← Quay lại trang sách

Mối sợ hãi về một Liên bang

Việt Nam nghi ngờ có sự gia tăng đàn áp trong nội bộ Kampuchia nhưng không biết rõ. Trong buổi nói chuyện riêng với một du khách Thái thuộc cánh tả hồi cuối năm 1976, thủ tướng Việt Nam (CS) Phạm văn Đồng bày tỏ quan tâm của ông ta về sự an toàn cho “một vài người bạn Kampuchia”. Một số nhà cựu ngoại giao thời Sihanouk lãnh đạo chính phủ kháng chiến viết thư cho bạn hữu của họ ở Hà Nội trước khi họ từ Bắc Kinh bay về Phnom Pênh. Rồi từ đó, không nghe tin tức gì về họ cả. (18)

Có thể Hà Nội không biết rõ tình hình thanh trừng ở Kampuchia nhưng có biết những thù hằn trong nội bộ nước này. Đầu tháng Ba năm 1977, một nhà ngoại giao Việt Nam nói với tôi ở Việt Nam là có “đấu tranh nghiêm trọng” bên trong nội bộ đảng CS Kampuchia, giữa những người ông ta gọi là “Một trăm phần trăm thân Mao-Pol Pot” và những người được gọi là theo “đường lối ôn hòa”. Những người theo đường lối ôn hòa coi như thân Việt Nam, và ông ta tiên đoán rằng “cuối cùng họ sẽ giành được thắng lợi.” Đồng cũng đồng quan điểm với nhóm này khi ông ta nói với du khách Thái ấy về hy vọng “những cuộc cách mạng chân chính” sẽ nổi dậy ở Kampuchia. Hy vọng này buộc Hà Nội giữ tình láng giềng tốt trong khi tìm phương cách đối đầu với thách thức của Pol Pot. Có lẽ việc ấy vượt ra ngoài quan tâm về những vấn đề phát triển trong nội bộ Kampuchia mà Việt Nam sẵn sàng cúi mình để làm vui lòng Pol Pot. Họ không muốn tạo thêm những bất lợi giao hảo và nhóm bạn hữu của Hà Nội đang bị dồn vào góc tường trong nội bộ đảng CS Kampuchia. Đầu tháng Hai năm 1977, một đoàn đại biểu phụ nữ được Hà Nội gởi đi Phnom Pênh để củng cố tình đoàn kết. Ngày 15 tháng Hai, thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Hoàng văn Lợi tới Phnom Pênh trong một chuyến đi thăm hai ngày không được công bố. Nhiệm vụ chính của ông ta là thuyết phục Kampuchia tham gia một hội nghị cấp cao về Đông Dương. Hà Nội muốn trục xuất về nước những người Kampuchia trốn qua Việt Nam trong mấy tháng trước để làm dịu bầu không khí ngoại giao và tạo sự hợp tác toàn vẹn giữa hai nước. (19) Nhiều lúc, việc trục xuất về nước bao gồm cả những phần tử xấu trong khi thi hành các dịch vụ. Trong hành động như vậy, hồi đầu năm 1977, Việt Nam dành cho Khmer Đỏ quyền chọn 49 người tỵ nạn tại một trại ở Mộc Hóa đem về nước để đổi lại một tên đầu cơ.(20)

Tuy nhiên, Kampuchia từ khước ý định họp thượng đỉnh. Họ thấy rằng đề nghị đó là một bằng chứng xa hơn nữa việc Việt Nam không ngừng cố gắng đặt Đông Dương dưới ảnh huởng của Việt Nam. Tháng Hai năm 1976, Phnom Pênh cảnh giác, phản ứng với danh từ “quan hệ đặc biệt” dùng để mô tả quan hệ giữa Việt Nam với Lào. Hồi tháng Chạp năm 1976, sự cảnh giác này được quan tâm đặc biệt khi Hà Nội thông báo rằng quan hệ thường trực đặc biệt với Kampuchia là mục tiêu lâu dài của Cọng sản VN. CS Việt Nam công bố quyết tâm của họ rằng Việt Nam sẽ duy trì và phát triển quan hệ đặc biệt giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Lào, Kampuchia anh em, tăng cường đoàn kết chiến đấu, tin tưởng nhau, hợp tác lâu dài và viện trợ hỗ tương trên mọi lãnh vực... để ba nước có thể trở thành một hiệp hội cùng nhau đấu tranh giải phóng đất nước và hợp tác mãi mãi trong xây dựng và bảo vệ xứ sở vì nền độc lập và thịnh vượng của mỗi nước.(21)

Hồi cuối tháng 3/1977, sau cuộc thanh trừng bắt đầu hồi tháng Chín trước, loại bỏ hàng trăm cán bộ và để Pol Pot kiểm soát đảng chặt chẽ hơn, đôi khi Phnom Pênh giải thích giải pháp cuối cùng đối với sự đe dọa của Việt Nam. Tuồng như Pol Pot quyết định loại bỏ quan hệ bình thường giã vờ với Việt Nam. Đã đến lúc tiến hành chiến dịch trục xuất tất cả số người Việt Nam còn ở lại Kampuchia và thực hiện các cuộc tấn công vào Việt Nam.

Ros Saroeun, một người thợ máy xe hơi sống sót sau thời kỳ Khmer Đỏ kể lại những ngày giao động ấy. Đó là hồi đầu tháng Tư/1977 ở Oudong. Trong khi chờ viên quận trưởng Khmer Đỏ tới chỉ thị việc sửa chữa các xe, Saroeun căng cổ ra đọc lá thư trên bàn anh ta có đóng dấu “Ban chỉ đạo 870”, ngày ghi là ngày 1 tháng Tư/1977. Vào lúc đó, anh ta không biết bí số 870 là Ủy ban Trung ương đầy quyền lực hoặc là cái bóng của Angkar (tổ chức). Nhưng sự chỉ đạo lạnh lùng trong bức điện nói rõ rằng: Tất cả những người Việt Nam ở trong quận và tất cả những người Khmer nói tiếng Việt hay có bạn bè Việt Nam sẽ bị đưa tới cơ quan An ninh Quốc gia. Saroeun cảm thấy lạnh mình. Ngay từ khi còn là trẻ mồ côi, Saroeun đã được ông chủ garage người Việt ở Phnom Pênh nuôi nấng. Saroeun không những nói được tiếng Việt mà còn lấy vợ Việt Nam. May mắn là vợ anh ta trông không giống người Việt và ngay cả những người trong hợp tác xã cũng không biết chị ấy là người Việt hay biết chị ấy nói được tiếng Việt. Sau khi sửa xong chiếc xe Jeep cho ủy ban quận, Saroeun vội vàng về nhà báo cho vợ hay. Chị ấy cũng biết rồi. Một người đàn bà Việt Nam ở trong làng vừa bị Khmer Đỏ lấy gậy lớn đánh tới chết và chôn phía ngoài làng sau khi bắt chồng bà ta là người Khmer đi phá rừng. Vài ngày sau, người chồng về thấy nhà trống không. Hàng xóm sợ hãi, lặng lẽ quay đi, không ai dám nhìn ông chồng. Lang thang trong làng, rồi anh ta tìm ra chỗ kinh hãi ấy -một bàn tay đặt trên nấm mộ mới đắp. Ông ta nhận ra bàn tay của vợ nhưng không biết nói như thế nào. Từ tháng Ba, trong khi chuẩn bị vũ trang đánh nhau với Việt Nam, các đơn vị quân đội Kampuchia ở khu phía đông không còn giữ nhiệm vụ sản xuất để chuẩn bị chiến đấu.

Tới 30 tháng Tư /1977, Khmer Đỏ tấn công một loạt các làng mạc và thị trấn dọc theo biên giới tỉnh An Giang trong lưu vực sông Cửu Long, giết hại dân thường và đốt nhà cửa của họ. Chỉ riêng cuộc tấn công vào Tịnh Biên cũng đã giết một trăm người dân thường. Một năm sau, đến thăm thị trấn ma quái này, tôi nghe nhiều người sống sót nhắc lại đêm kinh hãi 30 tháng Tư/1977 ấy. Sự thực, dù Kampuchia đã tấn công các tỉnh dọc biên giới Việt Nam từ tháng Giêng/1977 nhưng họ chọn ngày 30 tháng Tư để mở ra cuộc tấn công dữ dội nhứt vì ngày đó có rất nhiều ý nghĩa. Đó là ngày Việt Nam (CS) tổ chức lần thứ hai kỷ niệm giải phóng miền Nam và chuẩn bị ngày lễ Lao động -đó là ngày đoàn kết quốc tế của công nhân.