Chương 11
11
Hercule Poirot ngước nhìn mặt tiền Biệt thự Mỏ Đá. Một ngôi nhà bề thế, được xây cầu kỳ theo đúng lối kiến trúc giữa thời Victoria, ông tưởng tượng nội thất trong nhà sẽ như thế nào - một tủ buffet bằng gỗ gụ nặng trịch, một chiếc bàn hình chữ nhật đặt giữa phòng cũng bằng gỗ gụ nặng, một phòng chơi billiard, có thể là vậy, một phòng bếp rộng với phòng rửa bát liền kề, nền lát đá, và một bộ bếp than chắc chắn đã được thay chất đốt sang gas hoặc điện.
Poirot để ý thấy hầu hết các cửa sổ tầng trên vẫn đang đóng rèm im lìm. Trả lời tiếng chuông cửa của ngài thám tử là một phụ nữ gầy gò, tóc hoa râm. Bà thông báo với ông rằng đại tá Weston và vợ đang ở London đến tuần sau mới về.
Khi Poirot hỏi về khu Vườn Mỏ Đá, người phụ nữ nói nó được mở cho công chúng tham quan miễn phí. Lối vào cách con đường này chỉ năm phút đi bộ, và ông sẽ nhìn thấy tấm biển báo treo trên một cánh cổng sắt.
Ông dễ dàng tìm được lối dẫn đến khu vườn, bước qua cánh cổng và bắt đầu đi xuống con đường dốc chạy băng qua các tán cây cao và bụi thấp.
Chẳng mấy chốc Poirot đến một điểm nghỉ chân, đứng lại hồi lâu, đắm chìm trong suy nghĩ. Tâm trí ông không hoàn toàn chỉ có cảnh vật trước mắt hay xung quanh, mà thực sự ông đang bận suy nghĩ về vài câu nói mình đã nghe trong ngày, nhớ lại những câu chuyện được kể, mà theo ông chỉ nghĩ đến thôi cũng đã thấy kinh khủng. Một bản di chúc giả, một bản di chúc giả và một cô gái. Một cô gái biến mất, bản di chúc giả kia có lợi cho cô ấy. Một nghệ nhân trẻ đã đến đây vì công việc, dùng tài nghệ để xây tạo và biến mỏ đá bỏ hoang lởm chởm thành một khu vườn, đúng hơn là một khu vườn chìm. Nghĩ đến đây, Poirot ngẩng lên nhìn quanh một lần nữa, gật gù tỏ ý thán phục. Vườn Mỏ Đá là một cái tên xấu xí so với cảnh vật nơi đây. Nó gợi lên liên tưởng tiếng đập đá chát chúa, hình ảnh những chiếc xe đẩy lặc lè vận chuyển những tảng đá lớn để làm đường. Cái tên đó khiến người ta nghĩ tới nhu cầu sản xuất công nghiệp. Nhưng Vườn Chìm lại hoàn toàn khác. Cái tên này cũng gợi nhắc trong đầu Poirot những ký ức xa xôi ngày xưa. Vậy là bà Llewellyn-Smythe đã từng tham gia một chuyến tham quan đến các khu vườn ở Ireland của National Trust. Bản thân Poirot cũng đã có dịp đến Ireland năm, sáu năm về trước. Ông còn nhớ mình đến đó để điều tra vụ trộm món gia bảo bằng bạc. Vụ án đó có một số điểm hết sức thú vị, khơi dậy tính tò mò của ông, và sau khi ngài thám tử hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ phá án (như thường lệ) - dấu ngoặc này là tự Poirot thêm vào trong suy nghĩ của mình - ông đã dành vài ngày để du ngoạn và ngắm thắng cảnh ở đó.
Giờ ông lại không tài nào nhớ nổi một khu vườn cụ thể mà mình đã từng tham quan hồi đó. Hình như ở đâu không xa Cork là mấy, ông cố đánh thức trí nhớ. Killarney phải không nhỉ? Không, không phải Killarney. Đâu đó cách không xa Vịnh Bantry là bao. Poirot vẫn không quên khu vườn ấy bởi nó khá khác biệt so với những khu vườn của các lâu đài tại Pháp, vốn là biểu tượng vẻ đẹp của xứ Versailles - những thắng cảnh ông vẫn thầm ca ngợi là tuyệt tác của thời đại này. Ông còn nhớ mình bắt đầu đi cùng một nhóm nhỏ trên một con thuyền. Leo lên con thuyền ấy khá khó và quả thực Poirot đã phải nhờ đến hai người chèo thuyền lành nghề khỏe mạnh đỡ ông xuống. Họ đưa đoàn tham quan đến một hòn đảo nhỏ, bề ngoài không có gì nổi trội, Poirot bắt đầu hối tiếc vì đã tham gia chuyến đi. Bàn chân ông ngấm nước lạnh buốt, và gió còn thổi rít qua các khe nếp áo mưa ông mặc. Tuyệt tác nào, Poirot thầm nghĩ, công trình kiến trúc nào, thiết kế cân đối tuyệt mỹ nào có thể mọc nổi trên hòn đảo lởm chởm đá, cây cối thưa thớt như thế kia? Sai lầm, thật là quá sai lầm.
Thuyền cập vào một cầu tàu. Các thủy thủ lại khéo léo và thuần thục đỡ ông xuống như đã đỡ ông lên tàu. Những thành viên trong đoàn đã lên bờ, đi trước và không ngừng nói cười. Poirot sau khi dừng lại chỉnh trang bộ áo mưa trên người và cúi xuống thắt lại dây giày, lẳng lặng theo sau họ trên con đường tẻ nhạt với vài bụi cây mọc thưa thớt hai bên. Đây hẳn là công viên nhạt nhẽo nhất trần đời, ông nghĩ.
Và rồi, từ phía sau những bụi cây họ bước qua bỗng dưng hiện lên một bậc thềm, có các bậc thang dẫn xuống phía dưới. Từ bên trên nhìn xuống, Poirot kinh ngạc ngắm nhìn cảnh tượng diệu kỳ trước mắt. Giống như đấng tạo hóa thường được nhắc đến trong các bài thơ Ireland đã bước ra khỏi những hang tối trên đồi để đến đây, và không phải bằng chân tay và sức lao động cực nhọc, mà là bằng cách vẩy nhẹ cây đũa thần, họ tạo ra một khu vườn dưới chân. Ngắm nhìn từ trên cao, ta có thể chiêm ngưỡng toàn bộ vẻ đẹp của khu vườn, những bụi cây, những bông hoa, dòng nước nhân tạo chảy dưới đài phun nước, con đường uốn quanh co. Tất cả đều tuyệt mỹ, mê hoặc và hiện ra từ nơi không ngờ tới nhất. Poirot thắc mắc không biết cảnh tượng nguyên thủy của nơi đây như thế nào. Khó có thể là một mỏ đá vì khu vườn quá gọn gàng và cân xứng. Giữa hòn đảo là một hố sâu thẳm, nhưng bên trên nó, người ta vẫn có thể thấy biển ở vịnh và những rặng đồi trập trùng phía xa trên bờ, sương phủ các đỉnh đồi tạo nên một cảnh tượng mơ mộng huyền ảo. Poirot đoán đó có lẽ chính nó đã khơi dậy cảm hứng cho bà Llewelly-Smythe xây dựng một khu vườn tương tự cho bản thân, để được tận hưởng cảm giác thỏa mãn khi sắp đặt và biến một mỏ đá hoang tàn thành khung cảnh miền quê nước Anh tiêu biểu, mộc mạc và duyên dáng này.
Và rồi bà ấy đi tìm một người phù hợp, sẵn sàng làm việc cật lực như nô lệ, và trả lương thật hậu hĩ để hiện thực hóa mệnh lệnh của mình. Và bà ấy đã tìm được anh chàng thợ trẻ đủ năng lực tên là Michael Garfield và đưa anh ta về đây, trả cho anh ta một khoản chắc chắn không hề nhỏ, và đồng thời xây cho anh một căn nhà. Michael Garfield, Poirot nghĩ, đã không làm bà chủ của mình thất vọng.
Ông thám tử bước đến ngồi xuống băng ghế, chiếc ghế này được tính toán đặt ở vị trí thật phù hợp. Ông thử tưởng tượng cảnh vật trong khu vườn chìm này vào mùa xuân. Thân những cây sồi non và cây bulo loang lổ bạc. Những bụi gai và bụi hoa hồng trắng, xen lẫn những cây bách xù nho nhỏ. Nhưng giờ đang là mùa thu, và khu vườn cũng không thiếu những cây khoe sắc vào mùa thu. Những cây tán lá đỏ vàng, một vài cây kim lũ mai, một con đường uốn lượn dẫn lối vào giữa khung cảnh rực rỡ ấy. Trong vườn trồng những bụi kim tước đang trổ hoa, hoặc cũng có thể là cây đậu chổi Tây Ban Nha - Poirot vốn không phải là chuyên gia về tên các loài hoa và cây bụi - chỉ có hoa hồng và tulip là ông dám tự tin mình nhận diện được.
Nhưng mọi cây cối xuất hiện trong khu vườn theo một cách rất tự nhiên, giống như chúng tự mọc lên hơn là có bàn tay sắp xếp hay ép buộc chúng lớn lên ở đây vậy. Tuy nhiên, Poirot nghĩ, sự thật không phải vậy. Tất cả đều được sắp đặt, tất cả đều do bàn tay con người trồng nên, từ khóm cây nho nhỏ mọc lên ở góc này cho đến bụi cây cao lớn đang xòe rộng tán lá đỏ vàng đằng kia. Phải rồi. Tất cả mọi thứ xuất hiện ở đây đều có tính toán và sắp đặt. Và thêm nữa, tất cả cây cối đều có vẻ ngoan ngoãn phục tùng bàn tay ấy.
Poirot lại nghĩ, vậy chúng phục tùng ai. Bà Llewellyn-Smythe hay Michael Garfield? Giữa hai người có sự khác biệt, phải, rất khác biệt. Bà Llewellyn-Smythe là người am hiểu, ông tin chắc như vậy. Bà đã có kinh nghiệm làm vườn lâu năm, chắc chắn cũng là thành viên của Hiệp hội Làm vườn Hoàng gia Anh, bà còn từng đi các buổi triển lãm, tham khảo các catalogue mẫu vườn, và từng tận mục sở thị thăm thú các vườn cảnh. Bà Llewellyn-Smythe đã từng đi tham quan các nước, hẳn trong hành trình có ghé các vườn bách thảo. Bà chắc chắn biết mình muốn gì và cũng chắc chắn sẽ nói rõ những gì mình muốn. Như vậy đã đủ chưa? Poirot nghĩ có lẽ là chưa. Bà có thể còn đưa ra những ý tưởng của riêng mình cho người làm vườn và bắt họ phải thực thi chúng. Nhưng liệu bà có biết, đúng hơn là thực sự mường tượng được chính xác những yêu cầu của mình sẽ như thế nào khi được hiện thực hóa? Không chỉ ở ngay năm đầu tiên khi cây bắt đầu được trồng, thậm chí không chỉ đến năm thứ hai, mà là những hình dung về khu vườn của bà sau hai, ba năm, và thậm chí đến sáu bảy năm sau đó. Về phía Michael Garfield, Poirot nghĩ chắc anh ta biết bà chủ của mình muốn gì vì bà đã mô tả rõ ý nguyện của mình với anh, và anh ta cũng biết cách biến mỏ đá hoang sơ như sa mạc này đâm chồi nảy lộc thành một vườn cây tươi tốt. Khi phác thảo kế hoạch và bắt tay thực hiện nó, hẳn Michael Garfield cũng cảm thấy cực kỳ hào hứng như mọi nghệ nhân gặp được một khách hàng hầu bao rộng rãi. Trên mảnh đất này anh bắt đầu hình dung về một miền tiên cảnh ẩn mình giữa vùng đồi núi tẻ nhạt tầm thường, và trên mảnh đất này miền tiên cảnh ấy trở thành sự thật. Những cây bụi đắt đỏ kia hẳn đã phải cần đến các tấm séc trị giá khổng lồ, và vài giống cây quý hiếm ở đây có lẽ chỉ có thể tìm được dựa trên thịnh tình của một mối thân quen nào đó, và cả đây nữa, những tiểu tiết cây cỏ vụn vặt nhưng cần thiết cho khu vườn, tốn kém biết bao. Vào mùa xuân bên bờ suối ngay bên tay trái Poirot sẽ là những cây anh thảo nở hoa khoe sắc, ông đoán được nhờ những chiếc lá xanh nho nhỏ của chúng mọc chụm lại ven suối.
“Ở Anh,” Poirot lầm bầm, “người ta sẵn sàng dẫn khách thăm những luống hoa nhà họ, đưa đi ngắm từng bụi hồng, hay được dịp kể lể bất tận về vườn hoa diên vỹ họ trồng. Để chứng minh cho khách thấy họ trân trọng vẻ đẹp của nước Anh thế nào, họ sẽ chọn ngày đẹp trời để đưa ta đi, những ngày nắng đẹp khi sồi đang trổ lá, và bên dưới gốc sẽ là hoa chuông nở. Phải, khung cảnh ấy quả thực rất đẹp, nhưng ta nghĩ mình đã bị dẫn đi ngắm quá nhiều rồi. Giờ ta chỉ mong…” dòng suy tư của Poirot chợt đứt quãng khi ông nhớ về cảnh trí trong mơ của mình.
Đó là khi ông được lái xe chạy trên những con đường ở Devon. Con đường uốn lượn quanh co, hai bên cây mọc thành bụi cao ngang mắt người, và ngay bên lề đường là thảm cây anh thảo khoe sắc. Những bông hoa vàng nhạt, đẹp tinh khôi và e ấp, tỏa ra một mùi hương ngòn ngọt, dịu nhẹ và phảng phất trong không khí. Những nơi hoa anh thảo nở bạt ngàn sẽ sực lên thứ mùi hương đặc trưng ấy của mùa xuân mà không hoa nào bì kịp. Ở Devon cũng không có những bụi cây giống quý hiếm như ở đây. Xuân qua thu tới, ở đó chỉ có những khóm tiên khách lai mọc dại cho mùa xuân và hoa nghệ tây vào mùa thu. Một nơi tuyệt đẹp.
Poirot tò mò về những chủ nhân đang sinh sống trong Biệt thự Mỏ Đá bây giờ. Ông biết tên họ, một đại tá đã về hưu sống cùng vợ, nhưng lẽ ra Spence nên cho ông biết nhiều hơn thế. Poirot có cảm giác những người đang sinh sống ở đây không dành nhiều tình yêu cho khu vườn này như bà Llewellyn-Smythe quá cố. Nghĩ đến đó ông đứng dậy và tiếp tục dạo bước trên con đường nhỏ trong vườn. Con đường thoai thoải dễ đi, được san đổ cẩn thận, và theo Poirot là được thiết kế riêng biệt cho một người lớn tuổi có thể dạo khắp nơi theo ý thích mà không phải bước lên quá nhiều bậc thang dốc đứng. Và vừa đúng lúc người đi dạo cần dừng chân nghỉ ngơi, một chiếc ghế cũng xuất hiện ở bên đường, kê theo hướng cũng hết sức phù hợp. Băng ghế trông có vẻ han gỉ, nhưng rõ ràng vẫn chắc chắn hơn vẻ ngoài của nó. Thậm chí, Poirot nhận ra góc giữa lưng tựa và chân người ngồi trên ghế được nghiêng rất vừa vặn, tạo cảm giác hết sức dễ chịu. Ông thầm nghĩ, mình nhất định phải tìm gặp anh chàng Michael Garfield này mới được. Anh ta đã thiết kế một khu vườn tuyệt vời. Một thợ làm vườn biết rõ công việc của mình và một kiến trúc sư thiết kế tài năng. Anh ta còn phải có một đội nhân công lành nghề để hiện thực hóa những thiết kế ấy, và Poirot nghĩ, anh ta đã khéo sắp xếp lại ý tưởng của gia chủ tài tình đến nỗi bà ấy hẳn đã nghĩ tất cả kiến trúc trong khu vườn này là do chính bà nghĩ ra. Nhưng Poirot chắc chắn khu vườn này không phải là sáng tạo của riêng bà ấy, mà đa phần là của chàng trai trẻ. Phải, ông muốn gặp anh ta. Nếu anh chàng vẫn còn ở trong căn nhà nhỏ kia, không nhầm thì được xây riêng cho người làm vườn tài năng này ở. Poirot nghĩ mình có thể… ông thám tử chợt khựng lại.
Poirot nhìn chằm chằm về phía trước. Ngay dưới chân ông là khu vườn trũng thấp hẳn so với mặt đất, nhưng ông không để tâm. Ông nhìn xoáy qua bờ bên kia của khu vườn, nơi con đường dẫn lối vòng qua. Ánh mắt ông đổ dồn vào một bụi cây lá đỏ vàng mọc tua tủa ôm quanh một vật gì đó, mà Poirot không chắc chắn liệu nó có phải là một vật hay không, hay chỉ là do ánh sáng và bóng cây và lá.
Cái gì thế nhỉ? Poirot thầm hỏi. Hay do mình quá say sưa với cảnh vật mà nhìn lầm chăng? Cũng có thể lắm. Ở một nơi um tùm như thế này cũng rất dễ nhìn lầm. Kia là bóng người hay là… là gì được nhỉ? Suy nghĩ của Poirot chợt trở về những cuộc phiêu lưu nhiều năm trước, mà tự ông đã đặt tên là “Những chiến công của chàng Hercules”*. Đôi khi, ông có cảm giác nơi đây không phải là một khu vườn Anh Quốc. Cảm giác kỳ bí bao trùm bầu không khí. Ông cố gắng định nghĩa nó. Khu vườn này như có phép thuật, có bùa mê, tất nhiên là có cả vẻ đẹp, một vẻ đẹp e lệ, nhưng cũng đầy hoang dại. Nếu nơi đây được dùng làm sân khấu cho một vở kịch, hẳn nó sẽ là hoạt cảnh xuất hiện của những tiên nữ, những vị thần điền dã nửa người nửa dê, một khung cảnh mang vẻ đẹp đậm chất Hy Lạp, và mang cả trong đó nỗi sợ hãi. Đúng vậy, Poirot nghĩ, cảm giác sợ hãi lẩn quất quanh đây trong khu vườn chìm này. Chị của Spence đã kể gì nhỉ? Chuyện gì đó có liên quan đến một vụ giết người trong chính mỏ đá nguyên thủy từ nhiều năm trước. Máu đã thấm lên những hòn đá ở đây, nhưng sau đó, cái chết ấy đã chìm vào quên lãng, mọi dấu tích đều đã bị chôn lấp và xóa nhòa, và rồi Michael Garfield đến, từ đây thiết kế và xây tạo nên một khu vườn tuyệt mỹ, và một bà tuổi gần đất xa trời sẵn sàng bỏ tiền chi trả cho nó.
Poirot đã chơi chữ khi dùng tên Hercule của mình theo tên nhân vật anh hùng nổi tiếng trong thần thoại Hy Lạp “Labours of Hercules“, hay “Những chiến công của chàng Hercules“.
Đến lúc này thì Poirot đã nhận ra cái bóng mình nhìn thấy là một chàng trai trẻ đang đứng ở bờ bên kia phần vườn chìm. Vây quanh anh ta là những tán lá đỏ tua tủa, và bản thân chàng trai, lúc này Poirot mới nhìn rõ, cũng mang một vẻ đẹp khác thường. Ngày nay không mấy ai mô tả vẻ đẹp của các chàng trai trẻ là khác thường. Người ta có thể nói một anh chàng nào đó là hấp dẫn hay quyến rũ chết người, và những lời tán dương kiểu ấy thường cũng khá xác đáng. Anh ta có thể sở hữu gương mặt góc cạnh, mái tóc mượt bồng bềnh, hay mang những đường nét nổi bật hơn người khác. Nhưng thông thường không ai gọi một chàng trai là tuyệt mỹ. Nên khi đã phải dùng đến từ ấy, người ta hẳn đang tán tụng phẩm chất hay vẻ đẹp nào đó đã biến mất từ lâu, và kèm theo là chút nuối tiếc. Những cô nàng quyến rũ đã không còn hâm mộ chàng Orpheus và cây đàn luýt của chàng,* giờ đây họ chỉ phát cuồng những ca sĩ nhạc pop với chất giọng khàn khàn, sở hữu đôi mắt đa tình cùng mái tóc rối bù xù.
Orpheus là một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp, nổi tiếng với khả năng làm xiêu lòng vạn vật đất trời bằng tiếng sáo của mình.
Poirot đứng dậy và bước theo con đường vòng qua khoảng đất trũng. Khi ông vừa đặt chân đến bờ bên kia, chàng trai trẻ đã bước ra khỏi bụi cây để chào. Ấn tượng rõ ràng nhất về anh chàng này chính là sự trẻ trung, nhưng theo quan sát của Poirot, tuổi anh ta có lẽ không còn trẻ, áng chừng đã phải trên ba mươi, gần bốn mươi. Nụ cười trên gương mặt anh ta rất nhẹ, không phải nụ cười chào đón, mà giống như kiểu cười chiếu lệ, ghi nhận sự có mặt của Poirot. Một chàng trai cao ráo, mảnh dẻ, với những đường nét đẹp như tạc tượng. Đôi mắt sẫm, mái tóc đen xõa ôm lấy gương mặt anh. Trong khoảnh khắc, Poirot đã ngỡ mình và anh chàng này đang gặp nhau trong buổi tổng duyệt của một cuộc thi sắc đẹp nào đó. Nếu đúng là vậy, Poirot nhìn xuống đôi ủng cao su đi mưa dưới chân mình, thầm nghĩ, hỡi ôi, có lẽ ông nên đi gặp nhân viên phục trang để được chuẩn bị tốt hơn mới phải.
Ông mở lời, “Hình như tôi đã đi dạo hơi xa. Nếu tôi có thất lễ làm phiền anh, xin anh thứ lỗi. Tôi mới đến xứ này lần đầu nên còn lạ lẫm. Tôi vừa đến hôm qua thôi.”
“Tôi không nghĩ ai lại bảo thế này là thất lễ.” Chàng trai trả lời bằng một giọng nhỏ nhẹ, lịch sự nhưng hờ hững khó hiểu, như thể tâm trí của anh ta đang lang thang ở một nơi nào đó rất xa xôi. “Vườn không hẳn là mở cho công chúng, nhưng rất nhiều người thích đến đây đi dạo. Đại tá Weston và phu nhân không phiền đâu. Họ chỉ để tâm nếu có hư hại, mà chuyện đó hiếm khi xảy ra.”
“Không có hành động phá hoại nào,” Poirot nhận xét, ngoảnh đầu nhìn quanh một lượt. “Không một mảnh rác. Thậm chí còn không có cả thùng rác. Thật kỳ lạ, không phải sao? Nơi đây có chút vắng vẻ - lạ thật. Những chỗ đẹp như thế này đáng lẽ sẽ có nhiều cặp tình nhân lui tới mới phải.”
“Các cặp đôi thường không đến đây,” chàng trai trả lời. “Vì lý do nào đó, họ coi nơi này xui xẻo.”
“Xin phép được hỏi, anh có phải chính là người thiết kế khu vườn? Cũng có thể tôi đoán lầm.”
“Tôi tên là Michael Garfield,” anh đáp.
“Tôi cũng đã ngờ ngợ.” Poirot nói. Ông khoát tay xung quanh. “Anh làm nên cả công trình này sao?”
“Vâng,” Michael Garfield đáp.
“Đẹp quá,” Poirot ca tụng. “Tôi hơi lấy làm lạ khi một thắng cảnh đẹp thế này được dựng lên giữa một nơi, thành thật mà nói, có cảnh vật nhàm chán như ở đây. Tôi xin chúc mừng anh.” Ông thám tử nói tiếp, “Anh hẳn rất hài lòng với tác phẩm mình đã xây dựng được ở đây.”
“Con người có bao giờ thực sự hài lòng không? Tôi có chút thắc mắc.”
“Tôi không nhầm thì anh xây dựng khu vườn này cho bà Llewellyn-Smythe. Bà ấy hiện không còn nữa, như tôi được biết. Còn vị đại tá và bà Weston, giờ họ là chủ khu vườn này phải không?”
“Phải. Họ mua lại giá hời. Một ngôi nhà đồ sộ đến mức kềnh càng - quản căn nhà ấy không dễ đâu - đa số mọi người đều không thích nó lắm. Bà ấy di chúc để lại nó cho tôi.”
“Và anh đã bán nó.”
“Tôi bán căn nhà.”
“Và không bán khu Vườn Mỏ Đá?”
“Ồ, có chứ. Vườn Mỏ Đá đi cùng theo căn nhà, nói đúng ra, giống như một món tặng kèm.”
“Tại sao vậy?” Poirot hỏi. “Chuyện này khá là thú vị. Anh không phiền nếu tôi tò mò chứ?”
“Các câu hỏi của ông không giống những người khác,” Michael Garfield nhận xét.
“Tôi thường không tò mò nhiều về sự việc, mà hay hiếu kỳ về nguyên nhân hơn. Tại sao anh A lại làm thế này và sao anh B lại hành xử thế kia? Hay vì sao thái độ của cậu C lại khác của cậu A và B?”
“Ông nên nói chuyện với một nhà khoa học mới đúng,” Michael nói. “Đây là vấn đề do di truyền hoặc nhiễm sắc thể, như bây giờ chúng ta hay nói vậy. Do sắp xếp hay cấu trúc gì đó.”
“Khi nãy anh có nói là mình không hoàn toàn hài lòng với khu vườn này, vì chẳng ai trên đời thực sự thỏa mãn về điều gì cả. Thế còn bà chủ, khách hàng của anh, hay anh gọi là gì cũng được, thì sao - bà ấy hài lòng chứ? Với khu vườn tuyệt đẹp này?”
“Ở một chừng mực nào đó thì có,” Michael đáp. “Là tôi thấy thế. Bà ấy cũng không phải người khó tính.”
“Chuyện này có vẻ khó tin,” Hercule Poirot nói. “Bà ấy như tôi được biết cũng đã hơn sáu mươi tuổi rồi. Ít nhất là sáu mươi lăm. Những người già ở tuổi đó đâu có dễ tính?”
“Tôi đã thuyết phục bà tin là những gì tôi làm đều theo đúng như yêu cầu, ý tưởng và hình dung của bà ấy về khu vườn.”
“Có đúng là vậy không?”
“Ông hỏi thật đấy à?”
“Không,” Poirot đáp. “Thực tình mà nói là không.”
“Để đạt được thành công trong cuộc sống,” Michael Garfield tiếp lời, “người ta phải quyết tâm theo đuổi những gì mình mong muốn, vừa phải vẫy vùng cho thật thỏa những đam mê nghệ thuật bên trong, nhưng cũng phải biết cách làm ăn. Ông phải thuyết phục người khác mua những gì mình có trong tay. Nếu không thì cả đời này ông sẽ chỉ làm theo ý tưởng của người khác mà không thể làm theo đúng những gì mình muốn. Tôi làm mọi thứ chủ yếu theo ý của mình, sau đó thuyết phục, hay dùng ngôn từ đẹp đẽ hơn là quảng bá, để khách hàng thuê tôi sẵn sàng trả tiền cho nó và nghĩ rằng đó là từ những ý tưởng và kế hoạch của họ mà thành. Nghệ thuật thuyết phục ấy cũng không khó học lắm. Dễ như dụ một đứa trẻ mua trứng nâu thay vì trứng trắng vậy. Khách hàng phải tin rằng trứng nâu là những quả trứng tốt nhất, ngon nhất, là tinh túy của miền quê. Ví dụ như ta có thể nói đó là đến gà mái cũng ưu ái chúng hơn? Những quả trứng nâu, từ trang trại, từ miền quê thật. Chẳng ai có thể bán chúng nếu chỉ nói ‘Trứng nào mà chẳng là trứng, chỉ khác nhau ở chỗ quả nào tươi hơn thôi’.”
“Anh quả thật suy nghĩ không giống người bình thường,” Poirot nói, vẻ suy ngẫm. “Và có phần ngạo mạn.”
“Cũng có thể.”
“Anh đã xây dựng một công trình tuyệt đẹp. Anh đã rót khả năng sáng tạo và tài năng kiến trúc của mình vào một mỏ đá lởm chởm, từng bị bòn rút vô tội vạ cho mục đích công nghiệp, ngỡ như không thể tìm lại được vẻ đẹp đã mất. Anh đã dùng đến trí tưởng tượng, phác thảo trong đầu khung cảnh khu vườn khi hoàn thiện, và tìm cách gom đủ tiền để hiện thực hóa nó. Tôi xin chúc mừng anh và cũng xin bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình. Sự ngưỡng mộ của một ông già sắp hết thời.”
“Nhưng lúc này ông vẫn còn tiếp tục làm việc đấy thôi?”
“Vậy anh đã biết tôi là ai rồi?”
Poirot không giấu vẻ hài lòng. Ông vốn thích những người biết danh tiếng của mình, thời nay e là không còn nhiều người như vậy.
“Ông lần theo vết máu, những tội ác… chuyện đó ở đây mọi người đều biết cả. Vùng này nhỏ, ít người, tin tức lan nhanh. Một nhân vật tiếng tăm đã đưa ông đến đây.”
“À, ý anh là bà Oliver.”
“Ariadne Oliver. Tác giả ăn khách. Nhiều người rất muốn phỏng vấn, xin ý kiến bà ấy về mấy chủ đề như bạo lực học đường, chủ nghĩa xã hội, cách ăn vận của các cô gái, tự do tình dục, rồi rất nhiều thứ chẳng liên quan đến bà ấy nữa.”
“Phải, phải,” Poirot đáp, “thật tệ hại, theo tôi nghĩ. Theo tôi họ không thực sự học hỏi nhiều từ bà ấy. Họ chỉ biết bà Oliver thích táo. Mà sở thích này ai cũng rõ cả hai mươi năm qua là ít, nhưng bà ấy vẫn cười hài lòng khi nhắc lại. Nhưng giờ thì tôi e bà ấy không thích táo nữa rồi.”
“Có phải vì mấy trái táo mà ông đến đây không?”
“Mấy trái táo trong bữa tiệc Hallowéen,” Poirot đáp. “Anh có đến dự hôm đó không?”
“Không.”
“Vậy là anh may mắn đấy.”
“May mắn sao?” Michael Garfield nhắc lại, giọng thoáng chút ngạc nhiên.
“Làm khách trong một bữa tiệc có xảy ra giết người thì chắc chắn không phải là trải nghiệm dễ chịu rồi. Có lẽ anh chưa rơi vào hoàn cảnh ấy bao giờ, nhưng để tôi nói anh nghe, anh may mắn là bởi…” Poirot chuyển sang tiếng Pháp “…il y a des ennuis, vous comprenez?...nó sẽ kéo theo nhiều chuyện phiền phức, anh hiểu chứ? Anh sẽ bị lôi vào các cuộc thẩm vấn về thời gian, ngày tháng, ở đâu, và các câu hỏi riêng tư khác không nể nang ấy.” Rồi ông nói tiếp, “Anh biết cô bé ấy không?”
“Ồ, có chứ. Ở đây ai cũng biết nhà Reynolds. Dân trong vùng này tôi quen biết gần hết. Sống ở Woodleigh Common thì ai cũng biết nhau cả, ít hay nhiều thôi. Người thì thân thiết, người thì chỗ bạn bè, người thì đơn thuần là biết mặt nhau, đại loại thế.”
“Cô bé Joyce ấy là người như thế nào?”
“Cô bé - nói sao nhỉ? - không nổi bật lắm. Giọng nói khá là khó nghe. Kiểu chói tai. Đấy, tôi chỉ nhớ được có vậy. Tôi không quan tâm đến trẻ con lắm. Đa phần chúng làm tôi phát chán. Cô bé Joyce ấy cũng làm tôi phát chán. Cứ mỗi lần nó mở miệng là y như rằng chỉ ba hoa về bản thân thôi.”
“Cô bé không được thú vị lắm sao?”
Michael Garfield thoáng ngạc nhiên.
“Tôi không cho là vậy. Cô bé có nhất thiết phải là người thú vị không?”
“Theo quan điểm của tôi thì những người tính tình nhạt nhòa thường khó có thể bị sát hại. Thông thường người ta bị giết vì vụ lợi, vì sợ hãi, hoặc vì tình yêu. Mỗi kẻ giết người đều có động cơ riêng, nhưng luôn phải có một điểm khởi đầu nào đó…”
Đến đây Poirot chợt dừng lại và nhìn đồng hồ.
“Tôi phải đi rồi. Tôi có cuộc hẹn. Một lần nữa, xin có lời khen dành cho anh.”
Dứt lời ông thám tử bước xuôi theo con đường, trong đầu cẩn thận suy tính phương hướng, ông mừng thầm là mình đã không đi đôi giày da bóng lộn chật ních.
Michael Garfield không phải là người duy nhất Poirot định gặp ở khu vườn chìm ngày hôm ấy. Khi vừa bước xuống phần vườn chìm, ông thấy con đường tách làm ba nhánh trước mắt, dẫn đi ba hướng khác nhau. Và ngay lối vào nhánh đường chính giữa, trên một khúc cây đổ, một đứa trẻ đang ngồi đợi ông. Lập tức cô bé cất giọng rành rọt:
“Cháu không nhầm ông là ông Hercule Poirot, có phải không ạ?”
Giọng cô bé rất trong trẻo, âm điệu cao vút như tiếng chuông ngân. Cô bé trông như một sinh vật mỏng manh, có nét nào đó rất hợp với khung cảnh ở khu vườn chìm này. Giống như một thần rừng hay một yêu tinh tí hon.
“Đúng là tên của ta,” Poirot đáp.
“Cháu đến đây để gặp ông,” cô bé nói. “Ông sắp đến dùng trà ở nhà cháu có đúng không ạ?”
“Với bà Butler và bà Oliver sao? Đúng vậy đấy.”
“Vâng, đúng rồi. Đó là mẹ cháu và cô Ariadne.” Cô bé chuyển giọng trách móc. “Ông hơi trễ rồi đấy ạ.”
“Ta xin lỗi. Ta ghé qua nói chuyện với một người.”
“Vâng, cháu có nhìn thấy ông. Ông đã trò chuyện với Michael có phải không ạ?”
“Cháu biết anh ta?”
“Tất nhiên rồi ạ. Nhà cháu dọn đến đây cũng lâu rồi. Cháu biết mọi người trong vùng.”
Poirot hỏi cô bé bao nhiêu tuổi.
“Cháu mười một tuổi ạ. Năm sau cháu sẽ vào trường nội trú.”
“Cháu thấy buồn hay vui khi sắp vào trường?”
“Cháu cũng không biết chắc nữa, phải đến đó đã. Cháu cũng không thấy thích nơi này lắm, ít nhất là không nhiều như trước.” Rồi cô bé nói thêm: “Cháu nghĩ ông nên đi cùng cháu bây giờ, ta đi thôi ạ.”
“Tất nhiên rồi, tất nhiên rồi. Xin lỗi ta đến muộn.”
“Ồ, không sao đâu ạ.”
“Cháu tên là gì nhỉ?”
“Miranda ạ.”
“Ta thấy cái tên ấy hợp với cháu đấy.” Poirot nhận xét.
“Ông đã nghĩ đến Shakespeare đúng không ạ?”*
Miranda là nhân vật trong vở kịch Giông tố (The Tempest) của William Shakespeare sáng tác vào khoảng 1610-1611, là con gái của Prospero, công tước xứ Milan. Khi còn bé, nàng cùng cha đã bị người chú Antonio hãm hại và lưu đày ra một hòn đảo hoang. Prospero sau đó lên kế hoạch lấy lại quyền lực đã mất và tìm cách để Miranda lấy lòng Hoàng tử Ferdinand, con trai của vua Alonso, đưa nàng trở thành hoàng hậu sau này.
“Phải. Cháu có học vở kịch đó ở trường không?”
“Có ạ. Cô Emlyn có đọc vài vở kịch cho tụi cháu. Cháu cũng nhờ mẹ đọc cho cháu nghe thêm vài tác phẩm khác nữa. Cháu thích vở kịch ấy. Giai điệu rất tuyệt vời. Một thế giới mới lộng lẫy.* Kỳ thực chẳng có thứ gì như vậy, có đúng không ạ?”
“A brave new world, O brave new world”: Một câu thoại kinh điển của nhân vật Miranda trong vở kịch Giông tố.
“Cháu không tin sao?”
“Ông có tin không?”
“Luôn có một thế giới mới lộng lẫy tồn tại,” Poirot nói, “nhưng nó chỉ dành cho, cháu biết đấy, những người cực kỳ đặc biệt. Những ai may mắn. Những ai sẵn sàng xây dựng nên một thế giới như vậy trong chính bản thân mình.”
“À, cháu hiểu rồi,” Miranda đáp, vẻ hết sức nhẹ nhõm thanh thản, dù Poirot không rõ cô bé thực sự đã hiểu gì.
Cô bé quay lưng và bắt đầu dẫn đường cho Poirot.
“Chúng ta hãy đi lối này. Cũng không xa lắm đâu ạ. Ông có thể đi tắt qua hàng rào vườn nhà cháu.” Rồi cô bé chỉ tay về phía xa, quay mặt lại nói với Poirot: “Ở ngay giữa chỗ kia từng có một vòi phun nước.”
“Một vòi phun nước sao?”
“À, từ mấy năm trước rồi ạ. Cháu đoán nó giờ vẫn ở đó, lấp dưới mấy bụi cây và cành khô các thứ. Nó cũng bị vỡ rồi. Người ta dọn mấy mảnh vỡ đi nhưng không ai chịu xây lại nó cả.”
“Tiếc thật đấy.”
“Cháu cũng chẳng biết nữa. Ông thích vòi phun nước lắm ạ?”
“Ca dépend,” Poirot đáp.
“Cháu biết chút tiếng Pháp,” Miranda nói. “Câu đó có nghĩa là ‘còn tùy’, có phải không ạ?”
“Đúng rồi. Cháu có vẻ được dạy dỗ ở trường rất tốt.”
“Ai cũng nói cô Emlyn là một giáo viên xuất sắc. Cô ấy là hiệu trưởng của tụi cháu. Cô nghiêm khắc thấy sợ, và nhiều khi hơi cứng rắn, nhưng thỉnh thoảng cô kể chuyện cực kỳ hay cho bọn cháu nghe.”
“Thế thì cô ấy rõ ràng là một giáo viên giỏi rồi,” Hercule Poirot kết luận. “Cháu biết khu vườn này rõ nhỉ, hình như là thuộc hết mọi nẻo ở đây. Cháu có hay đến đây không?”
“Ồ, có chứ ạ, khu vườn này là một trong những chỗ dạo chơi ưa thích của cháu. Cháu mà đến đây thì chẳng ai biết được, ông biết đấy. Cháu trèo lên cây ngồi - trên các cành ấy, và quan sát. Cháu thích trò đó. Quan sát mọi thứ diễn ra.”
“Ví dụ như những gì?”
“Chủ yếu là lũ sóc và chim thôi ạ. Chim là loài hay gây gổ với nhau, đúng không ạ? Không giống như trong câu thơ ‘Chim trong tổ nhỏ đồng lòng’. Bọn chúng thật ra chẳng được như vậy, có đúng không ạ? Cháu còn ngắm lũ sóc nữa.”
“Vậy cháu có thấy người không?”
“Thỉnh thoảng. Nhưng chỗ này thường chẳng có mấy ai lui tới.”
“Ta không hiểu, tại sao vậy?”
“Cháu đoán là họ sợ.”
“Nhưng họ sợ gì mới được?”
“Vì ngày xưa chỗ này có người bị giết. Ý cháu là trước khi nó thành khu vườn ấy. Từ hồi nó là mỏ đá, toàn là đống sỏi đống cát, và người ta tìm thấy cô ấy ở đó. Trong chỗ đó. Ông có nghĩ câu tục ngữ ngày xưa là đúng không - về chuyện mà người ta sinh ra nếu không chết treo thì cũng chết chìm ấy ạ?”*
Một câu tục ngữ, hàm ý nếu may mắn tránh được họa này thì cũng sẽ phải gặp họa khác.
“Giờ chẳng ai bị treo cổ cả. Nước Anh không còn án treo cổ nữa rồi.”
“Nhưng một vài nước khác thì vẫn còn. Họ treo cổ người ta trên đường phố luôn ấy. Cháu đọc trên báo như vậy.”
“À, thế cháu nghĩ chuyện đó là tốt hay xấu?”
Cô bé Miranda trả lời, nhưng không hoàn toàn là cho câu hỏi ấy, và Poirot hiểu được vì sao.
“Joyce bị dìm chết đuối,” cô bé nói. “Mẹ không muốn nói cháu biết, nhưng thế thật hơi ngốc, cháu nghĩ vậy, ông thấy sao? Ý cháu là, cháu đã mười một tuổi rồi.”
“Cháu có chơi với Joyce không?”
“Có ạ. Nói đúng ra bạn ấy là một người bạn tốt. Đôi khi bạn ấy kể cháu nghe nhiều chuyện hay ho lắm. Về mấy con voi và Hoàng tử Ấn Độ ấy ạ. Bạn ấy từng đi chơi Ấn Độ một lần. Ước gì cháu cũng được đến đó. Cháu với Joyce kể mọi bí mật cho nhau nghe. Cháu chẳng có nhiều chuyện để kể như mẹ cháu. Mẹ có đi Hy Lạp, ông biết đấy. Mẹ cháu gặp cô Ariadne ở đó, nhưng mẹ đã không đưa cháu đi cùng.”
“Vậy ai nói cho cháu biết về Joyce?”
“Bà Perring, đầu bếp nhà cháu. Cháu nghe bà ấy nói chuyện với bà Minden khi bà Minden đến dọn dẹp nhà. Kẻ nào đó đã dìm đầu bạn ấy vào xô nước.”
“Cháu có đoán là ai không?”
“Cháu chịu thôi. Hai người đó hình như cũng không biết, nhưng dù sao bình thường họ cũng chẳng thông minh gì.”
“Thế cháu có đoán được không, Miranda?”
“Hôm ấy cháu không đến. Cháu bị viêm họng và sốt nhẹ nên mẹ không cho cháu đi dự tiệc. Nhưng cháu nghĩ có thể cháu biết. Thế nên cháu mới hỏi là ông có tin con người sinh ra sẽ bị chết đuối không. Chúng ta đi qua hàng rào đằng này. Ông cẩn thận quần áo đấy ạ.”
Poirot theo chân Miranda dẫn đường. Lối đi tắt từ Vườn Mỏ Đá qua hàng rào này hợp với vóc dáng bé nhỏ của cô nhóc dẫn đường tinh nghịch của ông hơn - cô bé lách qua êm ru. Tuy vậy, Miranda cũng tỏ ra lo lắng cho Poirot, quay lại dặn ông chú ý những bụi gai tua tủa đâm sát bên, và còn cẩn thận nâng những đầu nhọn hàng rào lên cho ông đi qua. Hai người chui vào một góc vườn, Poirot để ý thấy ngay gần nơi ông bước vào là một đống phân bón. Cả hai rẽ vào một góc có giàn dưa leo bỏ hoang, đi qua hai thùng rác dựng trong vườn. Sau đó một mảnh vườn được cắt tỉa gọn gàng và trồng toàn hoa hồng hiện ra, dẫn lối vào ngôi nhà gỗ nhỏ xinh. Vẫn dẫn đường, Miranda đưa Poirot vào nhà bằng lối cửa sổ cao kiểu Pháp, và giống như một nhà sưu tầm mới vận chuyển nguyên vẹn và lành lặn một mẫu bọ cánh cứng quý hiếm, cô bé dõng dạc tuyên bố:
“Con đã đưa ông ấy về đây an toàn rồi ạ.”
“Miranda, không phải là con đưa khách của chúng ta qua lối hàng rào đó chứ? Con phải đi đường cổng bên chứ.”
“Lối này tốt hơn mà,” Miranda đáp. “Nhanh hơn và gần hơn.”
“Và mệt hơn nữa.”
“Tôi quên mất,” bà Oliver cất tiếng. “Tôi đã giới thiệu ông với bà Butler bạn của tôi chưa nhỉ?”
“Tất nhiên là rồi. Khi ở bưu điện.”
Poirot nhắc đến cuộc giới thiệu nhanh gọn khi ba người đứng xếp hàng trước quầy bưu điện. Nhưng bây giờ Poirot mới có dịp quan sát người bạn của bà Oliver ở khoảng cách gần. Trước đó ông chỉ có ấn tượng về một phụ nữ có vóc dáng gầy với chiếc khăn choàng che mặt và khoác áo mưa. Judith Butler khoảng ba mươi lăm tuổi, và nếu cô con gái mang vẻ ngoài giống một nữ thần rừng thì bà Judith lại có nhiều nét đẹp của một nữ thần nước. Bà như nàng tiên cá canh giữ kho báu sông Rhine bước ra từ vở opera Chiếc nhẫn của người Nibelung vậy. Mái tóc vàng óng buông rủ xuống vai, xương gò má gầy của bà vẽ thành hai nét nhạt trên khuôn mặt thon dài tinh tế, nổi bật trên đó là đôi mắt to màu xanh ngọc biếc, và che dưới cặp lông mi dài cong vút.
“Tôi rất vui vì có dịp được cảm ơn ông như thế này, MonsieurMe-xừ Poirot,” bà Butler mở lời. “Ông thật tử tế, sẵn sàng xuống tận đây để giúp đỡ chúng tôi khi Ariadne nhờ cậy.”
“Một khi bà bạn Oliver đây đã nhờ tôi chuyện gì, thì tôi buộc phải làm cho bằng được,” Poirot đáp.
“Bậy nào,” bà Oliver nói.
“Bà Oliver tin chắc rằng ông sẽ tìm ra lời giải cho câu chuyện kinh khủng này. Miranda, con yêu, con vào bếp được không? Mẹ để bánh nướng trên khay lưới trên lò đấy.”
Miranda lập tức mất dạng. Trước khi ra khỏi phòng, cô bé trao cho mẹ mình một nụ cười đầy ẩn ý, như thể thay lời muốn nói rằng: “Mẹ cháu đang muốn tống khứ cháu ra chỗ khác một lúc.”
Mẹ Miranda nói: “Tôi cố gắng không để con bé biết về chuyện này, về những thứ kinh khủng đã xảy ra. Nhưng tôi đoán ngay từ đầu là không thể.”
“Quả thực là vậy,” Poirot nói. “Chuyện xấu thường dễ lan truyền nhanh, nhất là khi đó lại là một bi kịch kinh hoàng. Hơn nữa,” ông nói thêm, “chẳng ai có thể sống cả đời mà không biết chuyện gì diễn ra xung quanh mình. Và với trẻ con thì chúng lại càng nhạy cảm với thế giới xung quanh.”
“Tôi nhớ có câu thơ ‘Giữa chúng ta luôn có kẻ tọc mạch để ý mọi thứ’,” bà Oliver nói, “không biết của Bursn hay Sir Walter Scott nhưng ông ta nói phải lắm.”
“Joyce Reynolds rõ ràng đã nhìn thấy một sự việc nghiêm trọng nào đó cỡ như một vụ giết người,” bà Butler nói. “Thật khó mà tin được.”
“Bà tin là Joyce đã trông thấy sự việc ấy?”
“Ý tôi là tôi tin rằng cô bé đã nhìn thấy một chuyện khủng khiếp như vậy mà trước đó lại không hề hé răng kể về nó. Kiểu này có vẻ không giống Joyce cho lắm.”
“Điều đầu tiên tất cả mọi người ở đây đều muốn tôi biết,” Poirot nói, giọng nhẹ nhàng, “là cô bé Joyce Reynolds là một đứa trẻ chuyên nói dối.”
“Nhưng tôi nghĩ cũng có khả năng,” Judith Butler nói, “một đứa trẻ bịa ra chuyện gì đó, rồi hóa ra nó là sự thực?”
“Dĩ nhiên ngay từ khi bắt đầu, giả thuyết này đã là điểm mấu chốt quan trọng của chúng ta,” Poirot đáp. “Vì có một thực tế không thể chối cãi, đó là Joyce Reynolds đã bị giết hại.”
“Vậy là ông đã bắt đầu tìm hiểu. Có khi đến giờ ông biết hết rồi cũng nên,” bà Oliver nói.
“MadameMa-đam, xin đừng đòi hỏi ở tôi những điều bất khả thi. Bà lúc nào cũng thật vội vàng.”
“Sao lại không chứ?” bà Oliver đáp. “Bây giờ ai không nhanh chân nhanh tay sẽ chẳng làm được trò trống gì.”
Đúng lúc này Miranda quay trở lại với một đĩa xếp đầy bánh nướng.
“Con để xuống đây nhé?” Cô bé hỏi. “Con đoán mọi người cũng nói chuyện xong rồi, có đúng không ạ? Hay mẹ lại muốn con vào bếp lấy thêm gì đó?”
Giọng cô bé giễu cợt đầy ẩn ý. Bà Butler hạ chiếc ấm trà bạc kiểu Georgia xuống bệ lò sưởi, cầm cái ấm điện trước đó bà đã tắt đi ngay khi nó vừa sôi, đổ nước nóng vừa đầy bình và bắt đầu rót trà ra tách mời hai vị khách. Bằng phong thái hết sức tao nhã, Miranda gắp bánh nóng và sandwich dưa leo cho từng người.
“Tôi và Ariadne gặp nhau ở Hy Lạp,” bà Judith kể.
“Tôi ngã xuống biển,” bà Oliver tiếp lời, “khi chúng tôi đang lên tàu từ đảo trở về bờ. Biển động khá mạnh và các thủy thủ cứ luôn miệng hô ‘nhảy’ và, tất nhiên là họ luôn luôn hô khi thuyền đã trôi ra xa, để ngay lúc đó nó sẽ trôi trở lại gần bờ, nhưng tôi cứ lo là mình không nhảy được. Nếu là ông, ông cũng sẽ bắt đầu lập cập, lóng ngóng và hoảng hốt, và rồi ông nhảy khi thấy thuyền trôi lại gần, và tất nhiên, đúng lúc đó thì nó lại trôi ra xa.” Bà dừng lại lấy hơi. “Judith giúp kéo tôi lên và nhờ vậy mà chúng tôi bắt đầu thân nhau, có phải không nhỉ?”
“Phải, đúng là vậy,” bà Butler nói. “Với lại, tôi đã rất thích tên thánh của bà. Có vẻ rất hợp.”
“Vâng, tôi nghĩ nó có gốc Hy Lạp,” bà Oliver đáp. “Đó là tên tôi, bà biết đấy. Tôi không nghĩ ra cái tên đó cho mục đích văn chương hay gì cả. Nhưng tôi vẫn chưa gặp chuyện gì kiểu nhân vật Ariadne. Tôi chưa từng bị tình yêu đích thực của mình bỏ rơi trên một hòn đảo Hy Lạp nào hết.”*
Công chúa Ariadne, một nhân vật trong thần thoại Hy Lạp. Cô yêu Hoàng tử Theseus của Vương quốc Athen, nhưng sau đó bị Theseus bỏ lại trên một hòn đào hẻo lánh.
Poirot đưa tay vuốt vuốt ria mép, cố che nụ cười ông không thể kìm nổi khi tưởng tượng cảnh bà Oliver trong vai một tiên nữ Hy Lạp bị bỏ rơi.
“Chúng ta đâu có ai sống giống như tên đâu,” bà Butler nói.
“Đúng là không thật. Tôi không thể mường tượng nổi cô trong vai một người dám xuống tay cắt cổ người tình. Có phải như thế không nhỉ, ý tôi là giống như chuyện giữa Judith và Holofernes ấy?”*
Câu chuyện nàng Judith chặt đầu Holofemes là một tích trong Kinh Thánh. Nhân vật nữ anh hùng Judith thời cổ đại quyến rũ tướng Holofernes của quân địch rồi thừa lúc ông đang ngủ cắt cổ ông ta.
“Vì lòng yêu nước mà cô ấy phải làm thôi,” bà Butler trả lời, “nhờ hành động này, nếu tôi nhớ không nhầm, mà cô ấy được tán dương là anh hùng và tặng thưởng.”
“Tôi không rành tích Judith và Holofernes lắm. Đó là Kinh Ngụy tác, có phải không? Dẫu sao nghĩ lại, đúng là người ta hay đặt cho con mình những cái tên thật kỳ lạ, có phải không? Nhân vật nào đóng đinh vào đầu người khác ấy nhỉ? Jael hay Sisera gì đó. Tôi cũng chẳng nhớ đâu là tên người đàn ông, đâu là tên người phụ nữ nữa. Hình như là Jael. Tôi nhớ không nhầm, có lẽ chưa có đứa trẻ nào được đặt tên thánh là Jael.”
“Bà ấy dâng món bơ trước mặt ông ta trên một chiếc đĩa quý tộc,”* Miranda bất ngờ đọc lớn câu trích, rồi lại im bặt và ngoan ngoãn dọn khay trà.
Một tích trong “Cuốn sách của các thẩm phán“ của bộ Kinh Thánh Hebrew. Viên tướng Sisera trong lúc bỏ trốn do thua trận đã bị một người phụ nữ tên là Jael giết khi ông định trốn trong lều của bà. Trong tích có câu “Sisera xin nước, bà ấy cho sữa; bà dâng món bơ trước mặt ông ấy trên một chiếc đĩa quý tộc.“
“Đừng nhìn tôi,” Judith Butler nói với bạn, “tôi đâu có giới thiệu Kinh Ngụy tác cho con bé. Là chương trình học trên trường của con bé đấy.”
“Nội dung như vậy mà được dạy ở trường học hiện đại thì có hơi bất thường không nhỉ?” bà Oliver nói. “Họ thường dạy những tư tưởng luân thường đạo lý chứ, phải không?”
“Với cô Emlyn thì không đâu ạ,” Miranda góp vào. “Cô ấy hay nói nếu thời bây giờ tụi con đi nhà thờ sẽ chỉ được nghe giảng các phiên bản hiện đại của Kinh thánh thôi, và như vậy thì chẳng còn giá trị văn học gì nữa cả. Tụi con ít nhất nên biết đến bản văn diễn xuôi và cả bài thơ không vần của Bản dịch ủy quyền*. Con thích tích về Jael và Sisera lắm,” cô bé nói thêm, rồi tỏ vẻ suy nghĩ mông lung. “Tất nhiên làm chuyện khủng khiếp như vậy thì con không bao giờ nghĩ đến. Ý con là đóng đinh vào đầu người khác khi họ đang ngủ ấy.”
Phiên bản ủy quyền (Authorized Version) hay còn gọi là Kinh Thánh Vua James (King James Version) là bản dịch Anh ngữ của Kinh Thánh hoàn thành vào năm 1611, và với lời văn hoa mỹ, bản dịch được ca ngợi là một áng văn tuyệt tác trong kho tàng văn học Anh.
“Mẹ cũng mong là không,” mẹ cô bé nói.
“Vậy nếu là cháu thì cháu định đánh bại kẻ thù bằng cách nào, Miranda?” Poirot hỏi.
“Cháu sẽ chọn cách nhẹ nhàng hơn nhiều,” Miranda nói, vẻ suy tư. “Sẽ khó hơn, nhưng con thà làm vậy, vì con không thích phải để ai hay vật gì chịu đau đớn cả. Con sẽ dùng thuốc nào đó giúp người ta chết không đau đớn ấy. Họ sẽ đi ngủ và mơ một giấc mơ thật đẹp, họ chỉ không thức dậy mà thôi.” Cô bé dọn các tách trà, đĩa bánh mì và bơ. “Để con rửa cho, mẹ ạ, mẹ cứ đưa MonsieurMe-xừ Poirot ra ngắm vườn nhà mình một chút. Bây giờ vẫn còn hoa hồng Nữ hoàng Elizabeth nở ở vườn sau đấy ạ.”
Dứt lời, cô bé cẩn thận bưng khay trà ra khỏi phòng.
“Thật là một đứa trẻ đặc biệt đến kỳ lạ, Miranda ấy,” bà Oliver nhận xét.
“Bà có cô con gái rất xinh đẹp, MadameMa-đam,” Poirot nói thêm.
“Vâng, bây giờ thì nhìn nó xinh xắn vậy thôi. Ai biết đến khi lớn lên thì tụi nó trông như thế nào chứ. Có nhiều đứa trưởng thành lại bị béo phúng phính, trông như mấy con heo được vỗ béo ấy. Nhưng giờ, giờ thì trông con bé vẫn còn đáng yêu như bé tiên rừng vậy.”
“Cũng không ngạc nhiên khi cô bé thích vườn chìm cạnh nhà bà.”
“Đôi khi tôi lại mong con bé đừng có thích chơi ở khu vườn ấy đến thế. Nó cứ lang thang ở mấy nơi hẻo lánh như vậy làm tôi lo, kể cả khi những chỗ đó gần người hoặc khu dân cư. Ôi, bây giờ người ta lo sợ mọi thứ. Thế nên ông phải sớm tìm ra tại sao chuyện khủng khiếp kia lại xảy đến với Joyce, MonsieurMe-xừ Poirot ạ. Vì chừng nào còn chưa tìm ra được hung thủ tàn ác ấy, thì chúng tôi vẫn không thể an tâm được dù chỉ một phút - ý tôi là ai cũng nơm nớp lo cho con cái của mình. Giờ bà đưa MonsieurMe-xừ Poirot ra thăm vườn trước được không, Ariadne? Tôi sẽ theo ra ngay thôi.”
Đoạn bà chủ nhà dọn hai cái tách và chiếc đĩa còn lại trên bàn vào nhà bếp.
Poirot và bà Oliver ra khỏi căn nhà theo lối cửa sổ cao kiểu Pháp. Giống như bao khu vườn đang độ vào thu, vườn nhà bà Butler vẫn còn giữ lại vài khóm cúc vàng và cúc tây nở rực trên hàng rào, và vài bông hoa hồng Nữ hoàng Elizabeth vẫn còn vươn mình khoe sắc đẹp lộng lẫy. Bà Oliver bước nhanh đến một chiếc ghế đá kê trong vườn, ngồi xuống và ra hiệu Poirot đến ngồi bên cạnh mình.
“Ông nói ông thấy Miranda giống như nữ thần rừng,” bà nói. “Còn Judith thế nào?”
“Tôi thấy tên của Judith phải là Undine mới đúng,” Poirot đáp.
“Một nàng tiên nước, đúng rồi. Phải, trông bà ấy như vừa mới bước lên từ sông Rhine, từ biển cả hoặc một ao nước trong rừng vậy. Mái tóc bà ấy nhìn như vẫn còn ướt nước. Mà trông bà ấy lúc nào cũng rất gọn gàng và chỉn chu, có phải không?”
“Bà Judith còn là một phụ nữ kiều diễm,” Poirot nhận xét.
“Ông nghĩ sao về con người bà ấy?”
“Tôi chưa có thời gian để suy nghĩ nữa, chỉ mới thấy bà Judith rất xinh đẹp và lôi cuốn, và bà ấy đang có chuyện lo lắng trong lòng.”
“Thì, tất nhiên là vậy rồi, có phải không?”'
'' Thưa bà, tôi lại muốn được nghe ý kiến của bà, bà biết hoặc nghĩ gì về bà ấy.”
“Thì, tôi bắt đầu thân thiết với Judith từ lúc trên tàu. Ông biết đấy, ai cũng có vài người bạn thân. Chỉ một hai người thôi. Số còn lại thì, ý tôi là, dù cũng có quý mến nhau các thứ, nhưng không đến mức sẵn sàng cất công vất vả để gặp lại nhau. Chỉ với một hai người mình thực sự quý mến. Judith chính là một trong số ít những người tôi rất muốn gặp lại.”
“Bà không quen bà ấy trước lúc lên tàu?”
“Không.”
“Nhưng hẳn bà có biết bà ấy phần nào?”
“Thì, cũng chỉ những chuyện cơ bản. Bà ấy là góa phụ,” bà Oliver nói. “Chồng mất cũng lâu rồi - anh ta là phi công. Chết trong một tai nạn xe hơi. Một vụ tông xe hàng loạt, tôi không nhầm là vậy, trượt xuống con đường nào đó gần đây tên có chữ M vào một buổi tối, hay đại loại vậy. Cậu ấy mất khiến Judith suy sụp lắm, tôi có thể tưởng tượng được. Hẳn là đau đớn lắm, đến mức không muốn nhắc đến chồng mình.”
“Miranda là con một?”
“Phải. Judith làm thư ký bán thời gian trong vùng, nhưng cô ấy vẫn chưa có công việc cố định.”
“Cô ấy có biết những người sống ở Biệt thự Mỏ Đá không?”
“Ý ông là ông đại tá Colonel già và vợ?”
“Ý tôi là chủ cũ, bà Llewellyn-Smythe có phải không nhỉ?”
“Hình như đúng là vậy. Không nhầm thì tôi có nghe nhắc đến cái tên đó rồi. Nhưng bà ấy mất hai ba năm trước, thế nên tôi không nghe nhiều về bà ấy. Mà những người còn sống vẫn chưa đủ với ông sao?” bà Oliver hỏi, giọng pha chút bực bội.
“Tất nhiên là không,” Poirot đáp. “Tôi còn phải tìm hiểu thêm về những người đã chết và cả mất tích ở trong vùng nữa.”
“Ai mất tích?”
“Một cô ô-pe,” Poirot trả lời.
“Ôi thì, mấy cô giúp việc ngoại quốc ấy rất hay bỏ đi biệt tăm, phải không? Ý tôi là, họ tìm cách sang đây, được bao chi phí đi lại, rồi họ đến thẳng bệnh viện luôn vì đang có bầu hoặc để sinh con, rồi thì đặt tên August, hay Hans hay Boris gì gì đó. Hoặc họ sang đây để kết hôn, hay để bám theo một gã người tình nào đó. Tôi đã nghe bạn bè kể nhiều chuyện mà chắc ông không tin nổi! Mấy cô nàng ô-pe này, nếu ông may mắn thì sẽ gặp được người giúp việc tuyệt vời, như một món quà trời ban tặng cho những bà mẹ đang phải vật lộn với việc nhà vậy, và gia chủ sẽ không bao giờ muốn họ rời đi, còn không may thì sẽ gặp người ăn trộm đến cả bít tất của ông - hoặc họ bị giết…” Bà dứt lời, rồi chợt thốt lên, “ôi!”
“Hãy bình tĩnh lại, thưa bà” Poirot nói. “Đến giờ vẫn chưa có bằng chứng cho thấy đã có cô ô-pe nào bị giết hại cả - thậm chí còn hơi ngược lại.”
“Ý ông ngược lại là sao? Nghe chẳng có lý gì cả.”
“Có thể là có đấy. Cũng như…”
Poirot lôi cuốn sổ của mình ra và ghi chép lại vài dòng.
“Ông đang viết gì vậy?”
“Vài chuyện nho nhỏ trong quá khứ.”
“Ông có vẻ lúc nào cũng rất quan tâm đến quá khứ.”
“Quá khứ là cha của thực tại,” Poirot lên giọng triết lý. Rồi ông đưa cho bà Oliver cuốn sổ.
“Bà có muốn đọc những gì tôi viết không?”
“Tất nhiên là có rồi. Tôi dám cá toàn những thứ vô nghĩa với tôi. Những chuyện mà ông cho là quan trọng đến mức phải ghi chép lại thì tôi lại thường chẳng để tâm.”
Ông mở cuốn sổ nhỏ bìa đen.
“Chết: ví dụ bà Llewellyn-Smythe (giàu có). Janet White (giáo viên). Viên thư ký luật - bị đâm bằng dao, từng bị truy tố tội giả mạo. Bên dưới đó ghi: Cô gái opera mất tích.”
“Cô gái opera là sao?”
“Đó là từ mà bà bạn tôi, chị gái của Spence, dùng để chỉ cô ô-pe mà tôi với bà vẫn nói ấy.”
“Tại sao cô ta lại biến mất?”
“Vì có thể cô ta đang gặp rắc rối với pháp luật.”
Ngón tay của Poirot chỉ xuống dòng tiếp theo, chỉ có đúng chữ “giả mạo”, kèm theo hai dấu chấm hỏi đằng sau.
“Giả mạo?” bà Oliver thắc mắc. “Tại sao lại là giả mạo?”
“Đó chính là câu hỏi mà tôi đã hỏi. Tại sao lại là giả mạo?”
“Giả mạo cái gì mới được?”
“Giả mạo một bản di chúc, hay chính xác hơn là một bản di chúc bổ sung. Một bản bổ sung có lợi cho cô au pairô-pe ấy.”
“Dùng thủ đoạn uy hiếp?” bà O