Hà Nội đánh cuộc với Đặng
Có sự ngập ngừng và phấn khởi ở Hà Nội qua tiếng máy teletype lách cách trong bộ Ngoại giao, báo tin về cái chết của Mao. Vài tháng kể từ khi Chu Ân Lai chết hồi tháng Giêng/1976, các bản báo cáo từ Bắc Kinh gởi về nói rõ việc tranh giành quyền lực căng thẳng trong đó nhóm cấp tiến tuồng như thắng thế, điều đó không ai chối cải. Có thể nào cái chết của Mao cũng là hồi chuông báo tử cho phe tả? Ít ra, Hà Nội cũng hy vọng như thế. Không để mất cơ hội lấy lại lòng trung thành trong mối quan hệ đã băng giá, Việt Nam cho một chuyến bay đặc biệt mang vòng hoa tang đến Bắc Kinh. Hầu hết thành viên bộ chính trị của đảng CS Việt Nam tập trung tại tòa đại sứ Trung Hoa hình dạng giống như cái chùa để viết lời chia buồn vào sổ tang.
Ngày 12 tháng Mười khi nghe tin bắt giữ “bè lũ bốn tên”, Việt Nam không dấu giếm nỗi vui mừng. Một viên chức Việt Nam bồng bột nói với phóng viên báo L'humanité của Pháp rằng “Năm tới anh ta có thể đi Bắc Kinh đưa tin về sự phát triễn tình hình ở đó.” (23) Đó chỉ là một sự tiên đoán hoàn toàn cường điệu khi những thành viên chống Liên Xô của đảng Cọng Sản Pháp không được đón chào ở Trung Hoa. Quả thật Việt Nam hy vọng quá nhiều vào việc phe cực tả bị loại trừ. Trung Hoa sẽ quay lại quan điểm của họ, bớt chủ nghĩa Chauvin hơn và thái độ thực tế hơn trong khi đối phó với Việt Nam. Nếu đường lối ôn hòa hồi cuối thời Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình,-người đã từng bị sĩ nhục- lại nổi lên ở Trung Hoa, có lẽ Hà Nội được thông cảm hơn về vị thế độc lập của họ.
Đại sứ Việt Nam tại Trung Hoa, Nguyễn Trọng Vĩnh nói với vài đồng nghiệp rằng nếu Đặng trở lại nắm quyền thì một giải pháp cho vấn đề Trung Hoa và Việt Nam tranh cải chủ quyền các hòn đảo ở ngoài khơi biển Trung Hoa (biển Đông, nd) sẽ đạt được. Vĩnh nói rằng khi tổng bí thư Lê Duẩn gặp Đặng hồi tháng Chín/ 75, Đặng có đồng ý sau này phải họp để thương thảo vấn đề này. Nhưng ngay từ khi bắt đầu chiến dịch chống Đặng hồi cuối năm 1975, Bắc Kinh làm cho tình hình thêm khó khăn bằng cách tuyên bố rằng sự kiện các hòn đảo là không thể thương thuyết vì “nó là vùng đất thiêng quê mẹ”. Việc Đặng phục hồi quyền lực, theo Việt Nam hy vọng, sẽ đem lại một tình hình thực tiễn hơn. (24)
Việt Nam đang ở giữa thời kỳ kế hoạch năm năm lần thứ hai khi có tin từ Bắc Kinh đưa tới. Hơn một năm qua, các nhà lãnh đạo Hà Nội đi vòng các nước khối xã hội chủ nghĩa, cố gắng bảo toàn viện trợ cho kế hoạch của họ. Chỉ có Trung Hoa là nước xã hội chủ nghĩa lớn từ chối mọi sự cam kết có tính cách lâu dài. Với việc loại trừ nhóm cấp tiến ra khỏi quyền lãnh đạo, Hà Nội muốn xác định khi nào thì Trung Hoa thay đổi ý kiến của họ. Ngày 15 tháng Mười, ba ngày sau khi có bản báo cáo về sự sụp đổ của nhóm cực đoan, Hà Nội gởi một bức thư cho Bắc Kinh yêu cầu viện trợ. Tuy nhiên, cho mãi tới tháng Chạp, Hà Nội không nhận được phúc đáp. Lúc đó Việt Nam đang tổ chức đại hội đảng tại quảng trường Ba Đình. Không có đại biểu Trung Hoa trong số 29 đại biểu các đảng anh em tham dự đại hội. Việc nầy để lại ấn tượng một âm mưu trong chính sách của Việt Nam. Chính sách ngoại giao trọng yếu của đảng là tập trung vào khối không liên kết và Thế giới Thứ Ba, loại trừ vấn đề căn bản chia rẽ Moscow và Bắc Kinh. Mặc dù đảng Cọng sản Việt Nam nhận định khác với Trung Hoa về chủ nghĩa đế quốc Mỹ, như là mối đe dọa chính cho hòa bình thế giới, Việt Nam ca ngợi Trung Hoa lẫn Liên Xô về những thành quả của các nước này. Tuy nhiên, Việt Nam cũng nói rõ ra họ không tin tưởng bất cứ một kiểu mẫu cách mạng nào: Mỗi quốc gia tự phát triển chiến lược và chiến thuật thích hợp với điều kiện riêng của mỗi nước.
Việc Trung Hoa chậm phản ứng đối với lập trường Việt Nam không đứng về phe nào chấm dứt vào cuối tháng Hai /1977. Cuối cùng Bắc Kinh phúc đáp thư của Việt Nam hồi tháng mười năm trước -một bức thư giả cớ xin viện trợ nhưng thực chất muốn biết thái độ của các nhà lãnh đạo Bắc Kinh thời hậu Mao- Thư cũng lịch sự. Trung Hoa không thể đáp ứng được yêu cầu của Việt Nam xin giúp đỡ. Bắc Kinh nói với một phó thủ tướng Việt Nam đang viếng thăm rằng chính Trung Hoa đang lão đão để thoát ra khỏi sự phá hoại do “bè lũ bốn tên” tạo ra, đang bị động đất nghiêm trọng. (25)
Đây không phải chỉ là một sự thoái thác và cũng không đủ lý do để giải thích việc từ chối của Trung Hoa. Sau gần một thập niên xáo trộn và đấu tranh nội bộ, sự tàn phá do động đất taị tỉnh Hồ Bắc (7/1976) giết chết gần 700 ngàn người, hơn một triệu người không nhà ở, tình hình kinh tế Trung Hoa rất bết bát. Tuy nhiên tình hình đó cũng không ngăn việc phái ông Fang Yi đi Phnom Pênh vào tháng Chạp để ký thỏa ước viện trợ cho Kampuchia, cung cấp “toàn bộ trang thiết bị”. Lý do Trung Hoa trì hoãn trả lời thư xin viện trợ mới của Việt Nam có lẽ là do tình hình chính trị bất ổn ở Bắc Kinh. Thật ra, Trung Hoa phải mất bốn tháng mới trả lời thư xin viện trợ của Việt Nam là vì những tranh luận trong nội bộ về việc này. Nội dung cuộc tranh luận không bao giờ được công bố nhưng phía Việt Nam hy vọng một đường lối ôn hòa mới ở Bắc kinh do Đặng duyệt lại những sai sót. Mãi đến cuối năm 1978, khi Đặng trở thành một nhà lãnh đạo vô song, và do tình hình quốc tế thay đổi, Đặng mới hết sức cương quyết với kẻ thù Việt Nam. Vào mùa xuân 1977, không do nhóm theo Mao tập trung quanh Hoa Quốc Phong, cũng không do nhóm thực tế quanh Đặng đủ an toàn để đưa ra một chính sách ngoại giao mới, đặc biệt đi ngược với chính sách đã có từ 1975. Trong cái nhìn cay đắng do việc tranh chấp lãnh thổ tạo ra, Hà Nội đão ngược chính sách đối xử với nhóm dân thiểu số Trung Hoa ở Việt Nam và hướng về việc xây dựng một ưu thế ở Đông Dương, một thực tế mà Trung Hoa không dễ gì có được. Các nhà lãnh đạo Trung Hoa cần có quan điểm, sự ngụy biện, một loạt cố gắng chính trị để khuyến khích Việt Nam tìm kiếm chính sách độc lập và không giải thích quan tâm của họ về an ninh của Việt Nam. Thay vì hoan hô những cố gắng của Việt Nam nhằm cải thiện quan hệ với Tây phương, tạo cân bằng với Moscow thì các nhà lãnh đạo Trung Hoa lại nhăn mày trước chuyển biến này. Cuối cùng, sức nặng của hàng ngàn năm lịch sử đô hộ và mối sợ hãi về liên minh Việt-Xô quyết định con đường phải theo là đối đầu với Hà Nội. Nó là cây gậy hơn là củ cà rốt. Chọn con đường truyền thống và an toàn chính trị, Bắc Kinh tự mình hủy bỏ một sức đẩy vẫn còn hướng về phía Việt Nam.
Trong khi Trung Hoa đáp ứng nhỏ giọt hy vọng của Hà Nội muốn xích lại gần hơn, họ ước muốn những người lãnh đạo mới ở Trung Hoa sẽ rời xa bọn Khmer Đỏ. Tuồng như sự xa cách giữa hai bên cũng có phần gia tăng. Sau 5 tháng lơ là vùng Đông Nam Á vì Bắc Kinh đang gặp cơn rối loạn, các nhà lãnh đạo Trung Hoa một lần nữa lại chú tâm vào vùng này. Trong một cố gắng rõ ràng cho thấy có nứt rạn ở Trung Hoa là vì chính sách cấp tiến trong thời gian qua, tính thực dụng của Chu Ân Lai, bà vợ góa của ông nầy, Đặng Dĩnh Châu, với sứ mạng cao cấp hàng đầu của Trung Hoa đi thăm Miến Điện. Cuộc viếng thăm này tiếp nối những cuộc viếng thăm trước ở Pakistan và Tích Lan. Sau nhiều tháng vắng bóng ở Bắc Kinh, Ieng Sary lại đi Trung Hoa và được các viên chức cao cấp mời tiệc. Hà Nội lưu tâm tới sự có mặt của tướng Wang Shangrong, phó tham mưu trưởng quân đội Trung Hoa trong bữa tiệc ngày 31 tháng Ba do phó thủ tướng Lý Tiên Niệm khoản đãi Ieng Sary. Sự hiện diện của tướng Wang có thể cho thấy Trung Hoa đã lên lịch trình hợp tác quân sự với Kampuchia.
Trung Hoa khuyến khích Kampuchia vượt qua thế đứng đơn độc và ve vãn các nước không Cọng sản ở trong vùng. Giới truyền thông Trung Hoa vốn lưu ý sự im lặng đáng ngờ của thứ trưởng Ngoại giao Phan Hiền qua chuyến đi thăm các nước trong Hiệp Hội Đông Nam Á (Asean) hồi tháng Bảy/1976 (cuộc viếng thăm đầu tiên từ khi chiến tranh chấm dứt) đã khuyến khích Ieng Sary đi thăm các nước trong vùng. Để trấn an, Ieng Sary mang tới cho các nước Mã Lai, Singapore, và Miến Điện, một điện văn nói rằng không có sự kết hợp thành “Đông Dương Đỏ” dưới sự kiểm soát của Hà Nội. Ieng Sary nói với phó thủ tướng Singapore Sinnathamby Rajaratnam rằng “Người Kampuchia không tin vào Liên bang Đông Dương”. Sau đó, ông ta tiếp tục báo cho Singapore biết việc tranh chấp biên giới giữa Kampuchia và Việt Nam. Ieng Sary nói -rõ ràng ngược với sự cô lập hiện tại của Kampuchia- điều đất nước ông ta muốn là mối quan hệ láng giềng tốt và buôn bán với Singapore.
Ieng Sary tiếp tục chuyến thăm các nước Đông Nam Á sau nhiều tháng im lặng trước việc Trung Hoa công khai đòi những hòn đảo ở vùng biển Nam Trung Hoa. Một bài trên tờ nhật báo Trung Hoa phát hành hôm 14 tháng 3/1977 nhắc Việt Nam nhớ rằng Trung Hoa tiếp tục đòi đảo Trường Sa (Spratly Islands).(27) Những lời tuyên bố từ Phnom Pênh và Bắc Kinh ngày 17 tháng Tư/1977 trong lễ kỷ niệm chiến thắng lần thứ hai của Khmer Đỏ cho thấy không còn gì nghi ngờ việc Kampuchia muốn tạo thêm căng thẳng với Việt Nam cũng như giao ước của Trung Hoa với chế độ Pol Pot. Trong một bữa tiệc tại Phnom Pênh, Ieng Sary xác nhận môt cách mơ hồ việc thanh trừng những phần tử thân Việt Nam. Tại một bữa tiệc ở Bắc Kinh trong cùng thời gian, bộ trưởng Ngoại giao Trung Hoa Hoàng Hoa hoan hô Kampuchia Dân Chủ đã “triệt phá được âm mưu phá hoại của kẻ thù ở trong và ngoài nước”. Ông ta bảo đảm với Kampuchia rằng Trung Hoa sẽ tiếp tục chính sách ngoại giao của Mao bằng cách liên minh với những nước nhỏ chống lại các nước lớn đang âm mưu lật đổ, can thiệp nội bộ hoặc ức hiếp. Hoàng Hoa nói “Chúng ta tin vào tương lai của hai dân tộc Trung Hoa và Kampuchia cùng đi trên con đường chiến đấu chung”. (28)
Chỉ hai tuần sau khi những lời khuyến khích như vậy được đưa ra, Khmer Đỏ mở một cuộc tấn công lớn vào Việt Nam. Việt Nam trả đủa bằng không kích với loại máy bay A37 do Mỹ để lại. Tuy nhiên, cả hai phía đều không loan báo gì về sự xung đột xảy ra ở biên giới cả. Qua hình thức một văn thư ngoại giao, lời cảnh cáo đầu tiên không được công bố của Việt Nam gởi cho Kampuchia, mãi tới ngày 7 tháng Sáu mới được gởi đi, một ngày trước khi Phạm văn Đồng tới Bắc Kinh. Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam trao thư này cho So Kheang, đại sứ Kampuchia Dân chủ tại Hà Nội, đề nghị thảo luận ở cấp cao để xét lại vấn đề biên giới và chấm dứt “những sự kiện đẫm máu” - rõ ràng nói tới việc Khmer Đỏ tấn công vào Tịnh Biên và nhiều nơi khác trong tỉnh An Giang. Lần đầu tiên Việt Nam chỉ tay tố cáo các nhà lãnh đạo ở Phnom Pênh. Bức công hàm nói rằng “Việc xử dụng những lực lượng vũ trang đáng kể tấn công đồng thời trên một khu vực rộng lớn trong một thời gian lâu dài không thể là sự manh động của chính quyền địa phương”. Công hàm hỏi “có phải đây là hành vi phạm tội của một nhóm người, của những người có đầu óc xấu xa, cố gắng phá hoại truyền thống đoàn kết và hữu nghị kết hợp hai đảng và hai dân tộc chúng ta”.(29)
Một ngày sau, tờ “Quân Đội Nhân Dân” lần đầu tiên công khai nói tới vấn đề biên giới, kêu gọi sẵn sàng chiến đấu, đẩy lùi những cuộc tấn công bất thần của địch. Tuy nhiên, mãi đến 1978, dân chúng Việt Nam mới được thông báo rõ ràng kẻ thù nào và vùng nào trên biên giới bị tấn công.
Ngày 18 tháng Sáu Kampuchia phúc đáp đề nghị của Việt Nam thương thảo vấn đề biên giới, nói rằng có thể xem xét tới vấn đề này “sau một thời gian” khi tình hình trở nên bình thường.(30) Một tuần sau khi Kampuchia lần đầu tiên đưa ra những lời bóng gió về những việc rắc rối với Việt Nam, họ khen ngợi cán bộ và chiến sĩ thuộc tỉnh Kampot, giáp ranh với Việt Nam đã “hy sinh để bảo vệ và gìn giữ mãi mãi lãnh thổ, biển và nước và các hải đảo.” (31)