Chương 15
Ngày chiến trận, ngày mà mọi người đều mong chờ, cuối cùng đã tới. Hôm đó, trong Thung lũng Bông hồng Dại có bão, cây cối nghiêng ngả đổ gãy.
Nhưng đó không phải là loại bão theo ý Orvar khi chú ấy nói rằng:
- Bão táp giải phóng sẽ tới, và nó sẽ bẻ gãy bọn người áp bức, như khi cây đổ gãy. Nó sẽ lao ầm ầm, quét sạch kiếp nô lệ của chúng ta và giải phóng chúng ta!
Chú ấy đã nói như vậy trong bếp nhà ông Mathias, khi mọi người bí mật kéo tới nghe chú và nhìn chú; thật thế, mọi người muốn nhìn thấy chú và Jonathan.
- Hai người là niềm an ủi và niềm hi vọng của chúng ta, là tất cả những gì chúng ta có, - họ nói như vậy khi họ lén đến nhà ông Mathias vào các buổi tối, cho dù họ biết như vậy là rất nguy hiểm.
- Vì họ muốn nghe kể về bão táp giải phóng, cũng y như trẻ con muốn nghe truyền thuyết ấy mà, - ông Mathias nói.
Ngày chiến trận là điều duy nhất họ đang nghĩ tới hoặc đang mong chờ. Chuyện đó không có gì là lạ, vì từ sau khi Orvar trốn thoát, Tengil trở nên hung bạo hơn, mỗi ngày lại tìm ra một cách mới hành hạ và trừng phạt Thung lũng Bông hồng Dại, làm cho mọi người ngày càng căm thù hắn hơn, và làm ra nhiều vũ khí hơn trong thung lũng.
Từ Thung lũng Hoa Anh đào, ngày càng có nhiều chiến sĩ vì tự do sang để hỗ trợ. Cô Sofia và bác Hubert đã đóng một trại bộ đội trong vùng sâu của khu rừng cạnh Elfrida. Thỉnh thoảng, vào ban đêm Sofia tới đây bằng đường hầm bí mật, và trong gian bếp của ông Mathias, họ lập kế hoạch tác chiến, cô ấy, chú Orvar và Jonathan.
Tôi nằm đó, lắng nghe họ, vì nay tôi ngủ trên chiếc xô-pha giường đặt trong bếp, khi Orvar cần có chỗ trong nơi ẩn náu.
Cứ mỗi lần tới, cô Sofia lại nói:
- Đây là vị cứu tinh của tôi! Cô không quên cám ơn cháu chứ, hả Karl?
Rồi chú Orvar cứ mỗi lần như vậy lại nói rằng tôi là người anh hùng của Thung lũng Bông hồng Dại, nhưng tôi thì chỉ có thể nghĩ tới Jossi một mình giữa sóng nước tối tăm và thấy buồn.
Cô Sofia đã lập một đường tiếp tế bánh mì cho Thung lũng Bông hồng Dại. Những toa xe chở bánh mì tiếp tế xuất phát từ Thung lũng Hoa Anh đào đi xuyên qua vùng núi non rồi tuồn qua đường ngầm vào.
Ông Mathias đeo một chiếc túi trên vai đi bí mật chia khắp cho các nhà. Trước đây tôi không biết rằng chỉ một chút bánh mì cũng đủ làm cho mọi người sung sướng đến như vậy. Bây giờ tôi biết rồi, vì tôi theo ông Mathias đi, và tôi thấy nguòi dân trong thung lũng này khổ ải như thế nào, và tôi cũng được nghe họ nói về trận đánh mà họ mong ngóng biết bao.
Tôi lại sợ về ngày đó, nhưng tôi cũng gần như bắt đầu mong cho ngày đó sớm chấm dứt, vì như Jonathan nói, cứ chờ đợi hoài thì không chịu nổi, mà lại nguy hiểm nữa.
- Không thể giữ bí mật quá lâu được đâu chú... - anh nói với chú Orvar. - Mơ ước giải phóng của chúng ta có thể bị đập nát một cách dễ dàng.
Anh nói như vậy thì đúng quá. Chỉ cần một tên lính Tengil phát hiện ra đường ngầm, hoặc có một cuộc khám xét nhà nữa và phát hiện ra Jonathan và Orvar trong nơi ẩn náu thôi. Tôi lạnh nguời khi nghĩ đến điều đó.
Nhưng bọn lính Tengil hẳn phải vừa mù vừa điếc, nếu không chắc chắn chúng phải nhận thấy một điều gì đó chứ. Nếu chúng chỉ cần để ý một chút thôi, chúng cũng có thể nghe thấy cơn bão giải phóng đã bắt đầu có tiếng vang dội tới, cái cơn bão sắp làm rung chuyển cả Thung lũng Bông hồng Dại. Nhưng chúng chẳng hay biết gì.
Đêm trước ngày xảy ra trận chiến đấu, tôi nằm trên chiếc xô-pha giường của tôi, không sao ngủ nổi, vì bão táp bên ngoài, và vì nỗi lo của riêng tôi. Mọi người đã quyết định bắt đầu trận đánh vào lúc bình minh sáng hôm sau. Chú Orvar, anh Jonathan và ông Mathias đang ngồi ngoài bàn, nói về chuyện đó, còn tôi nằm lắng nghe. Orvar nói là chính; chú cứ nói, nói mãi, mắt chú long lanh. Chú đã chờ đợi buổi sáng ấy hơn bất kì ai hết.
Theo tôi suy luận từ cuộc nói chuyện, thì cách đánh sẽ như thế này: Trước hết, phải đánh gục bọn bảo vệ cổng chính và cổng ra sông, để mở cổng cho cô Sofia và bác Hubert cùng quân ta vào, cô Sofia vào theo cổng chính, bác Hubert theo cổng bờ sông.
- Và chúng ta phải cùng thắng, hoặc là chết, - Orvar nói.
Phải làm thật nhanh gọn, chú ấy nói. Phải thanh toán hết bọn lính Tengil và đóng chặt các cổng lại trước khi Tengil kịp đem Katla tới, vì không có vũ khí nào chống được Katla. Bằng cách nào, Katla cũng không bị thua, trừ phi bị chết đói, Orvar bảo thế.
- Gươm giáo cung nỏ đều không làm gì được nó đâu, - chú nói. Mà chỉ cần lưỡi lửa của nó liếm vào một tí tẹo thôi cũng đủ làm người ta bị liệt hoặc chết.
- Nhưng nếu Tengil vẫn còn Katla trên núi với hắn, thì việc giải phóng Thung lũng Bông hồng Dại có ích gì? - Tôi hỏi. - Vì với con rồng cái ấy, hắn lại đến dập tắt cuộc nổi dậy, như hắn đã từng làm lần trước.
- Hắn đã tặng cho chúng ta bức tường thành để bảo vệ mình, chớ quên chuyện đó, - Orvar nói. - Và không con quỉ nào vào được khi các cổng thành đóng lại. Hắn ta mới thật tốt bụng.
Tôi không cần phải lo về Tengil, vì như Orvar nói, đến tối, chú ấy cùng Jonathan, cô Sofia và một số người khác sẽ đột nhập vào lâu đài của Tengil, đánh át bọn lính gác và thanh toán hắn, ngay trước khi hắn ta biết rằng có cuộc nổi dậy trong thung lũng, còn Katla vẫn sẽ bị xiềng trong hang nó đến khi nó kiệt sức và đói gục, mọi người sẽ giết nó.
- Không có cách nào khác thanh toán con quỉ như vậy đâu, - Orvar nói. Rồi chú lại nói tới việc phải nhanh gọn diệt tất cả bọn lính Tengil như thế nào, và Jonathan hỏi:
- Diệt? Chú bảo là giết à?
- Đúng vậy, chứ còn nghĩa gì khác nữa? - Chú Orvar hỏi lại.
- Nhưng cháu không thể giết bất kì ai, - Jonathan nói. - Chú Orvar, chú biết vậy chứ?
- Kể cả khi sinh mạng của cháu bị đe dọa cũng vậy ư? - Chú Orvar hỏi.
- Đúng, kể cả khi đó cũng vậy, - Jonathan
Orvar không thể hiểu nổi điều đó, ông Mathias cũng thấy khó mà hiểu nổi.
- Nếu ai cũng như cậu thì bọn quỉ dữ sẽ trị vì muôn đời. - Orvar nói.
Nhưng tôi nói tiếp rằng nếu ai cũng như Jonathan, thì chẳng làm gì có quỉ dữ.
Rồi từ đó đến hết buổi tối, tôi không nói gì thêm nữa, trừ lúc ông Mathias đến kéo tôi dậy. Lúc ấy, tôi thì thào với ông:
- Cháu sợ lắm, ông Mathias ạ.
Ông vỗ về tôi và nói:
- Ông cũng sợ.
Nhưng đồng thời Jonathan cũng hứa với Orvar rằng anh sẽ phi ngựa khắp trận địa để cổ vũ những người khác làm những việc mà bản thân anh không thể hoặc không muốn làm.
- Nhân dân của Thung lũng Bông hồng Dại phải trông thấy cậu, - Orvar bảo vậy. - Họ phải trông thấy cả hai chúng ta.
Khi đó, Jonathan nói:
- Thôi được, nếu cần thế, thì tôi sẽ thế.
Nhưng tôi thấy anh xanh tái đi như thế nào dưới ánh sáng của một ngọn nến con trong gian bếp.
Khi chúng tôi từ Hang Katla trở về, chúng tôi đã phải để Grim và Fyalar lại trong rừng với bác Elfrida. Nhưng mọi người đã quyết định rằng cô Sofia phải đưa chúng vào cùng khi cô phi ngựa qua cổng chính trong ngày xung trận. Mọi người cũng quyết định về tôi. Tôi không phải làm gì, chỉ chờ cho trận đánh kết thúc. Jonathan đã nói như vậy. Tôi phải ngồi hoàn toàn trơ trọi một mình ở nhà, trong bếp, và chờ.
Đêm đó, không ai ngủ.
Rồi trời sáng.
Đúng, trời sáng, và là ngày xung trận; ôi, tôi thấy mệt mỏi tận trong tim về cái ngày đó. Tôi nhìn thấy và nghe thấy quá đủ máu me và hò hét, vì họ đánh nhau ngay giữa dốc phía dưới nhà ông Mathias. Tôi thấy Jonathan phi ngựa đi phi ngựa lại, bão táp làm tóc anh rối bù, và tất cả quanh anh chỉ toàn đánh nhau, gươm vung loang loáng, giáo bay vù vù, tên bắn vun vút, rồi hò hét, rên la; và tôi tâm sự với Fyalar rằng nếu Jonathan chết, thì tôi cũng sẽ chết.
Phải, tôi có Fyalar cùng ở lại với tôi trong bếp. Tôi đã nghĩ là sẽ không nói cho ai biết điều đó, nhưng tôi có con ngựa của tôi cùng ở đó. Tôi không chịu nổi cảnh cô đơn, không thể chịu nổi. Fyalar cũng nhìn qua cửa sổ xem cảnh tượng phía dưới dốc. Rồi nó cất tiếng hí. Không hiểu nó muốn cùng ra với Grim hay nó cũng đang sợ hãi như tôi.
Sợ hãi, tôi sợ hãi...sợ lắm.
Tôi thấy Veder gục chết trước mũi giáo của cô Sofia, Kader chết vì lưỡi kiếm của chú Orvar, và mấy thằng nữa, gục bên trái, ngã bên phải, còn Jonathan phóng ngựa giữa tất cả, bão táp làm tóc anh rối bù, mặt anh ngày càng xanh hơn, và trái tim tôi càng ngày càng thấy mệt mỏi hơn.
Và chiến trận kết thúc!
Ngày hôm đó có biết bao tiếng kêu trong Thung lũng Bông hồng Dại, nhưng có một tiếng kêu không giống nhũng tiếng kêu khác.
Giữa lúc trận mạc, một tiếng tù và vang xuyên bão tố, và một tiếng kêu thất thanh:
- Katla đến đấy!
Sau đó là tiếng gầm, tiếng gầm kêu đói của Katla mà ai ai cũng đều biết rõ. Gươm giáo cung nỏ buông xuôi, những người đang đánh nhau không còn đánh tiếp nữa, vì họ biết rằng không gì cứu được họ nữa. Trong thung lũng chẳng còn tiếng gì ngoài tiếng sấm rền của trận bão, tiếng tù và của Tengil và tiếng thét của Katla, và ngọn lửa của Katla phun phì phì, giết chết những ai bị Tengil chỉ tay. Hắn cứ chỉ, chỉ mãi, và bộ mặt độc ác của hắn tối đen màu quỉ dữ; còn tôi biết rằng nay Thung lũng Bông hồng Dại đã đến lúc tàn.
Tôi không muốn nhìn, tôi không muốn nhìn...không muốn nhìn bất kì cái gì nữa. Chỉ còn Jonathan. Tôi phải xem anh đang ở đâu, và tôi thấy anh đang ở ngay phía dưới nhà ông Mathias, cưỡi trên lưng Grim, mặt mày tím ngắt, đứng lặng, và bão táp đang làm tóc anh rối bù.
- Jonathan, Jonathan ơi, anh có nghe tiếng em gọi không? - tôi gào lên.
Nhưng anh không nghe tiếng tôi, và tôi thấy anh thúc ngựa rồi bay vút xuống phía dưới dốc như một mũi tên, nhanh hơn bất kì ai trên trời hay dưới đất đã từng bay, tôi biết như vậy. Anh đang bay tới Tengil...và anh bay vụt qua hắn...
Sau đó, tiếng tù và lại vang lên, nhưng người thổi bây giờ là Jonathan. Anh đã giật chiếc tù và ra khỏi tay Tengil và thổi lại, để cho Katla biết ai là chủ mới của nó.
Lúc đó thật là yên tĩnh, ngay bão táp cùng ngừng lại. Tất cả mọi người đều đứng yên, chờ đợi. Tengil ngồi chết dí vì sợ trên ngựa, chờ đợi. Katla cũng chờ đợi.
Jonathan thổi tiếp một tiếng nữa.
Tức thì Katla gầm lên và quay cơn cuồng nộ vào kẻ nó đã có thời vâng lời một cách mù quáng.
- Tengil sẽ có lúc hết thời, - tôi nhớ Jonathan từng nói thế.
Bây giờ, hắn đã hết thời.
Thế là kết thúc ngày chiến trận trong Thung lũng Bông hồng Dại. Nhiều người đã bỏ mạng vì tự do. Đúng, tự do rồi, thung lũng của họ được tự do rồi, nhưng người chết nằm đó, có biết như vậy đâu.
Ông Mathias đã chết, và tôi không còn ai là ông nữa. Bác Hubert đã chết rồi, là người gục ngã đầu tiên. Bác ấy thậm chí chưa qua nổi cổng bên sông, vì bác gặp Tengil và bọn lính của hắn; và tồi tệ nhất là bác gặp Katla. Tengil đang đem nó theo đúng vào ngày ấy để trừng trị Thung lũng Bông hồng Dại lần cuối cùng vì Orvar vượt ngục. Hắn có biết đó là ngày chiến trận đâu, nhưng khi hắn nhận ra, thì hẳn là hắn rất mừng khi có Katla đi cùng.
Nhưng bây giờ thì hắn, tên Tengil ấy, chết rồi, cũng chết như những người khác.
- Không còn kẻ đày đọa chúng ta nữa, - Orvar nói. - Con em của chúng ta sẽ được sống trong tự do và hạnh phúc. Chẳng bao lâu, Thung lũng Bông hồng Dại của chúng ta sẽ lại được như ngày xưa.
Nhưng tôi nghĩ rằng Thung lũng Bông hồng Dại sẽ không bao giờ được như ngày xưa, đối với tôi, khi vắng ông Mathias.
Orvar bị một mũi kiếm vào lưng, nhưng hình như chú ấy không cảm thấy gì hoặc không để tâm đến. Đôi mắt chú sáng long lanh khi chú nói chuyện với mọi người trong thung lũng.
- Chúng mình rồi sẽ lại sung sướng, - chú cứ nói đi nói lại câu đó.
Hôm đó trong Thung lũng Bồng hồng Dại có nhiều người khóc. Nhưng Orvar thì không. Cô Sofia vẫn sống, thậm chí không bị thương gì, và nay phải trở về Thung lũng Hoa Anh đào, cô và tất cả chiến binh còn sống của cô.
Cô tới gặp tạm biệt chúng tôi bên ngoài ngôi nhà của ông Mathias.
- Đây là ngôi nhà ông Mathias từng sống, - cô nói, hơi khóc. Sau đó, cô ôm Jonathan.
- Mau về nhà ở Trang trại Các Hiệp sĩ nhé, - cô nói. - Cô sẽ luôn luôn nhớ cháu, cho tới khi nào gặp lại.
Rồi cô quay sang tôi.
- Karl, cháu có về cùng cô bây giờ không?
- Không ạ - Cháu sẽ đi cùng anh Jonathan cơ. - tôi đáp.
Tôi đang rất sợ Jonathan sẽ bắt tôi đi trước cùng cô Sofia, nhưng không.
- Cháu muốn có Karl đi cùng với cháu, - anh nói.
Trên sườn dốc phía dưới nhà ông Mathias, Katla đang nằm như một đống đất lù lù dễ sợ, yên lặng và no nê máu. Chốc chốc, nó lại nhìn Jonathan, như con chó để ý xem chủ nó muốn gì. Nó không đụng chạm đến ai nữa, nhưng chừng nào nó còn nằm đó, thì nỗi kinh hoàng vẫn còn khắp thung lũng này, và sẽ chẳng ai dám sung sướng. Orvar nói rằng Thung lũng Bông hồng Dại sẽ không thể chào đón tự do cũng không thể khóc thương cho những người đã chết chừng nào Katla còn tồn tại. Người duy nhất có thể đưa nó trở lại hang của nó là Jonathan.
- Cậu sẽ giúp Thung lũng Bông hồng Dại một lần nữa chứ? - Orvar hỏi. - Nếu cậu giúp đưa nó đến đó, xiềng nó lại, thì tôi sẽ xin làm nốt phần còn lại khi chín muồi.
- Đồng ý, - Jonathan nói. - Một lần cuối cùng cháu giúp chú đấy, Orvar nhé.
Tôi hiểu rằng người ta phải đi như thế nào khi đi dọc theo bờ sông. Ta phải ung dung trên yên ngựa, ngắm nhìn sông trôi, mặt nước lấp lánh, rồi những cành liễu rủ đang múa lượn trong gió. Ta không nên đi ở đó cùng vói một con rồng bám theo.
Nhưng đó lại là điều chúng tôi phải làm, vừa đi vừa nghe tiếng chân nện thình thịch của nó ngay sau lưng. Thình thịch, thình thịch; nghe mà phát hoảng tiếng bước chân của nó, đến Grim và Kyalar cũng gần như phát khùng. Chúng tôi giữ được chúng thật vất vả. Thỉnh thoảng Jonathan thổi tù và, nhũung tiếng tù và cũng thật dễ sợ, và tất nhiên Katla chẳng thích thú gì. Nhưng nó phải vâng lời khi nghe tiếng tù và ấy. Đó là điều duy nhất làm yên lòng tôi trên đường đi.
Hai anh em chúng tôi, Jonathan và tôi, không nói chuyện gì với nhau; chúng tôi chỉ hùng hục đi hết sức mình. Jonathan phải xiềng Katla vào hang của nó trước khi đêm đến và bóng tối phủ xuống, và rồi nó sẽ chết ở đó. Sau đó, chúng tôi sẽ không bao giờ gặp lại nó nữa, và chúng tôi sẽ quên rằng đã từng có một xứ sở như Karmanyaka. Ngọn núi của Những Ngọn Núi Ngàn Xưa vẫn có thể đứng đó vĩnh viễn, nhưng chúng tôi sẽ không bao giờ phải đặt chân đến đó lại nữa, Jonathan hứa với tôi như vậy.
Càng tối càng vắng lặng, bão tố không còn nữa, chỉ còn lại một buổi tối yên tĩnh, ấm áp, và cảnh thật là đẹp khi mặt trời lặn, đúng kiểu một buối tối ta ung dung yên ngựa theo dọc bò sông lòng không sợ hãi, tôi nghĩ bụng.
Nhưng tôi không để Jonathan biết, rằng tôi đang sợ hãi.
Cuối cùng, chúng tôi đã tới Thác Karma.
- Này Karmanyaka, chúng ta tới đây lần cuối cùng, - Jonathan nói, khi chúng tôi phi qua cầu. Anh giơ tù và lên thổi.
Katla đã trông thấy mỏm đá của nó phía bên kia sông. Hẳn nó muốn đến đó ngay, vì nó đang bật ra những tiếng phì phì sốt ruột, ngay khuỷu chân Grim. Lẽ ra nó không được làm như vậy.
Nhưng vì nó đã làm như vậy, nên Grim hoảng sợ nhảy chồm sang bên, va vào thành cầu, và tôi thét lên, vì tôi tưởng Jonathan sắp lao đầu xuống Thác Karma. Nhưng anh không lao xuống. Tuy nhiên, chiếc tù và văng khỏi tay anh, biến mất dưới dòng nước chảy xiết.
Đôi mắt dữ tợn của Katla trông thấy hết, và nó hiểu rằng nó không còn ai là chủ nữa. Nó thét lên, và lửa bắt đầu phun ra từ hai lỗ mũi của nó.
Ôi thôi, chúng tôi phóng bán sống bán chết để cứu lấy mạng sống thảm hại của mình! Phóng kinh khủng, phóng ghê người! Phóng qua cầu, phóng ngược lên con đường dẫn tới lâu đài của Tengil, trong lúc Katla cứ phun phì phì đằng sau.
Con đường ấy, ngoằn ngoèo theo ngọn núi của Những Ngọn Núi Ngàn Xưa, và ngay trong mơ cũng không thể có gì khủng khiếp bằng chạy trốn từ mỏm này sang mỏm khác trong lúc Katla ở ngay phía sau, ngọn lửa của nó gần như liếm vào khuỷu chân ngựa. Một mũi lửa phóng sát sàn sạt người Jonathan, và trong một khoảnh khắc kinh hoàng, tôi tưởng chừng anh đã bị thiêu cháy, và tôi gào lên:
- Đừng dừng lại. Phi đi, cứ phi đi!
Grim và Fyalar tội nghiệp, Katla làm cho chúng mất vía, nên chúng gần như lồng lên cố thoát thân; ngược lên con đường đó, chúng phi, xuyên qua những chỗ ngoặt, chỗ rẽ, mồ hôi chúng chảy thành dòng, phi nhanh hơn, nhanh hơn nữa đến khi không thể chạy nhanh hơn nữa. Nhưng đến lúc đó, Katla cũng tụt lại phía sau rồi, và đang thét lên giận dữ. Nó đã về đến đất của nó và nay thì đừng hòng có ai thoát khỏi tay nó. Những tiếng thình thịch, thình thịch tăng nhịp dần lên, và tôi hiểu rằng cuối cùng thì nó sẽ thắng, với tất cả sự man rợ cứng cổ của nó.
Chúng tôi cứ phóng tiếp một lúc lâu, lâu lắm, và tôi đã hết mọi hi vọng chạy thoát.
Chúng tôi đã phóng đến lưng chừng núi, và vẫn còn đường truớc mặt. Chúng tôi đã thấy Katla ngay phía sau, trên một vỉa đá hẹp phía trên Thác Karma. Nó đang dừng chân ở đó một lát, vì đó là mỏm đá của nó. Đó là nơi nó thường đứng, chằm chằm nhìn xuống, và bây giờ nó đang làm đúng như vậy. Nó dừng lại gần như miễn cưỡng, nhìn chằm chằm xuống thác nước, khói lửa vẫn đang phì phì ra từ mũi, trong lúc nó đang sốt ruột nện chân thình thịch lên xuống. Nhưng rồi nó chợt nhớ ra chúng tôi, ngẩng lên nhìn chúng tôi bằng cặp mắt đầy lửa.
Đồ tàn ác nhà mày, tôi nghĩ. Đồ tàn ác nhà mày, cái đồ tàn ác ạ, sao mày không ở lại mỏm đá đó đi?
Nhưng tôi biết nó sẽ đến. Nó sẽ đến...
Chúng tôi đã tới tảng đá lớn, nơi chúng tôi từng lần đầu tiên trông thấy nó vươn cái đầu khủng khiếp của nó ra khi chúng tôi mới tới Karmanyaka. Đột nhiên, ngựa chúng tôi không đi tiếp được nữa. Thật đáng sợ khi ngựa của mình gục xuống dưới chân mình, nhưng lúc này đúng như vậy. Grim và Fyalar sụm xuống dưới đường, và nếu lúc trước chúng tôi hi vọng có phép thần nào cứu được chúng tôi, thì nay chẳng còn gì khác ngoài việc chấm hết hi vọng.
Chúng tôi đã thua, chúng tôi biết vậy. Và Katla cũng biết vậy. Một cái nhìn đắc thắng ác hiểm bừng lên trong mắt nó. Nó đứng thật yên trên mỏm đá của nó và nhìn chúng tôi chòng chọc. Tôi nghĩ nó đang cười nhạo chúng tôi. Nó có vội gì nữa đâu. Dường như nó đang nghĩ: Ta sẽ tới đúng lúc. Các người có thể chờ ta, chớ băn khoăn gì.
Jonathan nhìn tôi với cái nhìn âu yếm của anh. Anh nói:
- Qui Ròn ơi, tha lỗi cho anh vì đã đánh rơi chiếc tù và. Nhưng anh chẳng biết làm thế nào nữa.
Tôi muốn nói với Jonathan rằng anh chẳng bao giờ, mãi chẳng bao giờ phải có gì để tôi tha thứ cả, nhưng tôi đứng câm như hến vì kinh hoàng.
Katla đứng đó, khói lửa vẫn cuồn cuộn phun ra từ lỗ mũi nó, chân nó bắt đầu dậm thình thịch. Chúng tôi nấp sau một tảng đá lớn, tránh cho ngọn lửa của nó không quét vào người. Tôi túm chặt lấy Jonathan; chặt hết mức, còn anh nhìn tôi nước mắt đầm đìa.
Rồi trong anh một cơn giận sôi lên, anh nhoài người ra phía trước quát to với Katla:
- Mày không được đụng đến Qui Ròn! Mày có nghe thấy tao nói gì không, đồ quỉ dữ, mày ấy! Mày không được đụng đến Qui Ròn, nếu không...
Anh túm lấy tảng đá, làm như mình là một người khổng lồ và có thể dọa được nó. Nhưng anh đâu phải là người khổng lồ, nên không thể dọa được Katla. Nhưng tảng đá lại nằm chênh vênh trên bờ vực.
- Không cung tên gươm giáo nào làm gì được Katla, Orvar đã nói vậy. Chú ấy cũng có thể đã nói rằng đá cũng vậy thôi, cho dù to đến thế nào.
Katla không bị chết bởi tảng dá mà Jonathan xô xuống đầu nó, nhưng đá rơi thẳng vào nó, nên với một tiếng thét làm sụp đổ cả núi non, nó lăn xuống vực Thác Karma.