Chương 20
Poirot rời khỏi nhà bà Butler theo lối đi tắt Miranda đã chỉ ông. Lỗ hổng hàng rào ông cảm thấy như hơi lớn hơn lần trước. Có lẽ ai đó có vóc dáng nhỉnh hơn Miranda cũng lách qua lối này. Poirot bước lên con đường trong mỏ đá, phóng tầm mắt chiêm ngưỡng vẻ đẹp cảnh quan nơi đây lần nữa. Một khu vườn tuyệt mỹ, nhưng cũng như lần trước, Poirot thấy nơi này thật u ám. Lẩn quất quanh đây là không khí âm u lạnh lẽo. Như thể dọc theo những con đường quanh co này từng diễn ra những cuộc đi săn lùng và hạ gục nạn nhân của các yêu tinh, hay các cuộc hiến tế theo lệnh của một nữ thần tàn nhẫn nào đó.
Poirot hiểu được tại sao khu vườn này vẫn không thể trở thành một nơi cắm trại. Chẳng ai dám bày trứng luộc, rau diếp và cam ra đây để ngồi và cười đùa vui chơi được. Nơi đây không hợp cho những hoạt động ấy. Ông chợt nghĩ, có lẽ nếu bà Llewellyn-Smythe không yêu cầu biến nơi đây thành tiên cảnh như thế này, thì đã tốt hơn biết bao. Mỏ đá đã có thể trở thành một khu vườn chìm giản dị xinh xắn mà không kèm theo bầu không khí này, nhưng bà ấy vốn là một phụ nữ tham vọng, tham vọng và vô cùng giàu có. Poirot lại nghĩ đến những bản di chúc kia, đến những dạng di chúc do những bà góa phụ giàu có viết, đến những lời nói dối người ta hay bịa ra về di chúc của những bà góa phụ giàu có, đến những nơi những bản di chúc của bà góa phụ giàu có thường được giấu, và ông cố gắng đặt mình theo lối suy nghĩ của một kẻ giả mạo giấy tờ. Thật không may là bản di chúc dùng để chứng thực đã bị làm giả. Ông Fullerton là một luật sư cẩn trọng và tài giỏi, ông ta đã chắc chắn như vậy. Thêm nữa, một luật sư như Fullerton sẽ không bao giờ tư vấn cho thân chủ đưa ra tòa, hoặc tiến hành các thủ tục pháp lý khi chưa nắm chắc bằng chứng hay lý lẽ thuyết phục trong tay.
Poirot rẽ ở khúc ngoặt trong vườn, trong khoảnh khắc ông bỗng thấy cơn đau choáng váng dưới chân lấn át cả những suy đoán trong đầu. Ông có nên rẽ sang đường tắt về nhà thanh tra Spence hay không? Lối tắt đường chim bay nhanh hơn, nhưng đường chính có lẽ êm ái cho chân ông hơn. Con đường tắt qua vườn này không có cỏ hay phủ rêu, nó vẫn còn giữ nền đá cứng của mỏ cũ. Bỗng ông khựng lại.
Trước mặt Poirot hiện ra hai dáng người. Ngồi trên một phiến đá nhô lên mặt đất là Michael Garfield. Đầu gối kê một tấm bảng, anh ta đang cặm cụi vẽ. Cách anh chàng làm vườn không xa, đứng bên dòng suối chảy róc rách là Miranda Butler. Hercule Poirot chợt quên mất đôi chân đau và thân mình ê ẩm, tâm trí mải mê ngắm nhìn một vẻ đẹp mẫu mực của con người. Michael Garfield quả thực là một anh chàng tuấn tú. Bản thân Poirot không biết mình quý mến hay khó chịu với Michael Garfield. Trước người đẹp khó ai có thể quyết định được cảm giác của mình. Ai cũng thích nhìn ngắm vẻ đẹp, nhưng theo lẽ tự nhiên cũng hay ghen tị với những người đẹp. Phụ nữ đẹp thì không bàn đến, nhưng Hercule Poirot lại không chắc mình có thích đàn ông đẹp hay không. Bản thân ông không thích mình là một chàng trai trẻ đẹp, mà ngày xưa ông cũng không có cơ hội được như vậy. Điểm duy nhất mà Hercule Poirot hài lòng về vẻ bề ngoài của mình là cặp ria mép đậm, và kiểu dáng khi chúng được tỉa tót và chăm sóc cẩn thận. Chúng thật tuyệt mỹ. Poirot chưa từng gặp ai có cặp ria đẹp dù chỉ bằng một nửa. Còn lại ông chưa bao giờ thấy mình là một người điển trai hay ưa nhìn. Và chắc chắn là chưa bao giờ khôi ngô tuấn tú.
Còn về Miranda? Poirot thầm nghĩ, cũng như lần trước, ông thấy cô bé có sức hút thật đặc biệt, ông tò mò không biết trong đầu cô bé suy nghĩ những gì. Có thể là về những điều mà sẽ chẳng ai biết được. Miranda không phải là người dễ chia sẻ suy nghĩ. Thậm chí nếu có được hỏi, chưa chắc cô bé chịu tiết lộ. Hẳn cô bé có một tư duy độc đáo, suy nghĩ sâu sắc. Nhưng ông cũng cảm thấy Miranda mong manh và dễ bị tổn thương. Rất mong manh. Có vài điều Poirot hiểu rõ ở cô bé, hay ông tin là mình hiểu. Đến giờ đó vẫn chỉ là những phỏng đoán, nhưng ông đã gần như chắc chắn đúng.
Michael Garfield ngẩng lên, cất tiếng:
“Ha! Senor Mostachio.*('Chúc ông một buổi chiều tốt lành, thưa ông.)
(Tiếng Tây Ban Nha): Ngài ria mép.
“Tôi có thể xem anh đang vẽ gì không? Hay vậy là quấy rầy anh? Tôi không muốn mình đường đột xen ngang.”
“Ông cứ xem,” Michael Garfield nói, “tôi thấy không ảnh hưởng gì cả.” Rồi anh ta nhẹ nhàng nói thêm: “Tôi rất thoải mái.”
Poirot bước ra đứng sau lưng anh. Ông gật gù. Một bức vẽ chì rất tinh tế, các đường nét mỏng manh như tan vào nhau. Anh chàng này biết vẽ đây, Poirot nghĩ. Không chỉ là một anh thợ thiết kế vườn. Ông khẽ thốt lên:
“Thật tinh tế!”
“Tôi cũng nghĩ vậy,” Michael Garfield đồng tình, không rõ ý chỉ bức tranh hay người ngồi làm mẫu.
“Tại sao vậy?” Poirot hỏi.
“Tại sao tôi lại vẽ ư? Ông nghĩ tôi có lý do sao?”
“Biết đâu đấy.”
“Ông nói không sai. Nếu rời khỏi đây, có vài điều tôi muốn ghi nhớ. Miranda là một trong số đó.”
“Anh dễ quên cô bé vậy sao?”
“Rất dễ. Tôi là vậy đấy. Nhưng nếu quên một chuyện gì đó hay một ai đó, không thể nhớ ra một gương mặt, một cái quay lưng, một cử chỉ, một cái cây, bông hoa, đường nét của cảnh vật, dù vẫn nhớ cảm giác nhìn ngắm nó như thế nào, nhưng lại không thể mường tượng lại tất cả trước mắt mình, điều đó đôi khi gây ra, gọi là gì nhỉ, nỗi đau đớn đến cùng cực. Ông biết đấy, ông cố gắng ghi nhớ lại, nhưng tất cả rồi cũng trôi vào lãng quên hết.”
“Không, Vườn Mỏ Đá này thì không, vẻ đẹp của nó không dễ bị trôi đi đâu.”
“Ông nghĩ là không sao? Nó sẽ sớm chìm vào quên lãng thôi, khi không còn ai sống ở đây nữa. Cây cối cỏ dại sẽ chiếm lại không gian này, ông biết đấy. Khu vườn cần có tình thương, bàn tay chăm sóc, và kỹ năng. Nếu một hội đồng nào đó phụ trách nơi này, như rất nhiều nơi khác hiện nay, thì họ sẽ chỉ làm nhiệm vụ gọi là giữ gìn thôi. Họ sẽ trồng thêm các cây bụi mới hợp thời nhất, bổ sung các lối đi, thêm cả ghế ngồi kê giữa các quãng đường nữa. Thùng rác sẽ được đặt rải rác. Ôi, họ sẽ cố gắng thật cẩn thận, thật tử tế bảo tồn khu vườn này. Nhưng chẳng ai có thể bảo tồn nó cả. Vẻ đẹp của nó là tự nhiên. Giữ gìn một nơi như thế này thật tự nhiên còn khó hơn là bảo tồn nó.”
''Thưa ông Poirot,” giọng Miranda xen vào.
Poirot tiến lên phía trước, lên tiếng trong tầm nghe của cô bé:
“Vậy là ta đã tìm được cháu ở đây. Cháu đến đây để làm mẫu vẽ chân dung à?”
Cô bé lắc đầu:
“Cháu không định đến làm mẫu. Tự nhiên quyết định vẽ thôi ạ.”
“Phải,” Michael Garfield đồng tình, “đúng vậy, tự nhiên vậy thôi. May mắn đôi khi xảy đến.”
“Vậy là ban đầu cháu đang đi dạo trong khu vườn yêu thích?”
“Đúng hơn là cháu đang tìm cái giếng,” Miranda đáp.
“Một cái giếng?”
“Ngày xưa từng có một cái giếng nước trong khu rừng này.”
“Trong một mỏ đá cũ như thế này ư? Ta không biết họ lại xây giếng trong mỏ đá đấy.”
“Quanh khu mỏ đá ngày xưa là rừng. Thì, luôn có cây cối mọc bao quanh. Michael biết chỗ cái giếng ấy nhưng không chịu chỉ cho cháu.”
“Vì như vậy mới có trò vui cho cháu,” Michael Garfield lên tiếng, “khi tự đi tìm nó. Nhất là khi cháu lại không biết chắc cái giếng có tồn tại hay không.”
“Bà Goodbody biết hết về nó.” Rồi cô bé nói thêm: “Bà ấy là một phù thủy.”
“Không sai,” Michael nói. “Bà ấy là phù thủy trong vùng, Thưa ông Poirot. Vùng nào cũng có một phù thủy án ngữ cả, gần như ở đâu cũng vậy. Không phải lúc nào họ cũng tự gọi mình là phù thủy, nhưng mọi người đều biết. Họ coi bói hoặc bỏ bùa cây hải đường nhà ông hoặc làm quăn đám hoa mẫu đơn của ông, hay làm cho con bò nhà nào đó tắc sữa, hay thậm chí có thể chế tình dược nữa.”
“Nó là một cái giếng ước,” Miranda nói. “Ngày xưa mọi người hay đến đó để ước. Họ phải đi giật lùi ba vòng quanh giếng, mà nó nằm ở sườn đồi dốc, nên rất khó đi ngược như vậy.” Cô bé nhìn thẳng vào Michael Garfield ngồi phía sau Poirot. “Rồi cháu sẽ tìm thấy cho mà xem, dù chú không chỉ cho cháu. Nó chỉ ở đâu đây thôi, nhưng miệng giếng bị bít lại rồi, bà Goodbody nói thế. Ôi! Từ bao nhiêu năm nay. Người ta làm thế vì họ nói nó nguy hiểm. Một đứa bé đã ngã xuống đó cách đây nhiều năm - tên là Kitty gì đó. Có thể đã có thêm người ngã xuống giếng.”
“Thì, cháu cứ nghĩ thế đi,” Michael Garfield nói. “Vùng nào cũng có câu chuyện đồn đại như vậy cả, nhưng đúng là có một cái giếng ước ở Little Belling đấy.”
“Tất nhiên rồi,” Miranda nói. “Cháu biết tất tần tật về cái giếng đó. Đó chỉ là cái giếng hết sức tầm thường. Ai cũng biết về nó cả, và nó cực kỳ ngớ ngẩn. Người ta ném đồng xu vào giếng, nhưng vì nó chẳng còn tí nước nào nên thậm chí chẳng vọng lại được cả tiếng nước bắn cái tõm.”
“Chà, ta rất tiếc.” Michael nói.
“Cháu sẽ kể cho chú nghe khi nào cháu tìm được cái giếng ước kia,” Miranda quả quyết.
“Cháu không nên tin vào mọi lời nói của một phù thủy. Ta chẳng tin có đứa trẻ nào từng rơi xuống đấy. Có thể là một con mèo rơi xuống và chết đuối dưới giếng.”
“Chuông vang đinh đoong, chú mèo rơi xuống giếng mất rồi!” Miranda tiếp lời, rồi cô bé đứng dậy. “Cháu phải đi thôi. Mẹ ở nhà chắc đang trông.”
Cô bé cẩn thận trèo xuống khỏi tảng đá, cười chào hai người và đi xuống con đường cứng và gồ ghề hơn ở bên kia dòng nước.
“Chuông vang đinh đoong,” Poirot lẩm bẩm, ngẫm nghĩ. “Người ta tin những gì người ta muốn tin, Michael Garfield ạ. Cô bé nói đúng hay không?”
Michael Garfield đăm chiêu nhìn ông một lúc, rồi mỉm cười.
“Cô bé nói đúng. Đúng là có một cái giếng thật, và đã bị bít lại. Tôi đoán có thể là do nó nguy hiểm. Nhưng tôi không nghĩ nó là giếng ước gì cả. Có lẽ do cách kể chuyện thêu dệt của bà Goodbody thôi. Ở đây có một cây điều ước, đúng hơn là từng có. Một cây sồi lớn mọc giữa sườn đồi, và tôi tin là người ta có đi giật lùi ba vòng quanh nó để ước thật.”
“Chuyện gì đã xảy ra với cái cây ấy? Người ta không đến ước nữa sao?
“Không. Tôi không nhầm thì hình như nó bị sét đánh sáu năm trước. Bị xẻ làm đôi. Bẵng một thời gian người ta cũng quên đi câu chuyện ly kỳ về cái cây.”
“Anh có kể cho Miranda nghe không?”
“Không. Tôi nghĩ mình nên để cho cô bé yên với hành trình tìm cái giếng ấy. Một cây sồi bị sét đánh tan tành đâu có gì ly kỳ với Miranda, phải không?”
“Tôi phải đi rồi,” Poirot nói.
“Về nhà ông bạn cảnh sát của ông sao?”
“Đúng vậy.”
“Trông ông có vẻ mệt mỏi.”
“Tôi rất mệt,” Hercule Poirot nói. “Cực kỳ mệt mỏi.”
“Ông sẽ thoải mái hơn nếu đi giày vải hoặc xăng-đan.”
“À, về chuyện đó, không.”
“Tôi hiểu rồi. Ông là người tham vọng trong ăn mặc.” Anh nhìn Poirot. “Tout ensemble (1)", bộ này nhìn rất đẹp và nhất là, không biết tôi đã nói chưa, bộ ria oai vệ của ông.”
“Tôi rất vui,” Poirot nói, “là anh có chú ý đến nó.”
“Phải nói là, ai mà không chú ý đến nó cơ chứ?”
Poirot nghiêng đầu sang một bên, rồi nói:
“Anh mới nói anh vẽ bức chân dung này bởi vì anh muốn ghi nhớ cô bé Miranda. Vậy là anh sắp rời đi, phải không?”
“Tôi đã cân nhắc chuyện này, đúng vậy.”
“Nhưng theo tôi thấy, anh đang bien placé [2] ở xứ này.”
“Ồ, phải, cực kỳ yên ổn. Tôi sống trong một ngôi nhà riêng, dù nhỏ nhưng do tự tay tôi thiết kế, và tôi có công việc, dù không được làm thỏa thích như trước đây. Cũng vì thế mà giờ tôi cứ thấy bồn chồn chân tay.”
“Tại sao anh không được làm thỏa thích như trước?”
“Vì người ta cứ muốn tôi làm những việc hết sức gớm ghiếc. Người thì muốn cải thiện vườn nhà họ, người mua được ít đất và đang xây nhà nên muốn có một khu vườn thiết kế riêng.”
“Anh không làm vườn cho bà Drake nữa sao?”
“Có, bà ấy muốn tôi làm. Tôi có đưa ra một số thiết kế đề xuất và bà ấy có vẻ đồng tình. Nhưng tôi không nghĩ…” Michael nói thêm, vẻ trầm ngâm, “là tôi có thể thực sự tin tưởng bà ấy.”
“Ý anh là bà Drake sẽ không để cho anh làm những điều anh muốn?”
“Ý tôi là bà ấy chắc chắn sẽ đòi làm theo những điều bà ấy muốn. Và dù bà Drake thích những ý tưởng tôi vạch ra, thì bà ta cũng sẽ bỗng dưng đòi hỏi thay đổi theo kiểu khác. Kiểu vườn tầm thường, thực dụng, tốn kém và màu mè chẳng hạn. Tôi tin là bà Drake sẽ đe nẹt tôi, khăng khăng ép tôi thực hiện ý tưởng của bà ấy. Rồi tôi sẽ không đồng ý, và chúng tôi thể nào cũng sẽ cãi vã. Vậy nên tóm lại, tốt hơn tôi nên rời khỏi đây trước khi phải to tiếng. Và sẽ không chỉ cãi vã với bà Drake, mà còn có thể với nhiều hàng xóm khác ở đây. Dù sao tôi cũng khá có tiếng trong nghề. Tôi không cần phải làm mãi một chỗ. Tôi có thể tìm được việc bất cứ nơi nào ở nước Anh, hay biết đâu sang cả cùng Normandy hoặc Brittany của Pháp.”
“Nơi nào đó mà anh có thể cải thiện hay giải cứu thiên nhiên? Nơi nào đó anh có thể thử nghiệm hoặc đưa vào những giống cây kỳ quặc mà chưa ai dám trồng trước đây, nơi nào mà nắng không quá rát và băng tuyết không quá khắc nghiệt? Một dải đất cằn để anh một lần nữa tận hưởng niềm vui được làm chàng Adam đến khai phá? Không phải anh lúc nào cũng luôn chân luôn tay hay sao?”
“Tôi chưa ở chỗ nào lâu cả.”
“Anh đã đi Hy Lạp bao giờ chưa?”
“Rồi. Tôi cũng muốn quay lại Hy Lạp lần nữa. Đúng vậy, có cái gì đấy rất đặc biệt ở đó. Một khu vườn trên triền đồi Hy Lạp. Trong đó có thể có vài cây bách, ngoài ra chẳng có gì nhiều. Thêm chút đá cằn nữa. Nhưng nếu ông muốn, thì nó còn có thể hơn thế phải không?”
“Một khu vườn cho các vị thần đi dạo…”
“Đúng rồi. Ông quả là người biết đọc suy nghĩ người khác, đúng không ngài Poirot?”
“Giá mà được như vậy. Có rất nhiều chuyện tôi muốn biết nhưng chẳng thể nào biết được.”
“Ông lại chuyển sang đề tài chán ngắt, có phải không?”
“Không may là vậy.”
“Đốt nhà, giết người và đột tử?”
“Đại loại là vậy. Tôi không nghĩ có chuyện đốt nhà. Nói tôi nghe, anh Garfield, anh đã ở đây lâu, anh có biết một chàng trai tên là Lesley Ferrier?”
“Có, tôi có nhớ anh ta. Anh ta từng làm cho một văn phòng luật sư tư vấn ở Medchester phải không? Fullerton, Harrison và Leadbetter. Nhân viên cấp dưới trong văn phòng, hay đại khái vậy. Một anh chàng bảnh bao.”
“Anh ta mất đột ngột, phải không?”
“Đúng vậy. Bị đâm chết một tối. Dính đến phụ nữ, tôi nghe nói vậy. Có vẻ mọi người đều tin rằng cảnh sát biết rõ ai là hung thủ, nhưng không tìm đủ bằng chứng để buộc tội. Anh ta có dây dưa đến một phụ nữ tên là Sandra, tự nhiên tôi không thể nhớ được họ tên đầy đủ của bà ta, Sandra gì đó. Chồng làm chủ quán rượu trong vùng. Bà ta và cậu Lesley trẻ tuổi ấy dan díu với nhau, thế rồi Lesley chuyển sang một cô gái khác. Hoặc ít nhất là người ta đồn thế.”
“Và Sandra không thích điều đó?”
“Không, tất nhiên là không rồi. Mà ông nên biết, cậu Lesley ấy sát gái lắm, phải qua lại đến hai ba cô ở quanh đây rồi.”
“Tất cả đều là các cô gái Anh?”
“Sao ông lại hỏi vậy? Không, tôi không nghĩ anh chàng ấy chỉ giới hạn trong các cô gái Anh đâu, miễn là có vốn tiếng Anh để cậu ta đủ hiểu, và ngược lại hiểu những gì cậu ta nói là được.”
“Vậy chắc trong vùng thỉnh thoảng có xuất hiện các cô gái ngoại quốc?”
“Tất nhiên rồi. Bây giờ thì ở đâu mà không có? Các cô au pairô-pe - giờ họ trở thành một phần trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta rồi. Người xấu, người đẹp, người trung thực, người giả dối, người thì đủ tháo vát để giúp những bà mẹ bận rộn, người thì hoàn toàn vô dụng, người lại không chịu khổ được mà bỏ đi.”
“Giống như cô Olga đó?”
“Như ông nói đấy, giống như cô Olga.”
“Lesley có quen biết hay gần gũi với Olga hay không?”
“À, hóa ra ông đang nghĩ theo hướng đó. Có, cậu ta có quan hệ với Olga. Tôi không nghĩ bà Llewellyn-Smythe biết chuyện đâu. Olga khá thận trọng về chuyện này, theo tôi. Cô ấy từng nói rất nghiêm túc rằng có một anh chàng cô ấy hy vọng có thể đưa về quê để kết hôn. Tôi không biết liệu có đúng vậy không, hay chỉ là lời nói dối. Như tôi nói đấy, Lesley là một anh chàng hấp dẫn. Tôi không rõ cậu ta thấy gì ở Olga, cô ta không được xinh đẹp lắm. Tuy nhiên…” Michael suy nghĩ vài giây, rồi tiếp. “…có cái gì đó rất mãnh liệt trong con người cô gái này. Một chàng trai người Anh trẻ tuổi có thể thấy như vậy là quyến rũ và hấp dẫn chẳng hạn. Dẫu sao thì, Lesley vẫn tiến tới. Các cô bạn gái khác của anh ta thì không hề vừa lòng chút nào.”
“Thú vị đấy,” Poirot nói. “Tôi nghĩ anh vừa nói cho tôi đúng thông tin tôi cần.”
Michael Garfield nhìn ông khó hiểu.
“Tại sao? Chuyện này là gì vậy? Cậu Lesley thì liên quan gì ở đây? Tại sao ông lại muốn xới lại quá khứ?”
“Thì, có những chuyện tôi muốn biết. Tôi muốn hiểu mọi thứ bắt đầu như thế nào. Nhưng tôi vẫn đang muốn tìm hiểu xa hơn nữa. Trước khi hai người đó, Olga Seminoff và Lesley Ferrier bí mật gặp gỡ mà bà Llewellyn-Smythe không biết kìa.”
“Về lúc ấy thì tôi không chắc lắm. Những gì tôi kể chỉ là… thì, chỉ là những chuyện tôi biết được. Tôi từng bắt gặp hai người họ khá thường xuyên, nhưng Olga chưa bao giờ tin tưởng tôi để kể. Còn về Lesley Ferrier, tôi gần như chẳng biết gì về cậu ta.”
“Tôi muốn ngược về quá khứ xa hơn thế nữa. Như tôi được biết, anh ta từng có quá khứ không được trong sạch.”
“Tôi cũng nghe vậy. Phải, thì, người dân ở đây họ kể lại như vậy. Ông Fullerton vẫn nhận cậu ta, hy vọng sẽ giúp cải tà quy chính. Ông ấy là một người tử tế.”
“Tội cậu ta mắc phải, tôi không nhầm, là làm giả giấy tờ?”
“Phải.”
“Đó là phạm tội lần đầu, và tôi có nghe còn có tình tiết giảm nhẹ. Cậu Lesley phải nuôi người mẹ bệnh tật hay người cha say xỉn gì đó. Dù sao, cậu ta đã chịu phạt cũng nhẹ nhàng.”
“Tôi chưa từng nghe những thông tin này. Hình như cậu ta lúc đầu đã suýt nữa trót lọt, nhưng các kế toán kiểm tra lại và phát hiện ra cậu ta gian lận. Tôi chỉ biết lờ mờ là vậy, vì chỉ nghe người khác đồn qua lại. Giả mạo giấy tờ. Phải, đó là tội danh khi kết án. Giả mạo.”
“Và khi bà Llewellyn-Smythe qua đời và di chúc của bà ấy chuẩn bị được chứng thực, thì người ta phát hiện ra di chúc ấy là giả.”
“Đúng vậy, tôi hiểu ý ông rồi. Ông đang ghép hai sự việc này thành có liên quan đến nhau.”
“Một anh chàng suýt chút nữa giả mạo giấy tờ thành công. Anh chàng kết thân với một cô gái, một người mà nếu như bản di chúc kia được chứng nhận là thật, và cô ta sẽ nhận được đa phần gia tài khổng lồ.”
“Đúng, đúng vậy, là thế đấy.”
“Và cô gái cùng chàng trai từng phạm tội làm giả giấy tờ này lại thân thiết. Cậu ta thậm chí còn bỏ người tình của mình để đi theo cô gái ngoại quốc ấy.”
“Ý của ông là bản di chúc ấy là do Lesley làm.”
“Có khả năng đó mà, đúng không?”
“Mọi người cho rằng Olga có thể đã bắt chước chữ viết của bà Llewellyn-Smythe khá giống, nhưng tôi luôn thấy điểm này rất đáng ngờ. Cô ta có viết thư tay thay cho bà Llewellyn-Smythe thật, nhưng tôi không thấy hai nét chữ giống nhau đến mức ấy. Chưa đủ để qua mắt. Nhưng nếu cô ta và Lesley kết hợp lại trong vụ này, thì chuyện lại khác. Tôi dám nói là anh chàng đã đóng góp kha khá công sức cho phi vụ này, và có lẽ đã tưởng chắc rằng nó sẽ trót lọt. Nhưng nếu thế thì lần đầu làm giả mạo anh ta hẳn đã tin chắc sẽ ăn, và kết quả là anh ta đã lầm, vậy tôi đoán Lesley lại sai lầm lần nữa. Tôi đoán đến khi sự việc trở nên nghiêm trọng, phía các luật sư bắt đầu gây khó khăn và cản trở, rồi các chuyên gia được mời vào thẩm định các thứ và bắt đầu đặt ra các câu hỏi, thì có lẽ Olga là người mất tinh thần và cãi vã với Lesley. Rồi sau đó cô ta bỏ đi, hy vọng anh chàng sẽ là người gánh trách nhiệm.” Michael Garfield bỗng lắc đầu thật mạnh. “Tại sao ông lại đến đây và nói với tôi mấy chuyện này, ở ngay trong khu vườn tuyệt vời của tôi?”
“Tôi muốn biết chuyện.”
“Tốt hơn hết là không biết. Tốt hơn hết là không bao giờ biết. Nên để yên mọi chuyện như vậy. Đừng khơi gợi, đào bới, hay gì điều tra gì nữa.”
“Anh luôn muốn có cái đẹp,” Hercule Poirot đáp. “Muốn có cái đẹp bằng mọi giá. Còn tôi, tôi muốn sự thật. Luôn luôn là sự thật.”
Michael Garfield cười phá lên. “Ông hãy về nhà với các ông bạn cảnh sát của ông đi, hãy để tôi được yên trong thiên đường nhỏ bé này của tôi. Hỡi quỷ Satan, hãy cứ bước lên đằng trước ta.”(3)
Chú thích:
(1) Tout ensemble = Tất cả hình thức
(2) Bien placé: một chỗ rất tốt
(3) Phỏng theo một câu nói kinh điển của Chúa Jesus trong Kinh Thánh: “Hỡi quỷ Satan, hãy lùi ra đằng sau ta.” (Get thee behind me, Satan).