← Quay lại trang sách

Chương 16

Đúng thế, Jonathan không giết được Katla. Karm giết, và Katla lại giết Karm. Ngay trước mắt chúng tôi. Chúng tôi nhìn thấy hẳn hoi. Không ai khác ngoài Jonathan và tôi được chứng kiến hai con quỉ dữ từ thời cổ xưa tiêu diệt lẫn nhau. Chúng tôi nhìn thấy chúng đánh nhau đến chết dưới Thác Karma.

Khi Katla thét lên một tiếng rồi biến mất, lúc đầu chúng tôi không tin được. Không thể tin được rằng nó đã thực sự hết đời. Nơi nó rơi xuống, chúng tôi chỉ thấy một vùng bọt ngầu lên. Chỉ có thế. Không thấy cả Katla.

Nhưng sau đó chúng tôi thấy con rắn biển. Nó trồi cái đầu màu xanh lá cây lên khỏi vùng bọt ngầu, còn đuôi nó đập nước; ôi, nó mới thật kinh khủng, một con rắn biển khổng lồ, chiều dài của nó đúng bằng chiều rộng của sông, như bác Elfrida đã kể.

Con rắn biển của Thác Karma mà bác được nghe kể trong các truyền thuyết khi bác còn nhỏ cũng huyền bí không khác gì Katla. Nó tồn tại ở đó, và là một con quỉ dữ y như chính Katla, đầu nó lắc lư quay tròn tứ phía, tìm kiếm... và nó thấy Katla rồi. Con rồng cái vừa từ dưới sâu ngoi lên, lọt ngay vào giữa luồng nước xoáy. Con rắn biển quăng mình tới, quấn chặt lấy con rồng. Con rồng phun lửa chết người vào con rắn, nhưng vì bị con rắn xiết chặt quá, ngọn lửa xổ từ ngực con rồng ra. Rồi con rồng đớp con rắn, con rắn đớp lại. Chúng cùng đớp, cùng cắn, cùng muốn diệt nhau. Tôi đoán chúng đã thèm thuồng được cắn xé nhau như thế này từ ngàn xưa rồi; bởi thế, chúng cắn xé nhau như hai con vật trong cơn thịnh nộ, lao thân mình khủng khiếp vào nhau giữa làn nước xoáy, Katla vừa cắn xé vừa gào thét, còn Karm cứ hùng hục cắn xé, máu rồng đen và máu rắn xanh loang khắp vùng nước trắng, biến thành một thứ màu nhờ nhờ, phát buồn nôn.

Trận cắn xé đó kéo dài bao lâu? Tôi cảm thấy như mình đã đứng trên con đường đó cả ngàn năm và không nhìn thấy gì khác ngoài hai con quỉ dữ thịnh nộ quần nhau trong trận chiến sống mái cuối cùng.

Đó là một trận chiến kéo dài và kinh hồn, nhưng cuối cùng cũng phải chấm dứt. Katla rú lên một tiếng, tiếng kêu hấp hối của nó, rồi im bặt. Karm khi đó cũng đã mất đầu, nhưng thân của nó vẫn không nhả con rồng ra, nên chúng cùng chìm xuống, hai mình xoắn vào nhau chìm hẳn. Và thế là không còn Katla, cũng không còn Karm; chúng biến mất như thể chúng chưa từng tồn tại. Nước lại sùi bọt trắng, dòng nước hùng mạnh của Thác Karma lại tẩy rửa sạch những vùng máu độc của bọn quỉ. Mọi thứ lại như trước đây, y như thời cổ xưa.

Chúng tôi đứng đó trên con đường, người vẫn bị ngợp, cho dù mọi sự đã kết thúc. Mất một lúc lâu, chúng tôi không nói được gì, nhưng cuối cùng Jonathan nói:

- Chúng mình phải rời khỏi đây! Rời ngay!

Tròi sắp sập tối bây giờ và anh không muốn bóng đêm trùm lên mình khi còn trong xứ Karmanyaka.

Grim và Fyalar đáng thương. Tôi không nhớ đã làm thế nào để vực chúng dậy hoặc đã làm thế nào để thoát được khỏi đấy. Chúng kiệt sức, khó có thể nhấc chân lên được nữa.

Nhưng chúng tôi cũng đã rời khỏi Karmanyaka và lần cuối cùng phi ngựa qua cầu. Rồi ngựa không thể bước thêm bước nào nữa. Khi chúng tôi vừa đến bên kia cầu, chúng quị xuống và nằm bẹp, dường như chúng nghĩ rằng: đấy, chúng tôi đã giúp hai anh em về đến Nangiyala, chúng tôi không thể làm gì hơn được nữa.

- Chúng mình phải đốt lửa trại tại nơi cũ của chúng mình thôi. - Jonathan nói, hàm ý mỏm đá chúng tôi đã trú trong đêm dông bão, khi lần đầu tiên tôi trông thấy Katla.

Tôi vẫn còn rùng mình khi nhớ lại chuyện đó, và tôi hẳn sẽ thích hơn nếu dựng trại ở chỗ khác. Nhưng không thể đi thêm tí nào nữa rồi.

Việc đầu tiên là phải cho ngựa uống nưởc, trước khi chúng tôi nghỉ ngơi qua đêm. Chúng tôi đem nước cho chúng, nhưng chúng không muốn uống. Chúng đã quá mệt. Tôi thấy lo lo.

- Jonathan ơi, chúng nó làm sao mà lạ thế này, - tôi hỏi. - Liệu ngủ một chút có làm cho chúng khá hơn không?

- Có chứ, cái gì được ngủ một chút cũng đều khá hơn, - Jonathan trả lời.

Tôi vỗ về Fyalar, lúc đó đang nằm, mắt nhắm nghiền. - tôi nói. - Tội nghiệp Fyalar, hôm nay vất vả quá. Nhưng ngày mai, mọi việc sẽ ổn cả, anh Jonathan bảo thế rồi.

Chúng tôi nhóm lửa tại đúng nơi chúng tôi đã nhóm đống lửa đầu tiên, và mỏm đá tránh bão rõ ràng là nơi tốt nhất để đốt lửa trại, chỉ có điều giá như mình có thể quên đi rằng xứ sở Karmanyaka đang ở ngay bên. Phía sau lưng chúng tôi là những vách núi cao, vẫn còn hơi ấm mặt trời, che cho chúng tôi khỏi gió. Trước mặt chúng tôi, khe vực chạy thẳng xuống Thác Karma, còn phía gần cầu nhất cũng là một bờ dốc đứng sải xuống một đồng cỏ xanh, từ đây trông ra như một đốm xanh nhỏ xíu ở xa, xa lắm phía dưới.

Chúng tôi ngồi bên ngọn lửa, ngắm nhìn hoàng hôn buông xuống trên những ngọn núi của Rặng Núi Ngàn Xưa và dòng sông của Những Dòng Sông Ngàn Xưa. Tôi mệt lắm và tưởng chừng mình không thể sống qua nổi một ngày dài và gian truân đến như vậy trong đời. Suốt từ bình minh tới hoàng hôn, chỉ toàn là máu, là sợ, là chết. Có những cuộc phiêu lưu không bao giờ nên có, Jonathan đã từng nói vậy, thế mà hôm nay, chúng tôi có thừa thãi loại phiêu lưu đó. Cái ngày chiến trận - tất nhiên là một ngàv dài và gian truân, nhưng bây giờ, cuối cùng, đã kết thúc.

Nhưng nỗi đau của chúng tôi thì chưa kết thúc. Tôi nghĩ tới ông Mathias. Tôi thương ông quá, và đang lúc ngồi bên đống lửa, tôi hỏi Jonathan:

- Anh có biết ông Mathias giờ này đang ở đâu không?

- Ông đang ở Nangilima, - Jonathan trả lời.

- Nangilima ư, em chưa bao giờ nghe thấy từ ấy, - tôi thắc mắc.

- Có đấy, em đã nghe thấy rồi, - Jonathan nói. - Em có nhớ buổi sáng hôm đó, khi anh rời Thung lũng Hoa Anh đào và em đang sợ hãi không? Em có nhớ khi đó anh nói gì không? Nếu anh không trở về, chúng mình sẽ gặp lại nhau ở Nangilima. Ông Mathias đang ở đó đấy.

Rồi anh kể về Nangilima cho tôi nghẹ. Đã lâu rồi, anh không kể chuyện cho tôi, vì làm gì có thời gian. Nhưng giờ đây, khi anh ngồi bên đống lửa kể chuyện về Nangilima, tôi cảm thấy như anh đang ngồi bên mép chiếc xô-pha giường của tôi ở nhà trong thị trấn.

- Ở Nangilima,...ở Nangilima ấy, - Jonathan nói bằng giọng mà anh vẫn dùng để kể chuyện cho tôi. - ở đó vẫn còn là thời của lửa trại và những truyền thuyết.

- Tội cho ông Mathias quá, thế tức là ở đó có những cuộc phiêu lưu lẽ ra không nên có, - tôi nhận xét.

Nhưng Jonathan nói rằng hiện nay ở Nangilima không phải là thời của những truyền thuyết tàn bạo, mà là những truyền thuyết vui vẻ và đầy những trò chơi, ở đó, mọi người được chơi đùa; tất nhiên, họ cũng phải làm việc nữa, và giúp đỡ nhau trong mọi việc, nhưng anh nói rằng họ chơi đùa nhiều lắm, lại còn hát hò, nhảy múa và kể chuyện nữa. Đôi khi, người ta dọa trẻ con bằng những truyền thuyết tàn ác ghê người về những con quỉ như Karm và Katla, và về những kẻ dã man như Tengil. Nhưng về sau, họ lại cười xoà.

- Thế nào, có sợ không? - Họ hỏi bọn trẻ. - Đó chỉ là những truyền thuyết thôi. Những chuvện ấy chưa bao giờ tồn tại trên đời. Ít nhất, chưa bao giờ tồn tại ở đây, trong thung lũng của chúng ta.

Ông Mathias đang sung sướng ở Nangilima, Jonathan kể như vậy. Ông có một trang trại cũ trong Thung lũng Táo, một trang trại đẹp nhất trong một thung lũng đáng yêu nhất và xanh tươi nhất trong số những thung lũng của Nangilima.

- Sắp đến mùa hái táo trong vườn táo của ông rồi đấy, - Jonathan nói. - Có khi mình phải tới đó giúp ông. Ông già quá rồi, không trèo nổi thang đâu.

- Ước gì mình đến được đó. - tôi nói, khi tôi nghĩ rằng sống ở Nangilima thật dễ chịu, và tôi mong muốn được gặp lại ông Mathias.

- Em nghĩ thế thật không? - Jonathan hỏi. - Chúng mình có thể sống cùng ông Mathias được đấy. Tại Trang trại Mathias ở Thung lũng Táo trên Nangilima.

- Anh kể cho em xem sống ở đó như thế nào đi, - tôi yêu cầu.

- Trên đó ấy à, tuyệt lắm. - Anh kể. - Chúng mình có thể cưỡi ngựa trong rừng, đốt lửa trại đâu đó - giá như em biết rừng xung quanh các thung lũng vùng Nangilima như thế nào! và mãi trong rừng sâu, có những hồ nước nhỏ, trong veo. Mỗi tối, mình có thể đốt một đống lửa trại bên một hồ nước, rồi ngày sau, đêm sau, lại đi nơi khác, và cuối cùng lại về nhà với ông Mathias.

- Và lại giúp ông hái táo nữa chứ, - tôi nói. - Nhưng cô Sofia và chú Orvar sẽ phải chăm nom Thung lũng Hoa Anh đào và Thung lũng Bông hồng Dại mà không có anh.

- Ơ, thì đã sao? - Jonathan đáp. - cô Sofia và chú Orvar không cần đến anh nữa đâu. Tự hai người ấy có thể làm tốt được mọi chuyện trong thung lũng của họ mà.

Nhưng đến đó, anh im bặt, không kể chuyện tiếp nữa. Cả hai chúng tôi đều cùng im, tôi mệt mỏi và không hề vui. Nghe chuyện về Nangilima, một xứ sở quá ư xa xôi, không làm người ta vui lên được.

Trời ngày càng tối dần, núi non càng chuyển sang màu đen hơn. Những con chim to tướng, màu đen, đang lượn quanh chỗ chúng tôi, cất lên những tiếng kêu ảm đạm làm cho không khí thật hoang dại. Thác Karma vẫn đang gầm gào từ xa, và tôi đã quá mệt phải nghe tiếng nó. Nó làm tôi nhớ tới những điều tôi muốn quên. Buồn, thật là buồn, mọi thứ đều buồn, và mình sẽ chẳng bao giờ được vui lại nữa đâu, tôi thầm nghĩ.

Tôi nhích lại gần Jonathan. Anh vẫn ngồi rất yên, lưng dựa vào vách núi, mặt anh xanh xao. Anh ngồi đó - giống như một hoàng tử trong truyền thuyết, nhưng là một hoàng tử xanh xao và kiệt sức. Anh Jonathan đáng thương, anh cũng có sung sướng gì đâu, tôi nghĩ bụng; ôi, giá như em có thể làm cho anh được sung sướng hơn đôi chút.

Trong lúc chúng tôi ngồi đó, yên lặng như thế, Jonathan đột nhiên nói:

- Qui Ròn này, có chuyện anh phải nói với em.

Tôi lập tức thấy sợ, vì khi anh đã nói như vậy, thường chuyện anh phải nói là chuyện buồn.

- Anh phải nói với em chuyện gì vậy? - Tôi hỏi.

Anh đưa ngón tay trỏ quệt quệt má tôi.

- Không được sợ, Qui Ròn nghe chưa... Mà em có nhớ chú Orvar nói gì không? Chỉ cần lưỡi lửa của con Katla chạm tới mình tí ti thôi, thì cũng đủ cho mình bị liệt hoặc chết - em có nhớ chú ấy nói thế không?

- Nhớ chứ, nhưng sao lại đem chuyện ấy ra nói bây giờ? - Tôi hỏi.

- Vì... - Jonathan trả lời. - Vì một chút lửa của Katla đã liếm vào anh khi chúng mình chạy trốn nó.

Suốt ngày hôm đó, lòng tôi đầy những đau buồn và sợ hãi, nhưng tôi chưa hề khóc: Còn bây giờ, nước mắt tôi tràn ra như đang khóc.

- Jonathan, anh lại sắp phải chết sao? - Tôi rên lên. Và Jonathan nói:

- Không. Nhưng anh đang muốn như vậy. Vì anh sẽ không bao giờ cử động được nữa.

Anh giải thích cho tôi nghe sự tàn ác của ngọn lửa Katla. Nếu nó không làm chết người, thì nó còn gây ra chuyện tồi tệ hơn nhiều. Nó tiêu diệt một thứ gì đó trong người mình, làm cho thân thể mình bị liệt. Ban đầu, mình không nhận thấy ngay, nhưng nó cứ lan dần ra người mình, từng tí một, tàn nhẫn.

- Bây giờ anh chỉ còn cử động được cánh tay thôi, - anh nói. - và chẳng mấy chốc, anh cũng không còn làm được như vậy nữa.

- Không lẽ không khỏi được sao? - Tôi vừa khóc, vừa hỏi.

- Không, Qui Ròn ạ, sẽ không bao giờ khỏi được đâu, - Jonathan trả lời. - Trừ phi anh đến được Nangilima.

Trừ phi anh đến được Nangilima; à, tôi hiểu rồi! Anh đang nghĩ tới việc phải để tôi lại đây một mình, tôi hiểu rồi! Một khi anh biến vào cõi Nangilima mà không có tôi...

- Nhưng không thế nữa đâu, - tôi khóc. - Không bỏ em lại được đâu! Anh không được biến mất vảo Nangilima mà không có em đâu!

- Em có muốn đi cùng anh không? - Anh hỏi.

- Có chứ, anh nghĩ sao? - Tôi hỏi lại. - Em chẳng đã nói với anh là gì, anh đi đâu, em đi đó.

- Em có nói như vậy, và điều đó có an ủi anh, - Jonathan nói. - Nhưng khó đến được đó lắm.

Anh yên lặng một lát, rồi nói tiếp:

- Em có nhớ hồi chúng mình cùng nhảy không? Cái hồi cháy nhà kinh khủng và chúng mình cùng nhảy xuống sân ấy? Sau đó, anh tới Nangiyala, em có nhớ không?

- Tất nhiên em có nhớ, - tôi trả lời, và khóc dữ hơn. - Nhưng sao anh lại phải hỏi em như vậy? Anh tưởng rằng em không từng khoảnh khắc nhớ tới chuyện ấy từ đó đến nay hay sao?

- Không, anh biết chứ, - Jonathan đáp, tay lại quệt quệt má tôi.

Rồi anh nói:

- Anh nghĩ chúng mình có thể lại cùng nhảy. Xuống vực này, - nhảy thẳng xuống đồng cỏ kia kìa.

- Nhưng khi đó mình sẽ chết, - tôi nói. - Liệu sau đó mình có tới được Nangilima không?

- Có chứ, em có thể tin chắc như vậy, - Jonathan đáp. - Vừa xuống tới nơi là mình sẽ thấy ngay ánh sáng của Nangilima. Chúng mình sẽ thấy ánh sáng ban mai chiếu trên các thung lũng của Nangilima; đúng thế, vì bây giờ ở đó đang là buổi sáng.

- A ha ha, chúng mình có thể nhảy thẳng xuống Nangilima - tôi nói, và cười, cười lần đầu tiên suốt bao lâu nay.

- Đúng, chúng mình có thể, - Jonathan nói. - Và khi vừa xuống đến nơi, chúng mình sẽ còn thấy ngay con đường dẫn tới Thung lũng Táo, ngay trước mặt mình. Mà Grim và Fyalar đang ở đó chờ chúng mình rồi. Chúng mình chỉ việc nhảy lên ngựa và phóng đi.

- Và khi đó anh sẽ hết bị liệt chứ? - Tôi lại hỏi.

- Hẳn thế, khi đó anh sẽ khỏi hết mọi bệnh tật, lại vui sướng như mọi người. Mà em nữa, Qui Ròn ạ, khi đó em cũng sẽ vui sướng. Con đường tới Thung lũng Táo chạy xuyên qua rừng. Em hình dung ra thế nào, phóng ngựa ở đó, dưới ánh nắng ban mai, hai anh em mình?

- Tuyệt vời, - tôi trả lời, và lại cười.

- Và chúng mình không việc gì phải vội vã, - Jonathan nói tiếp. - Nếu thích, chúng mình có thể tắm dưới một hồ nước nào đó. Mà chúng mình vẫn kịp về đến nhà ông Mathias trước khi ông nấu xong nồi súp.

- Ông sẽ mừng lắm đấy khi thấy chúng mình tới, - tôi nói.

Nhưng tự nhiên tôi như bị một roi quất. Grim và Fyalar - làm sao Jonathan lại nghĩ ra rằng chúng tôi có thể cùng đem theo chúng tới Nangilima?

- Sao anh lại nói rằng chúng đang ở đó chờ mình? Chúng nó còn đang nằm ngủ ở đằng kia cơ mà.

- Qui Ròn à, chúng nó có ngủ đâu. Chúng nó chết rồi. Vì ngọn lửa của Katla đấy. Cái mà em trông thấy ở đó chỉ là vỏ của chúng thôi. Hãy tin anh, Grim và Fyalar đang đứng trên con đường tới Nangilima rồi, đang chờ chúng mình mà.

- Thế thì nhanh lên, đừng bắt chúng phải chờ lâu. - tôi giục.

Khi ấy, Jonathan nhìn tôi, mỉm cười. - anh nói.

- Anh làm thế nào mà nhanh lên được. Anh không nhúc nhích khỏi đây được, em nhớ nhé.

Và tôi hiểu tôi phải làm gì. Tôi nói:

- Jonathan, em sẽ cõng anh - tôi nói - Lần trước anh đã cõng em. Nay em sẽ cõng anh. Thế mới công bằng.

- Phải, thế là công bằng, - Jonathan tán thành. - Nhưng em có dám làm không chứ, Qui Ròn Tim Sư tử?

Tôi chưa lần nào bước ra khe vực và nhìn xuống dưới. Tối quá, tôi không nhìn thấy đồng cỏ đâu cả. Nhưng vực sâu lắm, đến ngợp cả người. Nếu chúng tôi nhảy xuống đó, ít nhất chúng tôi cũng chắc chắn tới được Nangilima, cả hai anh em. Không ai phải ở lại đây một mình, nằm than khóc, lo âu.

Nhưng không phải là chúng tôi phải nhảy. Chính là tôi phải nhảy. Khó đến được Nangilima lắm, Jonathan đã từng nói thế, và bây giờ tôi mới hiểu vì sao. Làm sao mà tôi dám, làm thế nào mà tôi lại dám?

Mà này, nếu mày không dám nhảy lúc này, tôi tự bảo mình, thì mày chỉ là một mớ rác rưởi, và mày sẽ không bao giờ là cái thớ gì khác ngoài một mớ rác rưởi.

Tôi quay lại chỗ Jonathan.

- Có, em có dám, - tôi trả lời.

- Bé Qui Ròn dũng cảm, - anh nói. - Thì chúng mình làm đi.

- Em muốn ngồi lại đây với anh một chút đã, - tôi nói.

- Nhưng không được quá lâu đấy, - Jonathan yêu cầu.

- Đồng ý, chỉ đến khi tối hẳn thôi, - tôi đáp. - Để em khỏi nhìn thấy gì.

Và tôi ngồi cạnh anh, nắm bàn tay anh, và cảm thấy rằng anh đang khoẻ, đang lành, và rằng không có gì thật sự nguy hiểm khi còn có anh ở bên.

Rồi đêm đến, bóng tối phủ xuống khắp Nangiyala, khắp núi, khắp sông, khắp mặt đất, và tôi đứng bên miệng vực, tay Jonathan đang ôm chặt cổ tôi, tôi cảm thấy hơi thở của anh phả vào phía sau tai tôi. Hơi thở ấy của anh hoàn toàn bình tĩnh. Không như tôi... Jonathan, anh của em ơi, tại sao em không dũng cảm được như anh?

Tôi không nhìn thấy vực thẳm phía dưới tôi, nhưng tôi biết nó đang ở đó, và tôi chỉ cần bước một bước vào nơi tối om ấy, thế là xong. Nhanh thôi mà.

- Qui Ròn Tim Sư tử, - Jonathan hỏi. - Em sợ à?

- Không...Vâng, em sợ. Nhưng em cũng sẽ làm, Jonathan ạ, em làm đây, ngay bây giờ.. - bây giờ...rồi em sẽ không bao giờ sợ nữa. Không bao giờ sợ n...

- Ôi Nangilima! Đúng rồi, Jonathan ơi, đúng rồi, em thấy ánh sáng rồi! Em nhìn thấy ánh sáng rồi!

Hết