinh sống lâu năm, như bà cô Emlyn, cô giáo dạy ở trường, bác sĩ Ferguson nữa. Nhưng nhìn chung thì hàng xóm quanh đây thường hay thay đổi.”
“Tôi cũng đồng ý với ông,” Poirot lên tiếng, “đây là một tội ác đáng kinh tởm. Tôi đoán ông cũng biết vài người không được tốt đẹp lắm ở đây.”
“Phải rồi,” Spence trả lời. “Ai cũng nghĩ đến khả năng này đầu tiên, phải không? Và sau đó người ta sẽ đi tìm hiểu về một thiếu niên xấu tính nào đó, đại loại vậy. Ai lại muốn bóp cổ hay dìm đầu hoặc hạ sát một cô bé mới mười ba tuổi đầu cơ chứ? Hình như không có bằng chứng cho thấy dấu hiệu tấn công tình dục, thường là khả năng đầu tiên người ta xem xét. Thời buổi bây giờ những tội ác dạng ấy tràn lan khắp mọi làng xóm thị trấn. Lại nói, tôi thấy những chuyện như thế thời tôi còn trẻ đâu có nhiều. Chúng ta ngày xưa cũng có những kẻ đầu óc không bình thường vậy, hay là bất cứ từ gì người ta gọi, nhưng không nhiều như bây giờ. Theo tôi thấy, ngày càng nhiều tội phạm được thả ra ngoài xã hội, trong khi lẽ ra chúng nên bị giam lại một chỗ. Tất cả những nhà thương điên đều đã kín; quá tải, cho nên mấy tay bác sĩ sẽ nghĩ ‘Thôi thả cho hắn ta hoặc cô ta ra ngoài đời vậy. Trả về sống cùng với bà con họ hàng’, hay đại loại thế. Và rồi một ngày phần xấu xa trong con người ấy trỗi dậy, hoặc kẻ mắc bệnh đáng thương đó tái phát bệnh cũ, tùy theo cách ông nhìn nhận, và thế là thêm một cô gái trẻ nữa bị tìm thấy xác trong một mỏ đá sau khi ra ngoài đi dạo, hoặc ngốc nghếch leo lên xe đi nhờ. Trẻ con thì không về nhà sau giờ tan học vì chúng đã lên xe đi nhờ một người lạ, dù người lớn đã dặn dò không được làm vậy. Phải, những chuyện như thế ngày nay đầy rẫy.”
“Vụ án này có khớp với dạng tội ác ông mới kể không?”
“Thì, thường người ta hay nghĩ đến khả năng như vậy trước tiên,” Spence nói. “Ví dụ như có ai đó ở bữa tiệc bỗng nổi tà tâm chẳng hạn. Có thể kẻ đó trước đây từng làm chuyện ác như vậy, cũng có thể hắn chỉ bỗng dưng muốn làm vậy. Theo tôi phán đoán thì hẳn trong quá khứ đã từng có vụ tấn công một đứa trẻ ở đâu đó gần đây. Như tôi được biết thì đến giờ vẫn chưa có ai khớp với mô tả ấy cả. Ý tôi là theo hồ sơ chính thức thì không. Có hai người ở đúng độ tuổi đó trong bữa tiệc. Nicholas Ransom, một cậu khá điển trai, tầm mười bảy mười tám tuổi, đúng độ trẻ khỏe. Nghe đâu là chuyển đến từ Bờ Đông hay đại loại vậy. Tính tình có vẻ cũng được. Nhìn bình thường, nhưng ai mà biết? Rồi còn Desmond, từng được trả về với bệnh án tâm thần, nhưng cụ thể như thế nào tôi không rõ. Chắc chắn kẻ gây án là người trong bữa tiệc, dù tất nhiên người ngoài cũng có thể đã đột nhập vào. Nhà tổ chức tiệc thì chẳng mấy khi khóa cửa cả. Thường thì sẽ mở cửa phụ, hoặc cửa sổ. Biết đâu lại có kẻ đầu óc điên khùng nào đó bám theo đám trẻ để xem tiệc tùng thế nào, rồi lẻn vào. Nhưng cũng chưa biết chừng. Liệu một đứa trẻ đi dự tiệc sẽ chịu ra chơi trò cắn táo với một người cô bé không hề biết không? Dù sao thì, ông vẫn chưa giải thích tại sao ông lại tới đây, Poirot. Ông có nói là do bà Oliver. Bà ấy có ý tưởng quái lạ nào về vụ này không?”
“Cũng không quái lạ lắm đâu,” Poirot nói. “Đúng là nhà văn thì đầu óc hay có những ý tưởng điên rồ. Những ý tưởng có khả năng là sự thật, dù hơi xa vời. Nhưng điểm đáng chú ý là bà ấy đã nghe cô bé nói một điều.”
“Sao, cô bé Joyce ấy à?”
“Phải.”
Spence chồm hẳn người về phía Poirot, mắt chăm chú đầy tò mò.
“Tôi sẽ kể cho ông nghe,” Poirot nói.
Hạ nhỏ giọng, ông thuật lại ngắn gọn câu chuyện mà bà Oliver đã kể với mình.
“Tôi hiểu rồi,” Spence nói sau khi ông bạn thám tử dứt lời. Tay vân vê hàng ria mép, Spence tỏ vẻ nghĩ ngợi. “Cô bé nói vậy sao? Là nó đã từng chứng kiến một vụ giết người. Có nói là khi nào và như thế nào không?”
“Không,” Poirot đáp.
“Mà sao cô bé lại kể chuyện đó?”
“Khi ấy đang bàn luận về các vụ án trong truyện của bà Oliver thì phải. Ai đó nói với bà Oliver, một đứa trẻ thì phải, nếu tôi không nhầm, đại ý chê là truyện của bà ấy không đủ máu me và xác chết. Rồi Joyce mới lên tiếng và nói chính cô bé đã có lần tận mắt chứng kiến một vụ giết người.”
“Cô bé chỉ nói khoác? Theo lời ông kể thì tôi cảm thấy như thế.”
“Bà Oliver cũng nghĩ vậy. Phải, cô bé ba hoa về chuyện này.”
“Đó có thể không phải là sự thật.”
“Đúng vậy, khả năng chuyện ấy hoàn toàn không có thật.” Poirot đồng tình.
“Bọn trẻ con hay có trò nói quá lên khi muốn gây chú ý cho bản thân hoặc muốn làm màu với những đứa khác hoặc muốn gây ấn tượng. Nhưng ngược lại, đó cũng có thể là sự thật. Có phải ông nghĩ thế không?”
“Tôi không biết nữa.” Poirot đáp. “Một đứa trẻ ba hoa là mình từng chứng kiến một vụ giết người. Chỉ vài giờ sau, cô bé bị giết chết. Hẳn ông cũng thấy chúng ta có cơ sở để tin điều cô bé nói là thật, dù khả năng ấy xa vời - nhưng biết đâu có mối liên hệ nhân quả ở đây. Nếu đúng là vậy thì kẻ đó đã xuống tay mà không chờ đợi.”
“Chắc chắn rồi,” Spence đáp lại. “Có bao nhiêu người ở đó lúc cô bé kể chuyện vụ giết người, ông có nắm được chính xác không?”
“Bà Oliver chỉ áng chừng tầm mười bốn, mười lăm người, có thể hơn. Năm sáu đứa trẻ con, năm sáu người lớn đứng quanh đó chuẩn bị cho bữa tiệc. Nhưng về thông tin chính xác thì tôi phải nhờ ông rồi.”
“Chà, chuyện đó thì không khó gì,” Spence nói. “Tôi không dám nói là mình có thể xác nhận ngay cho ông, nhưng hỏi vòng vòng dân trong làng thì dễ ra lắm. Còn về buổi tiệc hôm ấy thì tôi cũng đã biết kha khá rồi. Nhìn chung đa phần là phụ nữ tham gia. Các ông bố thường không mấy khi xuất hiện ở các bữa tiệc cho trẻ con. Nhưng thỉnh thoảng họ cũng tham gia một lát, hoặc ghé qua để đón con về. Bác sĩ Ferguson ở đó, mục sư cũng có đó. Còn lại toàn các bà các mẹ, rồi thì nhân viên xã hội, hai giáo viên từ trường làng. Ồ, phải, để tôi làm cho ông một danh sách - với tầm khoảng mười bốn đứa trẻ. Nhỏ nhất không quá mười tuổi, cho đến các cô cậu thiếu niên.”
“Vậy tôi tin ông có danh sách những người đáng nghi trong đó?” Poirot hỏi.
“Chà, chuyện đó giờ không dễ thế đâu, nếu như suy đoán của ông là đúng.”
“Tức là ông không còn đi theo hướng truy lùng một kẻ biến thái nữa. Thay vào đó, ông đang tìm một kẻ từng ra tay giết người mà không ai biết, một kẻ tưởng rằng tội ác của mình sẽ không bao giờ bị phát hiện, và vì thế đã rất kinh ngạc khi nghe Joyce nói.”
“Giá mà tôi biết được đó là ai,” Spence nói. “Dù sao đi nữa, tôi không dám chắc ở quanh đây có người đủ khả năng là kẻ sát nhân. Và chắc chắn chẳng có vụ án mạng chấn động nào cả.”
“Có thể kẻ đó đã gây án ở vùng khác,” Poirot nói, “tôi nghĩ, có những người tưởng như vô hại rốt cuộc vẫn là sát nhân. Vì họ thường ít bị nghi ngờ. Chứng cứ chống lại họ có thể sẽ không nhiều, và do đó, tên sát nhân đội lốt người vô tội này đã rất sốc khi biết hóa ra có nhân chứng tận mắt nhìn thấy tội ác của hắn.”
“Tại sao Joyce không lên tiếng tố cáo lúc đó? Đây là điểm khiến tôi tò mò. Có phải cô bé bị mua chuộc để đổi lấy sự im lặng, ông có nghĩ thế không? Tất nhiên thế là quá liều lĩnh.”
“Không,” Poirot đáp. “Theo tôi nghe từ bà Oliver, thì cô bé đã không nhận ra những gì nó thấy thực sự là một vụ giết người.”
“Ôi, làm gì có chuyện đó,” Spence phản đối.
“Cũng không hẳn. Đó là một cô bé mới chỉ mười ba tuổi. Cô bé đang nhớ lại những gì mình chứng kiến trong quá khứ. Chúng ta không biết chính xác khi nào. Có thể là ba hay thậm chí bốn năm trước. Cô bé đã nhìn thấy chuyện gì đó nhưng không hiểu được bản chất thực sự của nó. Những chuyện như vậy đâu hiếm gặp, mon cher (1). Nhất là với tai nạn ô tô chẳng hạn. Một chiếc xe lao thẳng vào nạn nhân nào đó, khiến anh ta bị thương hoặc thậm chí tử vong. Một đứa trẻ có thể đã không nhận ra đó là hành động cố tình ngay lúc ấy. Nhưng vài năm sau có ai đó nói điều gì, hoặc cô bé ấy thấy hoặc nghe điều gì đó gợi nhắc chuyện cũ và có thể đã nghĩ: ‘Thì ra A hay B hay X đã cố tình làm vậy.’ Biết đâu đó là hành động giết người chứ không phải là một tai nạn. Ở đây có nhiều khả năng lắm. Cũng xin thừa nhận một số khả năng là do bà bạn của tôi, bà Oliver đưa ra. Bà ấy có thể dễ dàng nghĩ ra mười mấy đáp án một lúc cho mọi vấn đề, đa số đều không khả thi lắm nhưng tất cả đều có xác suất đúng. Chút thuốc bỏ vào tách trà được pha riêng cho ai đó chẳng hạn. Đại loại như vậy. Hay một cú đẩy nhẹ khi nạn nhân đang đứng chỗ cheo leo nguy hiểm. Nhưng vùng này lại không có vách núi nào cả nên đành loại, hơi đáng tiếc vì nó khá khả thi. Phải, tôi đã nghĩ đến rất nhiều khả năng. Có thể cô bé đã đọc được một câu chuyện giết người nào đó, và nó gợi nhắc về vụ việc trước kia. Bản thân Joyce có thể đã băn khoăn từ lâu, và khi đọc truyện, cô bé mới nhận ra: ‘À, hẳn là thế này và thế kia. Không biết có phải ông ấy hay bà ấy cố ý làm vậy không?’ Phải, ở đây chúng ta có rất nhiều khả năng.”
“Vậy nên ông đến tận đây để tìm hiểu?”
“Tôi nghĩ biết đâu sẽ giúp ích cho người dân nơi đây, ông không thấy thế sao?” Poirot hỏi.
“À, chúng ta lại sắp theo tinh thần vì nhân dân phải không, tôi với ông ấy?”
“Ông ít ra có thể cho tôi biết thông tin ở địa phương, ông biết mọi người ở đây mà.” Poirot nói.
“Tôi sẽ làm hết sức mình,” Spence nhận lời. “Và sẽ lôi cả bà chị Elspeth vào nữa. Gần như chẳng có gì về người làng này mà chị ấy không biết cả.”
Chú thích:
(1) mon cher = bạn thân mến