- 20 - 21 -
Mỗi lần tôi vớ chiếc điện thoại để gọi cho cố ấy, tôi đều áp ống nghe vào tai cho đến khi không còn tín hiệu chờ. Cô ấy đã nói là bị sốc văn hóa, và cần được ở một mình. Trong suốt ba ngày trời, tôi đợi cô ấy gọi điện. Sau đó, tôi gọi cho cô ấy. Không ai nghe máy.
Tôi tìm thấy một tấm thiệp cũ với dòng chữ “Bình phục nhanh nhé!”. Tôi viết địa chỉ cô ấy trên phong bì, dán một con tem, rồi xé vụn tất cả.
Nhiều lần tôi đã định vào thành phố và tạt qua thư viện. Nhưng tôi có cảm giác như thế thì thật quá đáng.
Thời tiết càng lúc càng tệ. Tôi mất hai ngày trời để đưa lũ cừu vào chuồng, với sự giúp đỡ của một cậu bé mười ba tuổi, con trai ông hàng xóm. Bọn cừu đã ở ngoài trời quá lâu, nên con nào con nấy lực lưỡng như các vận động viên thể dục dụng cụ đỉnh cao. Lũ cừu đực phóng qua hàng rào không hề chạm chân, còn đám cừu non thì chạy nhanh như hoẵng. Nếu tôi đưa chúng đến lò mổ, mỗi con sẽ chỉ mang lại cho tôi số tiền bằng với một bữa ăn thịnh soạn ở tiệm McDonald’s. Còn nếu tôi tự xẻ thịt chúng ở trang trại và cầu viện sự giúp đỡ của già Nilson, chúng tôi sẽ khó mà xử lý được chỗ cơ bắp kia. Tôi và thằng bé hàng xóm đã phải phi ngựa như điên dưới trời mưa tuyết, miệng không ngừng chửi rủa như hai thằng du côn, nhất là thằng bé. “Mẹ chúng mày!” Nó chửi bọn cừu như thế.
Tôi không hiểu vì sao mình còn giữ chúng lại. Mẹ tôi muốn có vài con để lấy lông đi học lớp đan len. Chỉ cần nghĩ tới món cừu nấu đậu và khoai tây của bà là tôi đã thèm nhỏ dãi. Thế mà tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc học cách nấu món đó.
Mà tôi cũng có bao giờ nghĩ là mẹ sẽ qua đời đâu.
Nhưng nếu tống khứ hết đàn cừu của mẹ, tôi sẽ đau lòng lắm. Một trong những điều tồi tệ nhất tôi từng phải làm là bước vào phòng mẹ sau khi bà qua đời. Vứt đi chỗ quần áo còn vương mùi của bà, mân mê chiếc kính lão, những hộp thuốc và mẫu đan của bà. Có ai chuẩn bị tinh thần cho tôi đâu kia chứ. Thế nên tôi quyết định làm theo cách đơn giản nhất. Tôi đã bỏ tất cả vào trong vài chiếc va li cũ và đem cất trên tầng áp mái. Phòng ngủ của mẹ, tôi vẫn để y như thế, chỉ lấy đi mỗi tấm ga trải giường. Trên bậu cửa sổ, bà trồng một dãy cây xanh với những bông hoa nhỏ màu lam tím. Tôi đoán chắc là chúng đã chết sạch cả rồi.
Mà cô ấy muốn ám chỉ gì khi nói đến cái cú sốc văn hóa ngớ ngẩn đó chứ?
Sáng nay, tôi vào thành phố để giải quyết vài việc. Nhiều lần tôi có cảm giác trông thấy cô ấy. Ở cửa hàng bán máy nông nghiệp, ở tiệm kim khí Berggren, ở đại lý bán sữa.
Bengt-Göran tạt qua thăm tôi hai tối liền, chắc là định xem mặt cô bồ người thành phố của tôi.
- Tớ không biết làm thế nào để cô ấy quay lại bây giờ. – Tôi nói.
Bengt-Göran chỉ há hốc miệng đầy ngưỡng mộ. Vậy ra cậu ta cứ tưởng tôi chỉ chơi phụ nữ một lần rồi bỏ.
Cậu ta không cần biết tôi nhớ cô ấy, cũng không quan tâm chuyện buổi tối tôi lôi cái điện thoại vào cắm trong phòng ngủ. 21
Đám thiên thần hoảng kinh hồn vía,
Rúc cả vào bên Chúa tôn nghiêm:
Chúa ơi, Chúa hãy xem kìa,
Salamite, Sulamit xây cầu ngàn sao!
trích bài thơ Dải Ngân hà của Zacharias Topelius[1]
Rốt cuộc Märta cũng từ Copenhagen trở về. Cô nàng đợi tôi sau giờ làm, trong tay là chiếc túi mua hàng đựng một món đồ lưu niệm: một quả chuông thủy tinh, bên trong có một cặp tình nhân trần truồng bằng nhựa và những bông tuyết giả. Chúng tôi về nhà tôi uống trà và nằm dài trên bộ xa lông.
Märta lảng tránh những câu hỏi của tôi về chuyện hai người họ đã làm gì tại Copenhagen.
- Giờ không phải là lúc để nói chuyện đó. Cậu thừa biết mà!
Thế là tôi làm một bản tường trình tỉ mỉ về tuần lễ vừa qua. Cố giấu giếm bất kỳ chuyện gì với Märta chỉ tổ phí thời gian, vì dù thế nào cô nàng cũng biết cách câu những chú cá mình muốn trong cái bể nội tâm đầy bão táp của tôi.
Tôi kể tất tần tật. Tấm bia đá tầm thường, cái mũ lưỡi trai, tranh thêu chữ thập, phân ruồi và giấy dán tường mốc meo. Märta bĩu môi:
- Tớ không hiểu nổi. Tớ thấy anh ta có tất cả mọi yếu tố để trở thành người bạn đời lý tưởng của cậu, thế mà cậu cứ kêu trời kêu đất chỉ vì vài tiểu tiết nội thất. Mấy tấm tranh thêu chữ thập trên tường thì đã làm sao? Với lại, có phải anh chàng là người thêu chúng đâu. Tớ nghĩ chẳng qua anh ta không muốn bỏ đi những kỷ niệm về bố mẹ. Cậu cứ tưởng nội thất trong bất cứ căn nhà nông thôn Thụy Điển nào cũng giống với tranh vẽ của Carl Larsson chắc?
Tôi im. Quả thực, nếu có bao giờ tôi nghĩ đến những căn nhà nông trại ở Thụy Điển, chắc thể nào tôi cũng hình dung ra thứ gì đó mang phong cách Carl Larsson. Nhà bếp to tướng với ngọn lửa reo vui trong lò, những chiếc nồi đồng trên bếp, các khoanh bánh mì treo trên một thanh sào bên dưới trần nhà. Bị chạm nọc, tôi cao giọng:
- Nhưng cậu cũng thừa biết giống tớ rằng đó không chỉ là những tiểu tiết! Đó là hai phong cách sống va chạm nhau! Tranh thêu chữ thập không bao giờ được bước qua cửa nhà tớ, và tớ nghĩ anh ấy cũng không đời nào chấp nhận tranh của Kathe Kollwitz ở nhà mình. Cậu phải công nhận đây không chỉ đơn thuần là vấn đề sở thích nữa!
- Thế thì, tại sao cậu lại treo cái áp phích có hình cặp đôi nam nữ trong vỏ sò lên tường nào? – Cô nàng hỏi móc.
- Tại vì anh ấy đã làm tớ rất sung sướng... – Tôi thì thầm.
Märta gục gặc đầu ra vẻ đã hiểu.
- Nhưng nói thật nhá, liệu cậu có hình dung nổi tớ ngồi trên một chiếc ghế đẩu ba chân, xô sữa kẹp giữa hai đùi không?
- Trời ạ, cậu có đến nhà anh ta để phỏng vấn xin việc đâu! – Märta gầm lên. – Anh chàng này đã cho cậu một đêm tuyệt vời nhất kể từ hàng chục năm qua, thậm chí có thể là từ khi cậu sinh ra nữa kìa. Anh ta lại còn làm cậu cười được, thế là đã hơn chán vạn lần ông chồng đam mê chim chóc cậu từng có. Thế thì mấy cục phân ruồi kia có đáng là gì hả? Cậu là đồ hèn! Phải biết chớp thời cơ trước khi quá muộn, không thì cậu đi mà vùi đầu vào cái chăn lông tinh tươm của cậu ấy!
- Thế tớ phải làm gì đây? Tớ còn chẳng biết anh ấy nghĩ gì nữa. Anh ấy bặt vô âm tín rồi.
Märta vung vẩy quả chuông có cặp đôi trong bão tuyết.
- Được rồi, bây giờ cậu cầm lấy cái này, đem theo một ít bia Tuborg, cậu biết rồi đấy, rồi mua một hộp thịt viên đông lạnh, và tối mai cậu đến đó để làm anh chàng bất ngờ. Anh ta đã đi bước đầu tiên rồi, bây giờ đến phiên cậu, nếu cậu không muốn mọi chuyện xôi hỏng bỏng không. Lấy xe của tớ mà đi!
Bỗng nhiên, câu chuyện của Salamite và Sulamit hiện lên trong đầu tôi. Đó là hai nhân vật chính trong bài thơ Dải Ngân hà của Zacharias Topelius mà hồi bé tôi rất yêu thích dù không hiểu hết. Tôi đã thuộc nằm lòng bài thơ này nhờ sự giúp đỡ của mẹ. Bà rất tự hào khi để tôi đứng trên bàn và đọc làu làu cả bài cho các cô bạn rảnh rỗi không biết làm gì của bà nghe.
Salamite và Sulamit là một cặp đôi sống ở hai ngôi sao xa cách và yêu nhau đến nỗi họ xây một chiếc cầu bằng các vì tinh tú bắc qua bầu trời. Tự dưng tôi hình dung ra Benny và tôi cùng bước về phía nhau: Benny cẩn thận dùng bay trét vữa để gắn các vì sao với nhau, còn tôi thì cố nhảy từ ngôi sao này sang ngôi sao khác, giống như người ta nhảy qua các tảng băng trôi nổi trên một mặt hồ.
Những lời tư vấn của Märta không phải lúc nào cũng đúng, nhưng thường thì chúng là cú huých để mọi việc tiến triển. Tối ngày hôm sau, tôi nhét vào chiếc giỏ mây vài lon bia Tuborg, gói thịt viên đông lạnh, món khoai tây trộn sẵn và một chiếc bánh dâu rừng mua ngoài tiệm. Quả chuông với cặp tình nhân trong bão tuyết của Märta được bọc trong một lớp giấy gói ánh vàng. Rồi tôi lấy xe hơi phóng thẳng đến nhà Benny.
Không có ai trả lời khi tôi gõ cửa. Tuy vậy, cửa không khóa và trong bếp có ánh sáng hắt ra, nên tôi bước vào nhà. Bóng đèn tuýp kêu ro ro trong khi một chiếc đài màu đen to tướng nằm án ngữ trên bàn đang ra rả phát kênh mua sắm. Tôi chuyển sang kênh dự báo thời tiết biển và bắt tay vào dọn dẹp. Chẳng mấy chốc, không gian phía sau những tấm rèm cửa luộm thuộm có gắn các túp bông bắt đầu dễ chịu hẳn. Tôi lấy chiếc đĩa có đóng đầy cặn cháo khô trên bàn và nhúng ngập vào nước trong bồn rửa bát cùng với một chiếc khác đã dập dền sẵn trong đó. Sau đó tôi lục trong chạn để tìm chén đĩa và dao nĩa. Tôi lôi từ trong tủ buýpphê ở phòng khách ra một tấm khăn trải bàn thêu tay, và bắt đầu làm nóng món thịt viên trên một chiếc chảo sắp hỏng. Khi tôi nghe thấy những bước chân nặng nề nơi cầu thang dẫn xuống hầm, tự dưng tôi có cảm giác “đã từng thấy”. Chuyện này đã từng xảy ra.
- Ôi trời đất ơi...
Anh khựng lại nơi ngưỡng cửa, trên người vẫn còn khoác bộ quần áo lao động. Rồi anh lao qua căn phòng làm rơm rác và bụi đất bay tung tóe, anh vòng tay ôm ghì lấy tôi.
- Ồ, cả thịt viên nữa cơ à? – Anh trêu tôi. – Em đã tự làm chúng đấy hả, cô nàng be bé xinh xinh của anh?
- Anh đừng có chắc mẩm là chuyện này sẽ trở thành thói quen đấy nhé! – Tôi khẽ nói, áp mũi vào chiếc áo khoác màu cam bốc mùi chuồng bò của anh.
Chú thích:
[1] Zacharias Topelius (1818 – 1898) là nhà thơ người Phần Lan, nổi tiếng với những thi phẩm lãng mạn viết bằng tiếng Thụy Điển.