Phụ lục E Những ghi chú về nhân chủng học của nhóm máu
Nhân chủng học là ngành khoa học nghiên cứu về sự phát triển của con người và những điểm khác biệt, cả về mặt văn hóa và sinh học. Với mục đích nghiên cứu của chúng tôi, ta có thể nhìn vào cách lĩnh vực này được chia thành hai loại: nhân chủng học văn hóa, nghiên cứu các biểu hiện của văn hóa như ngôn ngữ và các nghi lễ và nhân chủng học sinh học, nghiên cứu về quá trình tiến hóa sinh học của loài người chúng ta – gọi là Homo sapiens. Các nhà nhân chủng học sinh học đã cố gắng tìm về lịch sử phát triển loài người qua các phương pháp khoa học cứng nhắc, ví dụ như nghiên cứu nhóm máu. Một nhiệm vụ trọng tâm của nhân chủng học sinh học là ghi lại trình tự tiến hóa của loài người từ thời sơ khai bắt nguồn từ tổ tiên của loài người – linh trưởng. Việc sử dụng nhóm máu để nghiên cứu xã hội thời ban đầu còn gọi là cổ sinh học paleoserology, nghiên cứu về dòng máu thời cổ đại.
Nhân chủng học sinh học cũng quan tâm đến cách loài người thích nghi với áp lực của môi trường. Nhân chủng học truyền thống chủ yếu dựa vào việc đo đạc hình dạng hộp sọ, tầm vóc và các đặc điểm thể chất khác. Nhóm máu trở thành một công cụ hữu hiệu cho lĩnh vực phân tích này vào khoảng những năm 1950, khi trọng tâm chuyển về các đặc điểm di truyền như nhóm máu và các dấu hiệu di truyền khác. A. E. Mourant, một bác sĩ và nhà nhân chủng học, đã xuất bản hai tác phẩm quan trọng, Blood Groups and Diseases (Nhóm máu và bệnh tật) (1978) và Blood Relations: Blood Groups and Anthropology (Mối liên hệ nhóm máu: Nhóm máu và nhân chủng học) (1983), trong đó tổng hợp những tài liệu thu được về chủ đề này.
Ngoài Mourant, tôi cũng đã sử dụng nhiều nguồn tài liệu khác cho phụ lục này, bao gồm nguồn tham khảo về nhân chủng học trước đó như cuốn Genetics and The Races of Man (Di truyền học và cuộc đua của loài người) (1950) của William Boyd, và một loạt các nghiên cứu được xuất bản trong nhiều tạp chí pháp y từ năm 1920 đến 1945.
Nhờ có khai quật mộ cổ bằng nhóm máu, ta có thể lập bản đồ sự xuất hiện của các nhóm máu khác nhau trong thời kỳ cổ đại. Một lượng nhỏ các bằng chứng về nhóm máu có thể được phục hồi từ hài cốt và qua đó xác định từng loại nhóm máu. Bằng việc nghiên cứu nhóm máu, các nhà nhân chủng học có thêm thông tin về lịch sử địa phương, quá trình di cư, việc kết hôn trong cộng đồng và sự đa dạng hóa của từng quần thể.
Nhiều quốc gia và dân tộc có sự phân bố nhóm máu đặc biệt. Ở một số nền văn hóa biệt lập hơn, có thể thấy rõ ràng một nhóm máu chiếm đa số so với các nhóm máu còn lại. Ở một số xã hội khác, nhóm máu có thể được phân bố đồng đều hơn. Ví dụ, ở Hoa Kỳ, tỷ lệ nhóm máu O và nhóm máu A tương đồng nhau phản ánh số lượng người nhập cư.
Ở Hoa Kỳ cũng có tỷ lệ nhóm máu B cao hơn so với các nước Tây Âu, đây cũng có thể phản ánh làn sóng nhập tịch của nhiều nước phương Đông.
Nhằm mục đích phân tích, ta có thể chia loài người thành hai nhóm cơ bản – ngươi Ethiopia và người cổ Bắc Cực. Người cổ Bắc Cực có thể được chia thành người Mông Cổ và người da trắng, mặc dù hầu hết mọi người đều nằm đâu đó ở giữa hai nhóm này. Mỗi chủng tộc lại có những đặc điểm thể chất riêng do ảnh hưởng của môi trường và định cư ở những vùng địa lý riêng biệt. Người Ethiopia, có lẽ là chủng tộc lâu đời nhất, là những người châu Phi da ngăm đen, định cư ở miền Nam của Ả Rập và khu vực châu Phi cận sa mạc Sahara. Vùng cổ Bắc Cực bao gồm khu vực châu Phi phía bắc của Sahara; châu Âu; và phần lớn châu Á, bao gồm Ấn Độ, Đông Nam Á và miền nam Trung Quốc, ngoại trừ miền Nam Ả Rập.
Phỏng đoán sơ bộ nhất cho rằng điểm khởi đầu cuộc di cư của loài người từ châu Phi đến châu Á vào khoảng một triệu năm về trước. Ở châu Á, rất có khả năng người Homo sapiens hiện đại tách ra từ tổ tiên người Ethiopia và chia thành hai nhóm người da trắng và người Mông Cổ, tuy nhiên chúng ta không biết chắc nó xảy ra lúc nào và tại sao.
Mỗi chủng tộc cơ bản có một vùng đất riêng – quê hương nơi phần lớn họ định cư. Quê hương của người Ethiopia ở châu Phi; người da trắng chủ yếu ở châu Âu và bắc Á; và người Mông Cổ tập trung ở miền trung và nam Á. Có thể có nhiều điểm khác biệt về thể chất giữa người châu Phi và các chủng tộc khác, nhưng sự khác biệt về nhóm máu giữa người châu Á và người Mông Cổ rõ ràng hơn cả – một lý do chính đáng để cùng xét lại các định kiến về chủng tộc.
Mặc dù chúng ta đã tìm ra sự chiếm ưu thế về mặt số lượng và sự phát triển của nhóm máu O từ thời tiền sử, đây vẫn có thể là một phản ứng hóa học, phần nhiều là vì tính đơn giản của nó và do chế độ ăn protein động vật vẫn chiếm phần lớn chế độ ăn ngày nay trên thế giới.
Vào năm 1918, vợ chồng bác sĩ Hirszfelds đã có những nỗ lực đầu tiên trong việc sử dụng nhóm máu để mô tả các đặc điểm về chủng tộc và quốc tịch. Trong Thế chiến thứ nhất, cả hai người là bác sĩ trong quân đội Đồng minh tập trung ở khu vực Salonika, Hy Lạp. Làm việc trong một lực lượng đa quốc gia, Hirszfelds đã phân loại nhóm máu của những người tị nạn từ các sắc tộc khác nhau cũng như ghi lại chủng tộc và quốc tịch của họ. Mỗi nhóm có ít nhất 500 người.
Ví dụ, Hirszfelds đã tìm ra tỷ lệ nhóm máu B dao động thấp trong khoảng 7,2% ở người Anh đến khoảng 41,2% ở người Ấn Độ, và người Tây Âu nói chung có tỷ lệ nhóm máu B thấp hơn so với người Slav ở Balkan. Người Slav có tỷ lệ nhóm máu B thấp hơn so với người Nga, người Thổ Nhĩ Kỳ và người Do Thái, những người này lại có tỷ lệ nhóm máu B thấp hơn so với người Việt Nam và người Ấn Độ. Sự phân bố nhóm máu AB chủ yếu cũng theo mô hình tương tự, với tỷ lệ 3-5% ở người Tây Âu và tỷ lệ cao hơn – 8,5% ở người Ấn Độ.
Ở vùng Ấn Độ cận lục địa, nhóm AB chiếm khoảng 8,5% dân số – tỷ lệ cao đáng kể ở một nhóm máu thường chỉ chiếm 2-5% dân số toàn thế giới. Mức độ phổ biến của nhóm máu AB có lẽ là do vị trí địa lý của vùng cận lục địa Ấn Độ, là tuyến đường xâm nhập giữa vùng đất đã chinh phục được ở phía tây và quê hương của người Mông Cổ ở phía đông.
Nhóm máu O và nhóm máu A về cơ bản là đối ngược với nhóm máu B và nhóm máu AB. Tỷ lệ nhóm máu A vẫn khá nhất quán (40%) trong số người châu Âu, người Slav ở Balkan và người Ả Rập trong khi đó tỷ lệ này khá thấp ở Tây Phi, Việt Nam và Ấn Độ. Khoảng 46% dân số Vương quốc Anh được xét nghiệm có nhóm máu O, trong khi đó có 31,3% người Ấn Độ có nhóm máu O.
Các phân tích hiện đại (phần lớn là các hồ sơ ở ngân hàng nhóm máu), bao gồm các loại nhóm máu trên khoảng 20 triệu người trên khắp thế giới. Tuy nhiên, những con số lớn này không thể làm gì hơn ngoài việc xác nhận những quan sát ban đầu của Hirszfelds. Không có tạp chí khoa học nào phù hợp để công bố tài liệu nghiên cứu của họ ở thời điểm đó. Trong một thời gian, các nghiên cứu của Hirszfelds lạc lối trong một tạp chí nhân chủng học tối nghĩa; nghiên cứu thú vị và quan trọng của họ không được để ý tới trong hơn 30 năm.
Rõ ràng là có rất ít mối quan tâm đến việc sử dụng kiến thức về nhóm máu này như một công cụ thăm dò nhân chủng học và đi sâu hơn về lịch sử nhân loại. Các nghiên cứu gần đây của tiến sĩ Luigi Cavalli-Sforza ở Đại học Stanford đã nghiên cứu bước chuyển mình về mặt di truyền học của con người cổ đại, sử dụng các phương pháp tinh vi hơn dựa trên công nghệ ADN tiên tiến. Nhiều phát hiện của ông đã xác nhận những quan sát trước đó của Mourant, vợ chồng bác sĩ Hirszfelds, Snyder và Boyd liên quan đến sự phân bố của các nhóm máu trên toàn thế giới.